Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.2 KB, 105 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐẶNG THU HƯƠNG

CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC

ĐỐI

VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA
BÀN HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 8340410
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS Hoàng Văn Hoan

HÀ NỘI, THÁNG 3 NĂM 2018

MỤC LỤC


2


3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
DNNVV
KH&CN


Nghĩa
Doanh nghiệp nhỏ và
vừa
Khoa học và Công nghệ


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế của một quốc gia, doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan
trọng, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Với hoạt
động sản xuất và kinh doanh của mình, doanh nghiệp góp phần phát triển sức
sản xuất, huy động và phát huy các nguồn lực vào phát triển kinh tế xã hội,
tạo đà tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách.
Khổng những thế doanh nghiệp còn có vai trò trong giải quyết các vấn đề xã
hội như xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm… Trong điều kiện nền kinh tế,
những doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa tỏ ra có nhiều lợi thế trong kinh
doanh hơn các doanh nghiệp lớn như cần vốn ít, lao động nhiều, dễ quản lý
nên dễ dàng khởi sự; có thể tận dụng dễ dàng mọi nguồn lực trong xã hội cho
yêu cầu phát triển; dễ linh hoạt về thời gian giao hàng và giá cả nên dễ giao
dịch; có tính linh động, có tính phản ứng nhanh trước sự chuyển biến mạnh về
sản phẩm, dịch vụ, quy trình sản xuất và thị trường. Chính vì vậy, doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngày càng gia tăng về số lượng và đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tác dụng tạo
việc làm của các DNNVV trong thời kỳ kinh tế suy thoái tựa như một chiếc
van an toàn để điều chỉnh kinh tế vĩ mô nền kinh tế, hạn chế những tác động
tiêu cực của các cuộc khủng hoảng kinh tế.
Với nền kinh tế Việt Nam, DNNVV chiếm trên 90% tổng số doanh
nghiệp trong cả nước, cũng đã thể hiện là một trong những động lực tăng

trưởng của nền kinh tế cũng như góp phần tích cực trong việc bảo đảm an
sinh xã hội.... Ở địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, các DNNVV đang có sự
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng cũng như lĩnh vực sản xuất, ngày càng có
nhiều đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của thành


5

phố. Tuy nhiên, trên thực tế các DNNVV còn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế
trong quá trình hoạt động. Hiện nay, DNNVV tuy nhiều nhưng chưa phát huy
được hết tiềm năng, lợi thế. Các DNNVV hiện đang phát triển thiếu định
hướng, mất cân đối. Sự khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường của
DNNVV, một phần xuất phát từ năng lực nội tại yếu kém như quy mô vốn
nhỏ bé, thiết bị công nghệ lạc hậu, một phần là do các chính sách hỗ trợ của
nhà nước đối với DNNVV còn hạn chế, bất cập.
Từ thực tiễn trên, để đảm bảo sự phát triển bền vững của khối DNNVV,
khắc phục những yếu kém, phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế, việc
hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các DNNVV trên địa bàn thành phố Hà
Nội là hết sức cần thiết, học viên chọn đề tài “Chính sách hỗ trợ của nhà
nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội” làm luận
văn tốt nghiệp chuyên ngành quản lý kinh tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Một số công trình nghiên cứu trong nước đáng chú ý có thể kể ra:
- Sách chuyên khảo: “Tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa” – tác giả Phạm Quang Trung và cộng sự (2009). Cuốn
sách trình bày những lý thuyết cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cũng như gợi ý các giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh trong
điều kiện hội nhập quốc tế.
- Sách chuyên khảo:” Chính sách kinh tế và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp” – tác giả Đinh Thị Nga (2011). Cuốn sách trình bày một số vấn

đề lý luận và thực tiễn về tác động của hệ thống chính sách kinh tế đối với
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thực trạng sự tác động ấy đối với
doanh nghiệp Việt Nam, qua đó đề ra một số quan điểm, giải pháp hoàn thiện
hệ thống chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao
năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập.


6

- Đề tài cấp bộ: ”Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy sự phát triển
DNNVV trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện gia nhập WTO” - chủ
nhiệm Phạm Thị Minh (2007). Đề tài đã tập trung nghiên cứu những vấn đề
chung về DNNVV, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp,
kinh nghiệm quốc tế về phát triển DNNVV trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, kinh nghiệm hỗ trợ phát triển DNNVV.
- Nghiên cứu về “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các nền kinh
tế ASEAN” (Development of small and medium enterprise in the ASEAN
economics) của Yuri Sato (2015) đã chỉ ra doanh nghiệp nhỏ và vừa được
xem là có tiềm năng lớn để góp phần phát triển khu vực ASEAN thông qua
việc tham gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế hoặc các chuỗi giá trị toàn
cầu.
- “Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Việt Nam đến năm 2005” (2000), tác giả Nguyễn Cúc đã đi sâu nghiên
cứu thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
- Lê Du Phong trong cuốn “Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong lĩnh vực khoa học công nghệ - kinh nghiệm Hungary và vận dụng
vào Việt Nam” (2006).
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đưa ra cách nhìn tổng quát về
vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh nghiệm về phát triển DNNVV của
một số địa phương, các giải pháp phát triển DNNVV ở nhiều khía cạnh; các

góc độ về chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với DNNVV. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có công trình nào nghiên cứu tổng quát về công tác chính sách hỗ
trợ của nhà nước đối với các DNNVV trên địa bàn Hà Nội. Do vậy, đây chính
là khoảng trống để xác định nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu


7

Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn Hà Nội.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung thực hiện
các nhiệm vụ chính sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp nhỏ và vừa, các
chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các DNNVV. Nghiên cứu kinh nghiệm
thực tiễn chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của
một số địa phương có điều kiện tương đồng Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2012 - 2017. Từ đó
tìm ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân tồn tại những hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách hỗ trợ
của nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách hỗ trợ
của nhà nước đối với các DNNVV.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: nghiên cứu về chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong đó chủ thể của các chính sách là các cơ quan

quản lý nhà nước; đối tượng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Về không gian và thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu chính sách
hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở quận Hà Đông từ năm
2012 đến năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu


8

Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn dựa
trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp một số
phương pháp như: thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp với tài liệu là các báo
cáo về hoạt động quản lý, các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các
DNNVV trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2012 - 2017.
Tiến hành điều tra khảo sát về nội dung nghiên cứu của đề tài tại một số
cơ quan ban ngành liên quan như Sở Tài chính, Cục thuế, Cục quản lý thị
trường cũng như quan sát tình hình thực tế tại doanh nghiệp về cơ cấu tổ
chức, mô hình làm việc và cách thức kinh doanh nhằm đánh giá được thực
trạng, xác định những bất cập, từ đó đề xuất giải pháp của đề tài.
6. Nội dung luận văn
Nội dung luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, tài
liệu tham khảo và 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học về chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2: Thực trạng chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ
của nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội



9

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CỦA NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp nhỏ



vừa
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các DNNVV là một tập hợp không đồng nhất, hoạt động trên một diện
rộng từ thợ thủ công sản xuất nông cụ, các quán bán hàng tạp phẩm ở góc phố
đến các công ty phân phối hàng nhập khẩu cho thị trường trong nước hay các
doanh nghiệp quy mô trung bình sản xuất phụ tùng ô tô để bán cho các hãng
sản xuất ô tô đa quốc gia trong nước và quốc tế. Người chủ sở hữu DNNVV
có thể giàu hoặc nghèo. Thị trường hoạt động của các DNNVV cũng rất đa
dạng từ thành thị đến nông thôn, mang tính địa phương, trên toàn quốc, trong
khu vực hay toàn cầu. DNNVV có thể là các doanh nghiệp hoạt động phi
chính thức hoặc hoàn toàn chính thức.
Định nghĩa mang tính thông kê về DNNVV khác nhau theo từng nước
nhưng nhìn chung có 3 tiêu chí định lượng thường được sử dụng để định
nghĩa về DNNVV. Tiêu chí được sử dụng nhiều nhất là số lượng lao động
doanh nghiệp sử dụng. Tiêu chí thứ hai là các số liệu về tài chính của doanh
nghiệp như quy mô doanh thu, thu nhập hoặc tổng giá trị tài sản doanh
nghiệp. Tiêu chí thứ ba liên quan đến sự độc lập về sở hữu của một DNNVV.
Nhiều quốc gia cho rằng quy mô của một doanh nghiệp có thể nhỏ
nhưng nếu nó thuộc sở hữu của một tập đoàn lớn nào đó hoặc thuộc sở hữu



10
nhà nước thì doanh nghiệp đó cũng không được xem là một DNNVV. Do số
liệu về lao động dễ được thu thập nên tiêu chí này thường xuyên được sử
dụng làm tiêu chí xác định thế nào là DNNVV.
Bảng 1.1: Định nghĩa DNNVV ở một số nước
Nước
Đài Loan
Trung Quốc
Hàn Quốc
Việt Nam
Singapore
Malaysia
Indonesia
Thái Lan
Mauritius
Tanzania
Malawi
Đan Mạch
Pháp
Thuỵ Điển
Phần Lan
Nhật
USA

Năm
Các nước đang phát triển
Đầu thập kỷ 1990
Đầu thập kỷ 1990
1995

Đầu thập kỷ 1990
Đầu thập kỷ 1990
Đầu thập kỷ 1990
Đầu thập kỷ 1990
Đầu thập kỷ 1990
1997
2002
2003
OECD
Đầu thập kỷ 1990
1994
Đầu thập kỷ 1990
1991
1991
1994

