Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

QUAN điểm cải THIỆN môi TRƯỜNG đầu tư của VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.07 KB, 15 trang )

QUAN ĐIỂM CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố của quốc qia, địa phương ảnh hưởng tới
hoạt động đầu tư và phát triển kinh tế.Môi trường đầu tư tổng thể, bao gồm các môi
trường bộ phận, đó là: Môi trường tự nhiên(đất đai,vị trí địa lý, khoáng sản, khí hậu...);
môi trường chính trị tình hình chính trị, mức độ ổn định chính trị); môi trường pháp
luật(hiến pháp,các đạo luật cụ thể), môi trường kinh tế(trình độ phát triển kinh tế, quy mô
thị trường,cơ sở hạ tầng...) và môi trường văn hóa, xã hộị (dân tộc, tôn giáo, phong tục,
tập quán...)
Môi trường đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình thu hút và thực hiện
hoạt động đầu tư. Môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại lợi ích cho nhà đầu tư, mà
cho cả nền kinh tế xã hội. Môi trường đầu tư không cố định, luôn vận động. Cải thiện môi
trường đầu tư là cần thiết, phải được thực hiện thường xuyên, liên tục nhằm thu hút có
hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước.Môi trường
đầu tư nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế. Quá trình cải thiện môi trường đầu tư,
trước hết cần quán triệt các quan điểm sau:
-Cải thiện môi trường đầu tư phải đi trước một bước: Mục tiêu thu hút vốn đầu tư
không chỉ là khối lượng vốn đầu tư mà còn là chất lượng đầu tư (hiệu quả nguồn vốn đầu
tư). Việc thu hút có hiệu quả vốn đầu tư chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường đầu tư.
Môi trường đầu tư ảnh hưởng tới chi phí, rủi ro, rào cản cạnh tranh của hoạt động đầu tư,
từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư căn cứ vào môi trường
đầu tư để quyết định đầu tư như thế nào, đầu tư vào vùng nào, ngành nào, đầu tư bao
nhiêu. Vì vậy, môi trường đầu tư là tiền đề, cần được quan tâm đầu tư, cải thiện, môi
trường đầu tư cần phải đi trước một bước, có môi trường đầu tư tốt sẽ thu hút hiệu quả
các nguồn vốn đầu tư kể cả trong và ngoài nước.
- Cải thiện môi trường đầu tư phải thường xuyên và định kỳ: Môi trường đầu tư cần
phải được đánh giá thường xuyên, liên tục và theo định kỳ để phát hiện những hạn chế,
bất cập, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục. Môi trường đầu tư là tổng hòa của nhiều
yếu tố luôn vận động, thay đổi tạo ra các trạng thái khác nhau. Việc đánh giá môi trường



đầu tư thường xuyên và định kỳ là một nhiệm vụ, là đòi hỏi khách quan để ngày càng
hoàn thiện hơn môi trường đầu tư, thu hút vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
Cải thiện môi trường đầu tư thường xuyên và định kỳ tạo niềm tin hiện tại và
tương lai cho nhà đầu tư. Họ tin tưởng rằng môi trường đầu tư ngày càng tốt hơn, là định
hướng để đầu tư hiệu quả.
-Cải thiện môi trường đầu tư hệ thống, đồng bộ, hợp lý; kết hợp cải thiện từng
bước với những đột phá: Cải thiện hệ thống, đồng bộ, hợp lý các yếu tố của môi trường
đầu tư tránh sự không thống nhất trong từng yếu tố, và giữa các yếu tố của môi trường
đầu tư, giữa môi trường đầu tư địa phương với môi trường đầu tư quốc gia và môi trường
đầu tư quốc gia với môi trường đầu tư quốc tế. Hiện nay cần đặc biệt quan tâm cải thiện
những điểm yếu hạn chế đầu tư, đó là môi trường pháp lý và cơ sở hạ tầng.
Quá trình cải thiện môi trường đầu tư phải theo tuần tự, từng bước; tuy nhiên cần
có những đột phá cần thiết do đòi hỏi của thực tiễn.
-Quá trình cải thiện môi trường đầu tư phải bảo đảm nguyên tắc tập trung, dân
chủ từ Trung ương đến địa phương: Nguyên tắc này đòi hỏi khi cải thiện môi trường đầu
tư cần có sự quản lý thống nhất từ Trung ương nhưng phải phát huy tính chủ động, sáng
tạo của các địa phương. Vốn đầu tư vào các địa phương khác nhau không phải chỉ là do
môi trường đầu tư cứng mà còn do năng lực quản lý điều hành của chính quyền địa
phương. Sự khác biệt về môi trường đầu tư giữa các địa phương cho thấy việc phát huy
tính dân chủ là cần thiết để đẩy mạnh quá trình cải thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên,
những quy định của Trung ương có thể được áp dụng khác nhau giữa các địa phương gây
ảnh hưởng tới lợi ích của cả nước và làm xói mòn niềm tin của nhà đầu tư. Vì vậy, cần
đảm bảo nguyên tắc tập trung và dân chủ trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư là
cần thiết.
Quá trình phân cấp quản lý đầu tư và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các địa
phương, đã quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế, phát huy tính
chủ động, sáng tạo của các địa phương. Tuy nhiên, việc phân cấp chỉ đạt hiệu quả cao khi
các địa phương có đủ điều kiện, năng lực đánh giá dự án, thực thi nhiệm vụ.



-. Cải thiện môi trường đầu tư cần quan tâm đến lợi ích của nhiều bên: Mục tiêu của nhà
đầu tư là lợi nhuận, nhưng dự án chỉ được chấp nhận khi nó mang lại lợi ích cho toàn xã
hội, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.
Lợi ích nhà đầu tư thu được không phải luôn đồng nhất với lợi ích xã hội thu được. Do
đó, khi đánh giá hiệu quả dự án cần đánh giá cả hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã
hội. Quá trình cải thiện môi trường đầu tư cần tạo điều kiện thuận lợi để tối đa hóa lợi
ích, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa nhà đầu tư với lợi ích xã hội và các chủ thể khác có liên
quan.
-Cải thiện môi trường đầu tư phải phù hợp với điều kiện đất nước, địa phương và
bối cảnh môi trường đầu tư quốc tế: Cải thiện môi trường đầu tư cần phải xuất phát từ
thực trạng môi trường đầu tư của Việt Nam và các địa phương.Khi cải thiện môi trường
đầu tư, không thể áp dụng cứng nhắc mô hình của các nước khác vào Việt Nam.
Quá trình cải thiện môi trường đầu tư quốc gia chịu tác động của nhiều nhân tố
khách quan bên ngoài, như: Xu hướng tự do hóa, toàn cầu hóa, xu hướng phát triển khoa
học và công nghệ… Cải thiện môi trường đầu tư quốc gia cần liên kết chặt chẽ với môi
trường đầu tư quốc tế, chủ động hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
-Xã hội hóa quá trình cải thiện môi trường đầu tư: Cải thiện môi trường đầu tư
phải thường xuyên, liên tục, liên quan đến nhiều chủ thể và cần nhiều nguồn lực.Xã hội
hóa quá trình cải thiện môi trường đầu tư cần huy động và khuyến khích tối đa mọi nguồn
lực trong và ngoài nước tham gia.Cần xác định rõ lợi ích mang lại cho từng chủ thể tham
gia và lợi ích mang lại cho toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm và chế
tài đối với những cơ quan quản lý nhà nước và những chủ thể tham gia cải thiện môi
trường đầu tư.
Gắn kết chặt chẽ quá trình cải thiện môi trường đầu tư với hoạt động xúc tiến đầu
tư: Giữa môi trường đầu tư và xúc tiến đầu tư có mối quan hệ biện chứng với nhau. Môi
trường đầu tư là tiền đề, là cơ sở cho hoạt động xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư là cầu nối
giữa môi trường đầu tư và nhà đầu tư. Xúc tiến đầu tư sẽ cung cấp thông tin về môi
trường đầu tư cho nhà đầu tư. Nếu môi trường đầu tư tốt mà nhà đầu tư không biết đến,
công tác xúc tiến đầu tư không hiệu quả thì cũng không thể thu hút được đầu tư. Tuy



nhiên, tạo lập môi trường đầu tư tốt là gốc rễ, là vấn đề quan trọng hàng đầu, kết hợp với
hoạt động xúc tiến đầu tư tích cực, hiệu quả từ đó giúp nhà đầu tư thấy được cơ hội đầu
tư tiềm năng, giúp thu hút đầu tư. Ngược lại, môi trường đầu tư không tốt thì không thể
thu hút được vốn đầu tư dù công tác xúc tiến đầu tư có tốt đến đâu.
Cần gắn kết chặt chẽ giữa quá trình tích cực cải thiện môi trường đầu tư với đẩy
mạnh, đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến đầu tư để nhà đầu tư biết được những thay đổi
có lợi của môi trường đầu tư đối với hoạt động đầu tư, từ đó thu hút được đầu tư, kể cả
trong và ngoài nước.