Định nghĩa DNNVV
<100 lao động
<100 lao động
<300 lao động
<200 lao động
<100 lao động
<75 lao động
<100 lao động
<100 lao động
<50 lao động
<50 lao động
<50 lao động
<500 lao động
<500 lao động

<200 lao động
<500 lao động
<300 lao động
<500 lao động

Nguồn: OECD (2004), Promoting DNNVVs for Development, Report of 2nd OECD
conference of ministers responsible for DNNVVs, Istanbul, Turkey, tr.15

Một trong những định nghĩa được sử dụng khá rộng rãi trong thời gian
gần đây là định nghĩa của Liên minh châu Âu về DNNVV với việc sử dụng cả
3 tiêu chí về lao động, tài sản/doanh thu và quyền sở hữu doanh nghiệp. Định
nghĩa chính thức của Liên minh châu Âu [30, tr.12] quy định cụ thể như sau:
Mục 1: DNNVV là doanh nghiệp có ít hơn 250 lao động và:
- Có một trong hai tiêu chí sau:
+ Doanh thu hàng năm thấp hơn 40 triệu Euro.
+ Tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán năm nhỏ hơn 27 triệu Euro.


11
- Đáp ứng tiêu chí về tính độc lập quy định tại Mục 3 dưới đây.
Mục 2: Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 50 lao động và:
- Có một trong hai tiêu chí sau:
+ Doanh thu hàng năm thấp hơn 7 triệu Euro.
+ Tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán năm nhỏ hơn 5 triệu Euro.
- Đáp ứng tiêu chí về tính độc lập quy định tại Mục 3 dưới đây.
Mục 3: Doanh nghiệp độc lập là doanh nghiệp không có bất kỳ chủ sở hữu
hay nhóm chủ sở hữu liên kết nào là doanh nghiệp lớn nắm giữ trên 25% vốn
hoặc quyền bỏ phiếu của doanh nghiệp độc lập đó. Điều kiện này không bắt
buộc áp dụng cho các trường hợp doanh nghiệp được đầu tư bởi các quỹ đầu tư
mà không có sự kiểm soát của các quỹ này đối với hoạt động của doanh nghiệp.

Nhìn chung, định nghĩa về DNNVV do mỗi quốc gia đưa ra trên cơ sở
điều kiện phát triển cụ thể của quốc gia đó bao gồm trình độ phát triển của
khu vực DNNVV và điều kiện về số liệu thống kê có thể có được đối với khu
vực doanh nghiệp này.
Ở Việt Nam, theo định nghĩa tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP [3], DNNVV
được định nghĩa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định
pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn
vốn (Tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (Tổng nguồn
vốn là tiêu chí ưu tiên). Có thể thấy cụ thể hơn qua bảng sau:

Bảng 1.2: Định nghĩa về DNNVV ở Việt Nam


12
Quy mô

Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Số lao
động

Doanh nghiệp nhỏ
Tổng
nguồn vốn

Số lao
động


Doanh nghiệp vừa
Tổng
nguồn vốn

Số lao
động

Khu vực

I. Nông,
lâm
nghiệp và
thuỷ sản
II. Công
nghiệp và
xây dựng

10 người
trở xuống

20 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên
trở xuống người đến
tỷ đồng
200 người
200 người đến 100 tỷ
đến 300
đồng
người
10 người 20 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên
trở xuống trở xuống người đến

tỷ đồng
200 người
200 người đến 100 tỷ
đến 300
đồng
người
III.
10 người 10 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 10 Từ trên 50
Thương
trở xuống trở xuống người đến
tỷ đồng
người đến
mại và
50 người
đến 50 tỷ 100 người
dịch vụ
đồng
Nguồn: Lưu Khánh Cường (2008), “Để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển
bền vững”, Tạp chí Kinh tế quản lý (8), tr.23

- Các doanh nghiệp siêu nhỏ là các doanh nghiệp có số lao động bình
quân năm không quá 10 người, không phân biệt khu vực kinh doanh hay
ngành nghề kinh doanh.
- Các doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ là những
doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng hoặc quy mô lao động từ 10
đến 50 người; trong các lĩnh vực khác thì doanh nghiệp nhỏ là những doanh
nghiệp có quy mô vốn dưới 20 tỷ đồng hoặc có quy mô lao động từ 10 đến
200 người.
- Các doanh nghiệp quy mô vừa trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ là
những doanh nghiệp có quy mô vốn từ 10 đến 50 tỷ đồng hoặc quy mô lao