NHỮNG TÍN HIỆU CẢI CÁCH MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
Chính phủ Việt Nam đã có những hành động quyết liệt cho thời kỳ cải cách, đặc
biệt là cải cách môi trường kinh doanh. Thời gian qua, chúng ta đã thu được những tín
hiệu và kết quả khả quan. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang trong một giai đoạn
đầy “phấn khích”, khi hàng loạt các động thái lắng nghe ý kiến, cam kết thay đổi và tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động đã được Chính phủ cùng các bộ, ngành thực hiện
trong thời gian qua.
Những tín hiệu cải cách:
Những sự kiện được xem là tín hiệu cải cách cho nền kinh tế Việt Nam là kế hoạch
“quốc gia khởi nghiệp”; trong đó hướng tới mục tiêu Việt Nam đến năm 2020 sẽ có 1
triệu doanh nghiệp.Chỉ trong thời gian ngắn, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
19/2016/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020
(Nghị quyết 19/2016); Nghị quyết 35/2016/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
đến năm 2020 với đầy đủ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển (Nghị
quyết 35).
Cùng với đó, các vấn đề cải cách thể chế để tạo thuận lợi cho nền kinh tế cũng
được đặt ra; trong đó mục tiêu mà Chính phủ hướng tới là trở thành một chính phủ kiến
tạo và phục vụ, thay vì điều hành nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính như trước.



Tất cả những tín hiệu trên đang đặt cho doanh nghiệp nhiều kỳ vọng với một bước
ngoặt thật sự về cải cách môi trường kinh doanh và mở ra một giai đoạn mới cho sự phát
triển của doanh nghiệp.
Nhìn lại hơn hai năm trước, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu và rộng vào kinh tế khu vực và thế giới, việc minh bạch hóa, tạo lập môi trường
kinh doanh thông thoáng, thì việc khai thông những vướng mắc trong môi trường kinh
doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu là
một vấn đề cấp thiết.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó, trong hai năm 2014 và 2015, Chính phủ đã ban
hành hai nghị quyết cùng mang số 19: Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 và Nghị
quyết số 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015-2016 (gọi chung
là Nghị quyết 19).Các Nghị quyết 19 được coi là Nghị quyết cải tiến khi lấy chỉ số Doing
Business của một tổ chức quốc tế là Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra để chấm điểm cải
cách trong nước trên nhiều lĩnh vực. Nghị quyết 19 đã đặt mục tiêu Việt Nam có môi
trường kinh doanh bằng tốp đầu của ASEAN.
Kết quả thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP
Theo đánh giá của Chính phủ, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết 19, môi trường đầu
tư kinh doanh Việt Nam đã có bước cải thiện, năng lực cạnh tranh được nâng lên, được
các tổ chức quốc tế có uy tín ghi nhận, cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương
(CIEM) cho biết, Việt Nam được đánh giá là nước có nhiều giải pháp cải cách về môi
trường kinh doanh nhất và có cải thiện nhiều nhất trong số các nước ASEAN. Một số chỉ
tiêu Việt Nam đã vượt so với mục tiêu ASEAN - 6 như: Khởi sự kinh doanh, bảo vệ nhà
đầu tư, chỉ tiêu nộp thuế và bảo hiểm xã hội...
Mặc dù vậy, xét về tổng thể, môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn chưa đạt
được mức ASEAN - 6 vào cuối năm 2015. Thậm chí, một số chỉ tiêu môi trường kinh
doanh của Việt Nam còn bị tụt hạng so với các nước trong khu vực như: Xuất nhập khẩu
thông quan qua biên giới, giấy phép xây dựng.



Theo báo cáo về kết quả triển khai Nghị quyết số 19/NQ-CP năm 2015 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho biết cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao, hoan nghênh những nỗ
lực cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của Chính phủ và các
Bộ, ngành, địa phương. Đã có sự cải thiện tích cực trong lĩnh vực khởi sự kinh doanh, hải
quan, nộp thuế, bảo hiểm xã hội, tiếp cận điện năng, nhờ đó môi trường kinh doanh của
Việt Nam theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới đã được cải thiện.
Thứ hạng của Việt Nam đã có sự cải thiện:
Thứ hạng của Việt Nam tăng 3 bậc, từ vị trí 93 lên 90. Sự cải thiện thể hiện ở 5 chỉ
số gồm: Khởi sự doanh nghiệp (tăng 7 bậc); tiếp cận điện năng (tăng 22 bậc); tiếp cận tín
dụng (tăng 8 bậc); nộp thuế và bảo hiểm xã hội (tăng 4 bậc); giải quyết phá sản doanh
nghiệp (tăng 2 bậc). Do đánh giá của Ngân hàng Thế giới ghi nhận những thay đổi tính
đến thời điểm 31/5/2015, trong khi một số văn bản như Luật Doanh nghiệp có hiệu lực
sau thời điểm đó, nên dự kiến năm 2016, các chỉ số này của Việt Nam sẽ được xếp hạng
tốt hơn.
Về thời gian tiếp cận điện năng, Việt Nam đã giảm được 56 ngày, cải thiện 27 bậc
tuy nhiên thứ hạng vẫn thấp hơn so với các nước ASEAN 4 gồm 4 nước Thái Lan,
Singapore, Malaysia và Philippines. Thời gian nộp thuế và bảo hiểm xã hội Việt Nam đã
giảm 102 giờ, tăng 4 bậc, song thứ hạng vẫn còn thấp…
Cụ thể với một số lĩnh vực: những lĩnh vực có sự cải thiện về thứ hạng chủ yếu do
các bộ, cơ quan: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Ngân hàng Nhà
nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, VCCI đã triển khai thực
hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp theo yêu cầu của Nghị quyết 19/NQ-CP .
Nhưng còn phần lớn các bộ, cơ quan địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu chỉ
đạo của Nghị Quyết 19/NQ-CP. Trong khi nhiều chỉ số đề ra tại Nghị quyết 19/NQ-CP
năm 2015 chưa đạt được yêu cầu, thậm chí một số lĩnh vực không có sự cải thiện hoặc
giảm bậc.
Một số lĩnh vực bị giảm bậc:
-


Thời gian thực hiện các thủ tục cấp phép xây dựng kéo dài thêm 52 ngày;


-

Thủ tục đăng ký sở hữu tài sản tăng lên, điểm số về chất lượng thủ tục hành

chính đất đai ở mức trung bình dưới;
Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư chưa được ghi nhận cải thiện (do thời điểm kết thúc
điều tra thì Luật Doanh nghiệp chưa có hiệu lực);
- Giao dịch thương mại qua biên giới giảm liên tục 2 bậc trong 2 năm gần đây
do những bất cập về quản lý chuyên ngành;
- Chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng không có sự thay đổi về điểm số và thứ
hạng...
Cụ thể một số những bất cập:
- Nghị quyết 19/NQ-CP (năm 2015) đặt ra yêu cầu cải cách toàn diện các quy
định về điều kiện kinh doanh với việc bãi bỏ ít nhất 3.299 điều kiện kinh doanh được quy
định trong các văn bản dưới nghị định theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp từ
1/7/2016, tuy nhiên có tình trạng một số bộ đã và đang tiếp tục soạn thảo, ban hành thông
tư quy định điều kiện kinh doanh.
- Về yêu cầu cải cách toàn diện quy định về quản lý chuyên ngành, Nghị quyết
giao trách nhiệm rất cụ thể cho 13 bộ, ngành liên quan; tuy nhiên mới chỉ có 3 bộ (Tài
chính, Giao thông vận tải, Nông nghiệp & Phát triển nông thôn) chủ động triển khai theo
hướng cải cách này. Các bộ còn lại về cơ bản chưa thực hiện hoặc xây dựng, ban hành
văn bản chưa theo tinh thần cải cách của Nghị quyết 19/NQ-CP, dẫn đến thứ hạng chỉ số
giao dịch thương mại qua biên giới giảm bậc, tạo gánh nặng cho doanh nghiệp, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng tới môi trường kinh doanh.
Thực tế cho thấy, ở các ngành, địa phương mà Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh chỉ
đạo sát sao, đôn đốc, giám sát thực thi, đơn vị đó sẽ thực hiện các giải pháp, đạt được kết

quả như Nghị quyết đề ra. Ngược lại, gần như việc triển khai trên thực tế chưa đạt yêu
cầu, các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết không có chuyển biến đáng kể.
Việt Nam có những lợi thế vì có môi trường xã hội và chính trị ổn định. Nhưng lợi
thế đó không được phát huy, môi trường đầu tư vẫn dậm chân tại chỗ do còn nhiều vấn đề
tồn tại; trong đó có vấn đề từ bộ máy quản lý. Quyết tâm của Chính phủ rất cao nhưng bộ
phận thừa hành còn chưa được cải thiện. Do vậy, cần phải có cơ chế tiếp nhận, xử lý ý
kiến phản hồi của doanh nghiệp để có những đánh giá đúng đắn về tình hình thực tế, từ
đó có những giải pháp can thiệp kịp thời để chính sách của Chính phủ được thực hiện