động từ trên 51 đến 100 người; trong các lĩnh vực còn lại thì doanh nghiệp


13
vừa là những doanh nghiệp có quy mô vốn từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng
hoặc quy mô lao động từ 201 đến 300 người.
Từ những nội dung đã nêu trên cho thấy nhận thức, quan niệm và tiêu
chí phân loại DNNVV ở các nước thường không giống nhau do điều kiện và
trình độ phát triển của các nước là khác nhau, song nhìn chung, việc xác định
DNNVV ở các nước đều phải sử dụng những tiêu chí có tính định lượng phù
hợp với điều kiện cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ phát triển. Chính vì
vậy, khái niệm về DNNVV thường được thay đổi và ít được dùng như một
định nghĩa mang tính chất học thuật, có tính chất bắt buộc và tồn tại lâu dài.
Trong phạm vi luận văn này, khái niệm DNNVV được sử dụng thống nhất
theo quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP.
1.1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các điểm mạnh:
- DNNVV dễ khởi nghiệp: Hầu hết các DNNVV đều có thể bắt đầu kinh
doanh ngay khi có ý tưởng kinh doanh với một lượng vốn ít, số lao động
không nhiều, diện tích mặt bằng không lớn và điều kiện làm việc đơn giản.
- Các DNNVV có tính linh hoạt, năng động cao, dễ thích ứng với các
biến động của môi trường kinh doanh, của thị trường. Trong một số trường
hợp, DNNVV còn năng động thích ứng nhanh với những biến động về cơ chế,
chính sách quản lý kinh tế của nhà nước. Trong hoạt động thương mại, nhờ
tính linh hoạt, dễ tham gia thị trường cũng như dễ rút lui khi điều kiện kinh
doanh không thuận lợi nên DNNVV dễ dàng tìm kiếm lợi nhuận từ những
"ngách” của thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế.
- Các DNNVV có một số lợi thế tương đối trong việc khai thác những
tiềm năng phong phú trong dân như khả năng khai thác và sử dụng hiệu quả



14
các nguồn lực đầu vào tại chỗ như lao động, tài nguyên hay nguồn vốn, khai
thác và phát huy các ngành nghề truyền thống của từng địa phương.
- DNNVV có một số lợi thế trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng, qua đó sáng tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu của tiêu dùng. Về khía cạnh này, có thể nói
DNNVV có một số lợi thế trong việc định hướng và làm xuất hiện nhiều nhu
cầu mới từ phía người tiêu dùng.
- DNNVV có lợi thế trong sử dụng lao động. Do quy mô nhỏ nên các
quan hệ lao động trong các DNNVV thường có tính chất thân thiện, gần gũi
và thường xuyên hơn so với các doanh nghiệp lớn. Trong môi trường
DNNVV, người lao động dễ dàng được quan tâm, động viên và khuyến khích
làm việc- điều này rất phù hợp với tâm lý và văn hóa của người Châu Á nói
chung và của Việt Nam nói riêng. Và như vậy, các DNNVV có lợi thế hơn
trong việc tạo động lực tinh thần cho các cá nhân người lao động.
Các điểm yếu:
- Hầu hết các DNNVV có qui mô nhỏ, hoạt động phân tán, thiếu các
nguồn lực để tiến hành các ý tưởng kinh doanh lớn, các dự án đầu tư lớn, các
dự án đầu tư công cộng; không đủ kỹ năng để tham gia cạnh tranh hiệu quả
trong các thị trường với mức tự do hoá ngày càng gia tăng. Quản lý nội bộ
của các doanh nghiệp còn yếu kém. Nhiều doanh nghiệp thiếu tính chiến lược
và kế hoạch dài hạn, phần lớn đội ngũ cán bộ nghiệp vụ chưa qua đào tạo,
quản lý tài chính trong doanh nghiệp thường thiếu minh bạch. Phần lớn các
DNNVV có trình độ KH&CN, trang thiết bị kỹ thuật lạc hậu, suất tiêu hao
nguyên liệu, nhiên liệu cao.


15
- Các DNNVV thường bị yếu thế trong các mối quan hệ với ngân hàng,

với chính phủ và giới báo chí cũng như thiếu sự ủng hộ của đông đảo công
chúng. Do không có lợi thế kinh tế theo quy mô nên các DNNVV thường bị
phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong quá trình phát triển, đặc biệt
là phụ thuộc về thương hiệu hàng hóa, thị trường, công nghệ, tài chính…
Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, các DNNVV dễ dàng bị các DN lớn
thâu tóm hoặc chịu sự cạnh tranh mạnh, dễ bị thua thiệt dẫn đến phá sản.
- Các DNNVV phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh hơn các doanh
nghiệp lớn. Do hạn chế về nguồn vốn và lao động, các DNNVV khó tiếp cận
và thực hiện các cơ hội đầu tư lớn; trong quá trình đầu tư và hoạt động sản
xuất kinh doanh, nếu gặp những điều kiện không thuận lợi sẽ không tránh
khỏi những tổn thất nhất định và thậm chí có thể phá sản nhanh chóng.
Ngoài các nội dung trên, các DNNVV ở Việt nam còn có những điểm
hạn chế sau:
- Giá thành sản phẩm của DNNVV còn cao hơn so với sản phẩm tương
tự trong khu vực và thế giới, do năng lực sản xuất còn hạn chế, chi phí sản
xuất cao,chất lượng sản phẩm còn thấp và thiếu ổn định, mẫu mã hàng hoá thường lạc hậu.
- Khả năng tiếp cận các nguồn lực đầu vào còn hạn chế. Hầu hết các
DNNVV đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn vay ngân
hàng do thiếu tài sản thế chấp. Các DNNVV cũng gặp khó khăn khi chuẩn bị
các hồ sơ vay vốn, kế hoạch kinh doanh, báo cáo tài chính... Ngoài ra, việc
xác định giá trị tài sản thế chấp còn nhiều hạn chế, nguyên nhân là do tài sản
thế chấp của các doanh nghiệp này thường được định giá thấp hơn nhiều so
với giá thị trường. Mặt khác là do tâm lý của các nhà đầu tư.


16
- Khả năng mở rộng thị trường đầu ra, đặc biệt là thị trường quốc tế có
nhiều hạn chế. Hàng hoá của Việt Nam đã có mặt tại thị trường trên 200 nước
và vùng lãnh thổ song khả năng chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước của
các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự vững chắc.

- Sự liên kết, hợp tác hạn chế giữa các doanh nghiệp lớn với DNNVV và
sự liên kết hợp tác theo hiệp hội ngành hàng, theo địa bàn còn lỏng lẻo, đã
hạn chế phần nào khả năng cạnh tranh và phát triển sản xuất kinh doanh của
các DNNVV.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài, DNNVV ở các nước được
xem là một động lực có tầm quan trọng cả về chính trị, xã hội và kinh tế. Cụ
thể, các DNNVV:
Tạo được nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và
qua đó góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững
Các DNNVV thường được xem là khu vực tạo ra việc làm và thu nhập
nhiều nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là ở các nền kinh tế đang phát triển.
Theo báo cáo tại Hội nghị Istanbul của OECD năm 2004, các DNNVV tạo
trên 65% công ăn việc làm ở các quốc gia có thu nhập cao. DNNVV và các
doanh nghiệp thuộc khu vực không chính thức đóng góp trên 70% tổng lao
động của các quốc gia có thu nhập thấp và tạo trên 95% công ăn việc làm cho
các quốc gia có thu nhập trung bình [28, tr.15]. Với khả năng tạo ra nhiều
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, DNNVV luôn được xem
là động lực kinh tế quan trọng để giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa các
tầng lớp dân cư, xoá đói giảm nghèo cho các khu vực nông thôn, qua đó giải


17
quyết các vấn đề xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia về phát
triển bền vững.

Bảng 1.3: Đóng góp của khu vực DNNVV trong tổng sản phẩm
nghiệp

công

Đơn vị tính: %

Tên quốc gia
Indonesia
Nhật Bản
Hàn Quốc
Philippines
Singapore
Đài Loan

Năm
1980

1970
34
19
37

1990
23
52
33
24
18
46

30
52
44
27

19
39

Nguồn: APEC (2000), Profile of DNNVV and DNNVV issues in APEC 1990-2000,
APEC DNNVV Working group report, www.apec.org/apec/publications, tr.41

Góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng năng động và
hiệu quả
DNNVV thúc đẩy cạnh tranh và tinh thần kinh doanh và do vậy phát
triển DNNVV tạo ra những lợi ích to lớn trong việc nâng cao hiệu quả chung,
tính sáng tạo đổi mới cũng như tăng trưởng năng suất lao động gộp của nền
kinh tế. Như vậy, việc Chính phủ trợ giúp trực tiếp các DNNVV sẽ giúp đất
nước khai thác được các ích lợi của cạnh tranh và tinh thần kinh doanh [29,
tr.2].
Đóng góp vào năng lực sản xuất và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
Theo Báo cáo tại Hội nghị của OECD về DNNVV, Istanbul năm 2004,
các DNNVV đóng góp trên 55% GDP ở các quốc gia có thu nhập cao, trên
60% GDP của các quốc gia có thu nhập thấp và khoảng 70% tổng GDP cho


18
các quốc gia thu nhập trung bình [28, tr.15]. Cụ thể, các DNNVV ở Anh hàng
năm tạo ra doanh thu khoảng 1000 tỷ Bảng Anh đóng góp cho nền kinh tế. Ở
Ấn Độ, các doanh nghiệp công nghiệp quy mô nhỏ cũng đóng một vai trò hết
sức quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế với hơn 40% tổng giá trị
gia tăng trong sản xuất công nghiệp nước này [27, tr.6]
Theo nghiên cứu của Diễn đàn Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, trong
hoạt động những thập kỷ gần đây, các DNNVV có đóng góp ngày càng lớn
hơn vào hoạt động của các nền kinh tế thành viên tổ chức này. Bảng 1.3 cho
thấy, trong những năm 1990, khu vực DNNVV ở các nước như Indonesia,