đúng hướng, giúp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy phát triển doanh
nghiệp hơn nữa.
Các giải pháp chủ yếu:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ
các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
- Thực hiện hiệu quả các đột phá chiến lược, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp, của nền kinh tế.
- Đẩy mạnh xã hội hóa cung cấp các dịch vụ công. Đẩy mạnh hoạt động đầu tư
mạo hiểm, thí điểm cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp công; thực hiện mô hình đơn vị sự
nghiệp công do cộng đồng quản lý; đơn vị sự nghiệp công hoạt động như doanh nghiệp
công ích; cho thuê cơ sở vật chất, tài sản của Nhà nước để kinh doanh dịch vụ công…
- Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và đề cao trách nhiệm
thực thi công vụ của cán bộ, công chức.
- Tổ chức triển khai kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính trọng tâm năm 2015
theo Quyết định số 08/QĐ-TTg ngày 06 tháng 01 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ,
bảo đảm cắt giảm tối thiểu 25% chi phí tuân thủ đối với quy định, thủ tục hành chính liên
quan. Rà soát, chuẩn hóa các thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý, thẩm
quyền giải quyết của Bộ, ngành, địa phương, bảo đảm 100% thủ tục hành chính được
chuẩn hóa, kịp thời công bố, công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính

và niêm yết đồng bộ, thống nhất tại nơi tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính.
- Tổ chức triển khai, thiết lập Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến
nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các
cấp chính quyền thuộc phạm vi quản lý.
- Đẩy mạnh đổi mới, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
quản lý nhà nước, nhất là trong việc giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công
trực tuyến đối với những lĩnh vực bức thiết, liên quan đến người dân và doanh nghiệp.
Từng bước triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, trước hết tập trung xây
dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp...


- Triển khai đồng bộ, hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông và áp dụng Hệ
thống quản lý chất lượng TCVN ISO 9001 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc
hệ thống hành chính nhà nước.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đẩy mạnh phòng chống tham
nhũng, lãng phí. Phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ, công chức có hành vi nhũng
nhiễu, gây cản trở cho tổ chức, cá nhân khi thi hành công vụ.
- Phát hiện, điều tra kịp thời, xử lý nghiêm minh và giải quyết thỏa đáng các khiếu
nại đối với các vụ việc vi phạm cạnh tranh, góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng.
Chính phủ giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương, Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề. Theo đó,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương theo chức
năng, nhiệm vụ được giao:
+ Khẩn trương xây dựng, trình ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư; chỉ đạo và hướng dẫn tổ chức thực hiện đúng, đầy đủ các
quy định của luật, nhất là về khởi sự kinh doanh và bảo vệ nhà đầu tư.
+ Công bố đầy đủ các quy định về điều kiện kinh doanh trên Cổng Thông tin
doanh nghiệp quốc gia; rà soát, đánh giá và kiến nghị bãi bỏ các điều kiện kinh doanh
không cần thiết.

+ Xây dựng cơ chế liên thông chia sẻ thông tin về doanh nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệpđăng ký lao động, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp
luật.
+ Triển khai thực hiện việc sử dụng mã số doanh nghiệp duy nhất, sử dụng chữ ký
số của doanh nghiệp trong tất cả các quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý
nhà nước (Kế hoạch và Đầu tư, Thuế, Hải quan, Bảo hiểm xã hội, Tài nguyên và Môi
trường, Xây dựng...) và trong các hoạt động của doanh nghiệp.
MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ VỚI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM


Mặc dù Việt Nam đã thực hiện cải cách và mở cửa nền kinh tế gần 30 năm, là thành
viên của WTO gần 9 năm nhưng đến nay mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong
nước vào chuỗi giá trị toàn cầu chưa có nhiều cải thiện. Sản phẩm xuất khẩu vẫn dựa
nhiều vào giá nhân công và khai thác tài nguyên của đất nước. Các mặt hàng có lợi thế so
sánh cao vẫn thuộc nhóm sử dụng tài nguyên, lao động giá rẻ như may mặc, da giày, thủ
công mỹ nghệ, nông sản, thủy sản. Hầu hết các sản phẩm của Việt Nam chưa khẳng định
được vị thế trên trường quốc tế. Do vậy, có thể thấy rằng nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là vấn đề không đơn giản. Bài viết dưới đây tập trung đánh giá tác
động của môi trường vĩ mô đối với nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam thời kì hội nhập.
Về cải cách thủ tục hành chính
Cải cách thủ tục hành chính luôn là một trong những trọng tâm chỉ đạo của Chính
phủ nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ tài chính đã
quyết liệt thực hiện triển khai thủ tục hành chính một cách đồng bộ, nhất quán, đặc biệt
trong các lĩnh vực thuế, hải quan. Trong đó, về cải cách thể chế, đã rà soát các văn bản
quy phạm pháp luật, các quy trình thủ tục để cắt giảm, loại bỏ những quy định không phù
hợp, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực thuế, lộ trình cải cách được thực hiện từ năm 2011 đến nay đã có dấu

hiệu khả quan. Năm 2015, thông qua việc cải cách thể chế chính sách, đẩy nhanh tốc độ
dịch vụ khai nộp thuế điện tử, rà soát và chuẩn hóa 70 quy trình, cắt giảm 63 thủ tục, đơn
giản hóa 50 thủ tục về thuế, số giờ thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế
giảm từ 872 giờ (năm 2014) xuống còn 171 giờ (năm 2015). Thông qua việc cắt giảm
thời gian nộp thuế và bãi bỏ những quy định, chứng từ không cần thiết đã giúp hơn 500
nghìn doanh nghiệp được hưởng lợi, từ đó có nhiều thời gian và chi phí tập trung cho
phát triển.
Song song với thuế, hải quan cũng có những bước tiến vượt bậc khi đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin trong cải cách thủ tục hành chính. Việc áp dụng hệ thống thông
quan tự động (VNACCS/VCIS) và cơ chế một cửa quốc gia đã giúp ngành Hải quan có
những bước tiến mới. Kết quả là có hơn 99,65% số lượng tờ khai xuất nhập khẩu đã được
thực hiện thông qua VNACCS, tổng doanh thu đạt 271,5 triệu USD. Bên cạnh đó, thời


gian cho hàng hóa thông quan giảm bình quân từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất
khẩu, 13 ngày đối với nhập khẩu, giảm được 10-20% chi phí và 30% thời gian thông
quan hàng hóa xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Do vậy cải cách thủ tục hải quan đã
mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các doanh nghiệp
Về hạ tầng cơ sở, đặc biệt là hạ tầng cơ sở giao thông
Hạ tầng là nền tảng cho sự phát triển của doanh nghiệp. Trong những năm qua, nước
ta đang tập trung các nguồn lực, ngoài nguồn lực ngân sách, Việt Nam đã huy động đầu
tư của tư nhân trong và ngoài nước, nguồn tài trợ của các quốc gia để phát triển hạ tầng.
Vì vậy, hàng loạt các công trình hạ tầng quan trọng về giao thông như đường cao tốc, cầu
cảng, bến tàu, hạ tầng đô thị… được xây dựng, hoàn thiện, góp phần quan trọng phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng
còn thiếu chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển, bởi hệ thống đường cao tốc đang hoàn
thiện, đường sắt đô thị đang được khởi công xây dựng, hệ thống tàu cao tốc đang được đề
xuất xây dựng…khối lượng công việc còn lại để hoàn thiện mạng lưới hạ tầng giao thông
vẫn còn khổng lồ.
Cơ sở hạ tầng giao thông, đặc biệt là đường bộ, chỉ có 32% đạt loại tốt trở lên, còn

lại 68% là loại trung bình, xấu cần phải bảo dưỡng, nâng cấp ngay. Nhiều tuyến chưa
đảm bảo tiêu chuẩn, cầu và đường chưa đồng bộ, chất lượng mặt đường xuống cấp
nghiêm trọng nên thường xuyên xảy ra tai nạn và ùn tắc như: QL1, QL2, QL3, QL5,
QL6...; đặc biệt ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên, các cầu, cống, tuyến đường xây
dựng trước đây không phù hợp với tình hình thủy văn hiện nay nên dễ bị ngập lụt trong
mùa mưa bão, gây sụt lở.
Bên cạnh đó, hệ thống lưới điện lạc hậu, gây tổn thất điện năng lớn so với các
nước trong khu vực và trên thế giới (tổn thất điện năng của Việt Nam năm 2014 là 8,6%,
trong khi bình quân thế giới là 8,4 %). Hạ tầng đô thị và nông thôn thiếu đồng bộ , chất
lượng kém, tỷ lệ đất dành cho giao thông còn thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu quy định (tại
Hà Nội mới chỉ đạt 6%-7%; TP Hồ chí Minh đạt gần 8% so với yêu cầu là từ 20%-25%)
dẫn đến hiện tượng ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông ngày càng tăng tại các thành phố
lớn.
Về khoa học công nghệ