Hàn Quốc đều có mức tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là tỷ trọng đóng góp của
khu vực kinh tế này trong tổng sản phẩm công nghiệp của nền kinh tế.
Góp phần xây dựng một thể chế kinh tế thị trường hoàn chỉnh
Do đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô nhỏ, các DNNVV
góp phần quan trọng trong việc phá vỡ thế độc quyền của các doanh nghiệp
nhà nước quy mô lớn, đưa thị trường trở lại với xu thế cân bằng thông qua việc
tham gia rộng rãi vào cả hai lực lượng “cung” và “cầu” của thị trường. Bên
cạnh đó, với đặc tính sáng tạo và khả năng phát hiện các thị trường ngách, hoạt
động của các DNNVV cũng làm cho cấu trúc phân bổ các nguồn lực kinh tế
của đất nước được vận hành tốt hơn theo cơ chế thị trường và do vậy, hiệu quả
hơn. Với một lượng lớn doanh nghiệp thành lập mới, bắt đầu những hoạt động
kinh doanh mới và cũng ngần đó doanh nghiệp chấm dứt các hoạt động kinh
doanh không hiệu quả, khu vực DNNVV luôn duy trì được một động lực năng
động cho nền kinh tế, đồng thời cho phép loại bỏ dễ dàng các doanh nghiệp
không còn hiệu quả, góp phần duy trì cân bằng các lực lượng cung và cầu
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường một cách liên tục, bền vững.


19

1.1.2. Tính tất yếu của sự phát triển DNNVV ở Việt Nam
Sự phát triển của các DNNVV ở Việt Nam là tất yếu bởi:
Thứ nhất, các lý thuyết kinh tế học đã chỉ ra sự tồn tại khách quan của
khu vực DNNVV trong mỗi nền kinh tế. Lý thuyết về tính phi kinh tế của quy
mô (Coase 1937, Williamson 1975) đã chứng minh rằng khi sản lượng tăng
lên một mức nào đó thì chi phí trung bình cho một đơn vị sản phẩm sẽ tăng lên.
Nguyên nhân là do hiệu quả của quản lý, công nghệ, mạng lưới phân
phối,...thường giảm đi khi quy mô tăng lên, quá trình ra các quyết định quản lý
trong tổ chức lớn thường bị chậm chễ và không sâu sát do bộ máy cồng kềnh,
thông tin nội bộ hạn chế. Người quản lý trong các nhà máy lớn hiếm khi hiểu

hết được các nhân viên của mình. Trong khi đó người lao động trong các nhà
máy này thường cũng thiếu động lực làm việc hơn so với các doanh nghiệp gia
đình quy mô nhỏ. Một bất lợi rõ rệt khác của các doanh nghiệp lớn là các kênh
bán hàng và phân phối quá cồng kềnh cũng gây ra chi phí lớn và kém hiệu
quả.
Theo nghiên cứu của Tea Petrin về quy mô sản xuất tối ưu, quy mô sản
xuất tối ưu của từng ngành, từng lĩnh vực hay đối với từng sản phẩm cụ thể sẽ
phụ thuộc vào mức độ phát triển về công nghệ của từng nền kinh tế. Một vài
hàng hoá có thể sản xuất ở mức sản lượng tối ưu rất thấp từ 1-3 công nhân,
trong khi các hàng hoá khác quy mô sản xuất tối ưu có thể lại rất lớn từ vai
trăm đến vài nghìn lao động cho một nhà máy. Quy mô sản xuất tối tư, đồng
thời còn phụ thuộc vào cấu trúc tối ưu của thị trường của một nền kinh tế cụ
thể. Cấu trúc này cũng còn phụ thuộc vào quy mô dân số, mức độ phát triển
của thị trường, mức độ phân biệt sản phẩm, hệ thống kinh tế xã hội, mức độ
cạnh tranh từ nước ngoài,...Nếu cấu trúc về quy mô doanh nghiệp ở một nền


20
kinh tế không được phân bổ tối ưu, nghĩa là có quá nhiều doanh nghiệp quy
mô lớn hoặc có quá nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ, thì việc sử dụng các
nguồn lực của nền kinh tế này là không hiệu quả. Ví dụ như trong trường hợp
có quá nhiều doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp này sẽ phải dàn trải nguồn
lực để sản xuất tất cả các loại sản phẩm, trong đó có nhiều sản phẩm doanh
nghiệp nhỏ sản xuất sẽ hiệu quả hơn.
Lý thuyết về tổ chức sản xuất công nghiệp đã chỉ ra rằng các yếu tố về
nguồn tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, chính sách và các định chế quyết
định cấu trúc sản xuất công nghiệp và quy mô tối ưu của các hãng sản xuất
của một quốc gia. Ví dụ, một số nước với nguồn lực dồi dào về tài nguyên
thiên nhiên sẽ có lợi thế so sánh trong việc sản xuất sản phẩm sử dụng tài
nguyên đó và do vậy sẽ tổ chức sản xuất sản phẩm đó một cách hiệu quả ở

quy mô lớn; trong khi đó các nước khác lại có lợi thế so sánh trong việc sản
xuất một sản phẩm khác một cách hiệu quả nhất ở mức quy mô nhỏ.
Có thể nói rằng, số lượng của mỗi loại doanh nghiệp: Nhỏ-Vừa-Lớn ở
mỗi quốc gia sẽ phụ thuộc vào sự phân công lao động, chuyên môn hoá của
nền kinh tế nước đó theo hướng công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ. Nhìn
chung, sự tồn tại của các DNNVV bên cạnh các doanh nghiệp lớn là tuyệt đối
cần thiết, nó đảm bảo cho sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực của đất nước
cũng như sự vận hành của nền kinh tế.
Thứ hai, nền kinh tế một quốc gia là tổng hợp các doanh nghiệp lớn, bé
tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các
DNNVV. Quy luật đi từ nhỏ đến lớn là con đường tất yếu của sự phát triển bền
vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường . Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp


21
làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo
nên sự đa dạng, phong phú, linh hoạt, vừa đáp ứng những nhu cầu phát triển đi
lên lẫn những biến đổi nhanh chóng của thi trường trong điều kiện của cuộc
cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của nền
kinh tế.
Thứ ba, đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Với những đặc điểm của một nền kinh tế chuyển đổi như xuất phát
điểm thấp, tính cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế, trình độ và năng
lực của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường còn nhiều bất cập,
nếu loại trừ sự tác động chủ quan của nhà nước trong việc thành lập các tổng
công ty, các tập đoàn kinh tế nhà nước, hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh có quy mô lớn hiện nay như: Cà phê Trung Nguyên, tập đoàn FLC,
Trường Hải group, FPT, Vingroup,…đều đi lên từ các DNNVV. Với những
đặc điểm riêng có của loại hình DNNVV, cùng với những minh chứng rõ ràng

cả về lý luận và thực tiễn như trên, có thể khẳng định sự tồn tại và phát triển
của các DNNVV ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
1.2. CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.2.1. Khái niệm chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái
niệm chính sách được thể hiện khác nhau. Chẳng hạn, "Chính sách là các chủ
trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực
chính trị - xã hội".[Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), Chính sách trợ giúp phát


22
triển DNNVV, Kỷ yếu Hội thảo Tuần lễ DNNVV, Hà Nội]. Theo Từ điển tiếng
Việt (1998), Nxb Đà Nẵng, tr.157, "Chính sách là những sách lược và kế
hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị
chung và tình hình thực tế mà đề ra";
Có rất nhiều loại chính sách, trong đó có loại chính sách chung như:
Chính sách đối ngoại của Nhà nước, chính sách kinh tế, chính sách xã hội,
chính sách tiền tệ,... Trong các loại chính sách chung lại có các chính sách đối
với từng lĩnh vực cụ thể, ví dụ: Trong chính sách kinh tế có các chính sách
thương mại, chính sách tài chính... Trong chính sách tiền tệ có chính sách thị
trường tự do, trong chính sách xã hội có chính sách dân tộc... Chính sách
được thực thi khi được thể chế hoá bằng pháp luật. Nói một cách khác, pháp
luật là kết quả thể chế hoá đường lối, chính sách, là công cụ để thực thi chính
sách. Trong phạm vi đề tài này, tác giả xem xét chính sách theo góc độ là một
công cụ hỗ trợ cho các DNNVV nhằm mục tiêu ổn định phát triển kinh tế hay
là một công cụ quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước.
Một cách khái quát, có thể định nghĩa: Chính sách hỗ trợ của nhà nước
đối với các DNNVV là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc, mục tiêu

và giải pháp mà các quốc gia sử dụng nhằm hỗ trợ cho sự phát triển các
DNNVV hướng tới mục tiêu chung là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của quốc
gia đó.
Mục đích của chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các DNNVV là
nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó nâng cao vị thế cạnh tranh
của quốc gia.


23

1.2.2. Các yếu tố cơ bản của chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các yếu tố cơ bản của một chính sách nói chung và chính sách hỗ trợ của
nhà nước đối với DNNVV thường bao gồm: các yếu tố đầu vào, các hành
động, đầu ra, kết quả và tác động của chính sách:
- Đầu vào (Inputs): đây là các nguồn lực của chính sách; trong chính
sách nhà nước hỗ trợ DNNVV gồm: nhân lực, tài lực, vật lực và thông tin liên
quan tới hoạt động của các doanh nghiệp.
- Hoạt động (Activities): là những hành động thực hiện chính sách; đối
với chính sách nhà nước hỗ trợ DNNVV đó là (i) xây dựng thể chế như ban
hành các văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy QLNN đối với DNNVV, (ii) xác
định đối tượng doanh nghiệp thụ hưởng và các mức ưu đãi đối với DNNVV
như ưu đãi về thuế, tín dụng, hỗ trợ trực tiếp và (iii) xác định phương thức
đào tạo, thông tin, tuyên truyền nhằm thúc đẩy sự phát triển của DNNVV.
- Đầu ra (Outputs): là các sản phẩm/dịch vụ được tạo ra bởi chính sách;
đối với chính sách nhà nước hỗ trợ DNNVV đó là các văn bản quy phạm pháp
luật, những ưu đãi (về thuế, tín dụng, hỗ trợ trực tiếp, v.v.), thông tin, những
hỗ trợ khác nhằm thúc đầy sự phát triển của DNNVV.
- Kết quả (Outcomes): là những ảnh hưởng/thành tựu của hành động và