Khoa học công nghệ là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh. Tuy nhiên, khả năng áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế. Mặt khác, hoạt động khoa học và công
nghệ thời gian qua, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Chi dành cho khoa học và công
nghệ hiện chiếm 2% ngân sách nhà nước, tương đương với mức trung bình các nước trên
thế giới, nhưng do GDP còn thấp, nên nguồn đầu tư cho khoa học và công nghệ của Việt
Nam hàng năm còn rất khiêm tốn. Nếu tính bình quân theo đầu người, vốn đầu tư cho
phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta chỉ đạt 12-13 USD/người, thuộc diện thấp
nhất thế giới, thấp hơn cả một số nước trong khu vực như Philippines, Indonesia… Việc
huy động các nguồn đầu tư xã hội, nhất là từ phía các doanh nghiệp còn thấp. Hiện nay,
đầu tư cho khoa học và công nghệ của khối doanh nghiệp chỉ bằng 50% đầu tư từ ngân
sách nhà nước. Các doanh nghiệp ở nước ta chưa thực sự quan tâm đầu tư phát triển khoa
học và công nghệ. Nguyên nhân là do cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp
thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, cũng như dành một phần lợi nhuận để

đầu tư cho khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Hơn nữa, doanh nghiệp Việt Nam
quy mô nhỏ nên với 10% lợi nhuận sẽ không đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ
hoặc tạo ra sản phẩm mới.
Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đang sử dụng công nghệ tụt hậu
so với mức trung bình của thế giới từ 2 – 3 thế hệ, có 76% máy móc, dây chuyền công
nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 1960 – 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50%
thiết bị là đồ tân trang…
Tình hình quản lí và sử dụng công nghệ của doanh nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu,
thể hiện qua một số mặt sau: Một là, tỉ lệ công nghệ tiên tiến hiện đại chỉ đạt 16%, tập
trung chủ yếu vào ngành dệt (33%), may (46%), khai thác than (37%). Hai là, mức tiêu
hao năng lượng, nhiên liệu và lãng phí nguyên liệu do công nghệ ở Việt Nam khá cao,
mức tiêu hao năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm ngành luyện kim đen là 250%, hóa chất
là 138%, giấy là 127%. Ba là, hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ thấp, hệ số
công suất máy móc chỉ đạt từ 25-30%.
Như vậy, có thể thấy rằng doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến
nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong sản xuất kinh doanh nên hiệu quả đạt
được chưa cao.


Về chất lượng và trình độ nguồn nhân lực
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam đạt mức 3,79 điểm (trên thang điểm 10), xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia được
khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia
đạt 5,59 điểm. Đánh giá này cũng cho biết nhân lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng
động và sáng tạo, tác phong lao động nông nghiệp, có khoảng cách lớn với các nước
trong khu vực.
Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực của Việt Nam hiện mới chỉ đạt 3,39 trên 10
điểm. Đây là dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công
nhân kỹ thuật bậc cao. Trong tổng số hơn 53,4 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc (số liệu năm 2015), chỉ có khoảng 49% qua đào tạo, trong đó qua đào tạo nghề từ 3

tháng trở lên chỉ chiếm khoảng 19%.
Ngoài ra, một bộ phận lớn người lao động hiện nay chưa được tập huấn về kỷ luật
lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị
các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro,
ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Trong bối cảnh đó, việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được mở ra vào cuối
năm 2015 và Việt Nam vừa tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã
khiến cho thị trường lao động trong các khu vực ký kết dần trở nên đồng nhất với nhau.
Điều này có nghĩa là, trong tương lai gần, thị trường lao động sẽ không còn phân định
biên giới lãnh thổ, các lao động có chuyên môn, được công nhận sẽ có cơ hội di chuyển,
tìm kiếm việc làm theo khả năng, nhu cầu bản thân. AEC là một ví dụ. Các thoả thuận
công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp… sẽ là những công cụ
quan trọng cho việc tự do di chuyển lao động. Với thị trường mở như vậy, nếu người lao
động Việt Nam không thích ứng được bằng cách hoàn thiện mình về kiến thức, tay nghề,
trình độ ngoại ngữ thì sẽ không có cơ hội vươn ra tầm khu vực, thậm chí, còn có thể thua
ngay trên sân nhà.
Giải pháp cải thiện môi trường vĩ mô để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính: Tiếp tục thực hiện Kế hoạch hành
động thực hiện Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP để cải thiện môi trường kinh doanh, cụ