đầu ra của chính sách. Kết quả của chính sách nhà nước nhằm hỗ trợ DNNVV
thể hiện ở việc các DNNVV nhận thức tốt hơn về chủ trương, chính sách của
nhà nước, kết quả tích cực trong tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính,...
của các doanh nghiệp.


24
- Tác động (Impacts): là những ảnh hưởng lâu dài của chính sách, đây là
cái đích cuối cùng mà chính sách hướng tới. Đối với chính sách nhà nước hỗ
trợ các DNNVV, tác động của chính sách là doanh nghiệp cải thiện được vị
thế cạnh tranh, đạt được các hiệu ứng lan tỏa, góp phần thực hiện các mục
tiêu quản lý vĩ mô của quốc gia.
1.2.3. Vai trò của các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với sự phát
triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.3.1. Vai trò của chính sách hỗ trợ đối với các DNNVV
Nâng cao năng lực của các DNNVV: Các DNNVV thường rất yếu ớt, đặc biệt
trong kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế như : năng lực quản lý
yếu, công nghệ lạc hậu, vốn ít…Do đó, để nâng cao năng lực và để các DNNVV có thể
tự phát huy sức mạnh của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi: Trong khi hoạt động, các DNNVV có nhiều
vấn đề mà bản thân không thể tự giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực…Chỉ khi có sự
hỗ trợ của các chính sách của Nhà nước thì những vấn đề này mới được giải quyết một
cách dễ dàng. Do vậy, sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vững được trên thị trường và phát
triển thuận lợi. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, để các DNNVV đứng vững và
vươn lên, Nhà nước cần có những chính sách và giải pháp hỗ trợ đắc lực cho các doanh
nghiệp này.

1.2.3.2. Vai trò của chính sách hỗ trợ đối với nhà nước và xã hội

Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các doanh
nghiệp mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các mặt:
Nuôi dưỡng các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước: Các DNNVV thường
chiếm một tỉ lệ rất lớn trong nền kinh tế của các nước. Do vậy, đóng góp cho ngân


25
sách Nhà nước của các DNNVV không phải là nhỏ. Đặc biệt khi Nhà nước có
những chính sách hỗ trợ để các DNNVV phát triển cả về số lượng và quy mô thì
lượng tiền mà các DNNVV đóng góp cho ngân sách Nhà nước càng không phải là
nhỏ.
Là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước: Thay vì phải đầu tư trực tiếp để thành
lập các doanh nghiệp Nhà nước (như mô hình kinh tế hiện vật trước đây ở Việt Nam)
Nhà nước có thể đầu tư gián tiếp thông qua việc hỗ trợ cho các DNNVV với số lượng
lớn trong nền kinh tế.
Tăng hiệu quả của việc đầu tư sản xuất: Thông qua các chính sách phát triển
DNNVV Nhà nước vừa huy động được mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm lực trong dân,
vừa thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước.
Góp phần giải quyết những vấn đề xã hội: Khi các chính sách hỗ trợ DNNVV có
hiệu quả thì các vấn đề như thất nghiệp sẽ giảm. Bởi lẽ, khi các DNNVV phát triển sẽ tạo
nhiều việc làm. Điều này rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước( thay vì
thành lập các doanh nghiệp mới Nhà nước, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho rất nhiều
doanh nghiệp đã sẵn có).
Định hướng phát triển các DNNVV: Thông qua các chính sách, Nhà nước có thể
điều tiết khá dễ dàng sự phát triển của các DNNVV. Đối với những ngành cần phát triển
đầu tư, Nhà nước tạo nhiều ưu đãi và thuận lợi cho các DNNVV. Ngược lại, những
ngành, vùng cần thu hẹp thì Nhà nước cũng có thể hạn chế sự tham gia của các DNNVV.
Như vậy, các chính sách phát triển DNNVV là rất cần thiết.

1.2.4. Phân loại các chính sách hỗ trợ nhà nước đối với doanh nghiệp

nhỏ và vừa
Có nhiều cách phân loại chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với DNNVV như:
Phân loại theo mức độ tác động, theo thời gian, theo chủ thể ban hành chính sách, theo
công cụ chính sách,...Luận văn phân loại chính sách theo công cụ chính sách, theo đó để


×