thể: cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam ngang bằng các nước ASEAN
4 (cuối năm 2017) và tiến tới ASEAN 3 (vào năm 2020); tiếp tục rà soát, đơn giản hóa
thủ tục và giảm số thời gian nộp thuế còn 110 giờ vào năm 2020; tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin vào nghiệp vụ thuế, thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin tối thiểu
đạt 95% trong nộp tờ khai, nộp thuế; thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong hoàn
thuế điện tử; công khai cơ sở dữ liệu về hoàn thuế, bảo đảm 100% hồ sơ hoàn thuế được
kiểm tra; nghiên cứu thực hiện thí điểm giao dịch thuế điện tử đối với hoạt động đăng ký
xe ô tô, xe gắn máy.

Đồng thời, bảo đảm 100% hồ sơ khiếu nại của người nộp thuế được giải quyết đúng
thời gian quy định của pháp luật; công khai, minh bạch theo quy định của Luật quản lý
thuế, các quy trình thanh tra, giải quyết khiếu nại và hoàn thuế giá trị gia tăng qua việc
hoàn thiện phần mềm và cơ sở dữ liệu về giải quyết khiếu nại. Tiếp tục triển khai cấp mã
số thuế tự động và phân cấp cơ quan thuế quản lý đối với doanh nghiệp trên phạm vi toàn
quốc.
Hai là, thúc đẩy phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Tăng cường và đa dạng hóa các
nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, có thể thực hiện theo mô hình PPP, BOT theo
hướng: hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đầu tư theo mô hình PPP, nghiên cứu
học hỏi các nước về quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư PPP, xây dựng cơ chế hỗ trợ chủ
đầu tư về các rủi ro phát sinh như cơ chế kéo dài thời gian hoàn vốn BOT, cơ chế thu
phí…
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: nâng cao chất lượng và hiệu quả của
giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo được coi là khâu then chốt, quyết định chất
lượng nguồn nhân lực. Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với tiến
trình bồi dưỡng nguồn nhân lực, cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở
tất cả các bậc học. Trong đó, bước quan trọng đầu tiên là phải có sự đổi mới cả về mục
tiêu, chương trình và phương pháp dạy học từ bậc phổ thông đến đại học nhằm đảm bảo
cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho hoạt động thực tiễn sau
này của họ. Phương pháp dạy học phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo, gắn với nội dung và
phù hợp với điều kiện của học sinh; rèn luyện và tạo điều kiện cho học sinh biểu đạt vấn
đề theo quan điểm và cách nhìn của mình, tạo thói quen suy nghĩ độc lập cho người học.
Có chính sách đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào


tạo, đặc biệt là về đội ngũ giáo viên; đồng thời, hoàn thiện mạng lưới giáo dục trên toàn
quốc, chú trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ điều kiện đáp ứng được yêu cầu giảng dạy, phân
công lại lực lượng giáo viên theo các vùng miền cho phù hợp, có chính sách ưu đãi đối
với giáo viên hiện đang công tác ở những vùng khó khăn. Bên cạnh đó, cải thiện và nâng

cao thể lực cho con người nói chung và lực lượng lao động nói riêng, tạo nền tảng cho
việc phát triển trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
và lâu dài.
Bốn là, đầu tư phát triển khoa học công nghệ: Để doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh, Nhà nước cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách phát triển
khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho khoa học và công nghệ,
trong đó nâng cao tỷ lệ đóng góp của các doanh nghiệp và xã hội hóa thu hút các nguồn
lực ngoài ngân sách đầu tư cho khoa học và công nghệ. Hình thành hệ thống các quỹ phát
triển khoa học và công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đổi mới công nghệ thúc đẩy phát
triển các ngành công nghệ cao. Bên cạnh đó, xây dựng chương trình đào tạo bồi dưỡng và
sử dụng hiệu quả, trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là trí thức trong và
ngoài nước có trình độ chuyên môn cao, phát triển đội ngũ cán bộ kỹ thuật trình độ cao
trong các doanh nghiệp, tạo cơ chế nhằm liên kết 4 bên gồm doanh nghiệp, viện nghiên
cứu, các trường đại học, các quỹ đầu tư thông qua hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất…



×