Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.73 KB, 29 trang )

Mục Lục
I. Mở Đầu.
II. Nội Dung
1.Khái niệm
1.1 Khái niệm về "chính sách "
1.2 Khái niệm về "chính sách xã hội"
1.3 Khái niệm " Bảo tồn ".
1.4 Khái niệm " Phát triển"
1.5 Khái niệm về " Văn hóa".
1.6 Khái niệm " Dân tộc thiểu số ".
1.7 Khái niệm " Chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số Việt Nam".
2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn, phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn, phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
2.2 Đối tượng của chính sách.
3. Mục tiêu của chính sách.
3.1 Mục tiêu tổng quát:
3.2 Mục tiêu cụ thể:
4. Sự tác động của chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam đến sự phát triển xã hội.
4.1 Nội dung chính sách theo đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số Việt Nam.


4.2 Sự tác động của chính sách đến sự phát triển xã hội.
III. Kết Luận
DTTS : Dân tộc thiểu số.



I. Mở Đầu.
Mỗi dân tộc trên thế giới, không phân biệt chủng tộc, màu da, thể chế chính
trị đều có những hệ thống giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của riêng
mình. Một số học giả quan niệm rằng, sự phát triển của các giá trị, và sự hội
nhập của chúng, tạo ra một nền văn hóa đặc sắc và phong phú trong lịch sử
và vì thế phụ thuộc vào kinh nghiệm và sức sáng tạo của nhiều thế hệ.
Truyền thống văn hóa phản ánh thành tựu con người tích tập được trong quá
trình tìm hiểu, thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất của cuộc
sống.Giá trị văn hóa truyền thống là những gì tốt đẹp thuộc về tư tưởng,
chuẩn mực đạo đức, ứng xử, phong tục, tập quán, sáng tạo văn học nghệ
thuật... được cộng đồng thừa nhận và bảo tồn, gìn giữ từ đời này sang đời
khác…Những giá trị đó không phải nhất thành bất biến, trái lại, cùng với
dòng chảy thời gian, nó luôn được bổ sung, bồi đắp những giá trị mới, thích
ứng với sự biến đổi của cuộc sống, như nền tảng vững chắc để một dân tộc
đi xa, hành trình cùng nhân loại.
Các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện lịch sử
cụ thể của Việt Nam. Đó là kết quả to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước
và phát triển đất nước mang đậm nét đặc thù trong lịch sử Việt Nam. Đó còn
là kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa văn hóa của nhân loại.
“Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng
yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý thương người như thể
thương thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động... Đó là nền
tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát
triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái".
Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng
của nền văn hoá Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với xu


thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm nhập vào
đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh đến

văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai mờ,
biến dạng bản sắc dân tộc. Do vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hoá các dân
tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục
thực hiện thường xuyên và lâu dài. Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ
trương, chính sách nhằm ưu tiên, phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền
núi với quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: các dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Vì vậy tôi xin chọn đề tài : " Chính sách bảo tồn, phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam "làm đề tài tiểu luận .
Bài viết này được sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận, quan sát,
thống kê, phân tích, so sánh...


II. Nội Dung
1.Khái niệm
1.1 Khái niệm về "chính sách "
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm
vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh
vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy
thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…"
Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục
đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề
mà họ quan tâm”.
GS. Nguyễn Đình Tấn lại cho rằng :"Chính sách là hình thức tác động qua
lại giữa các nhóm, tập đoàn xã hội gắn trực tiếp hoặc gián tiếp với tổ chức ,
hoạt động của nhà nước , của các đảng phái, các thiết chế khác nhau của hệ
thống chính trị nhằm thực hiện các lợi ích , các mục tiêu nhiệm vụ của tập
đoàn xã hội ấy. Chính sách thường được thể chế hóa trong các quyết định, hệ
thống pháp luật, các quy chuẩn hành vi và các quy định khác "

Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh
đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình.
1.2 Khái niệm về "chính sách xã hội"
" Chính sách xã hội là gì ? Hiểu ý nghĩa khái quát nhất, chính sách xã hội là
hệ thống các quan điểm, cơ chế, giải pháp và biện pháp mà Đảng cầm quyền
và Nhà nước đề ra tổ chức thực hiện trong thực tiễn đời sống nhằm kiểm
soát, điều tiết và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trước xã hội " ( PGS.TS


Phạm Hữu Nghị )
" Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế bằng pháp luật của Nhà
nước thành một hệ thống quan điểm, chủ trương phương hướng và biện pháp
để giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã
hội liên quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội nhằm góp
phần ổn định phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội " ( PGS.TS Lê Trung
Nguyệt)
Như vậy có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức, các
biện pháp của nhà nước, của Đảng và tổ chức chính trị nhằm thỏa mãn nhu
cầu vật chất và tinh thần của nhân dân phù hợp với trình độ phát triển của
đất nước về kinh tế , văn hóa, xã hội... Chính sách xã hội là sự cụ thể hóa và
thể chế hóa bằng pháp luật những chủ trương , đường lối của Đảng và Nhà
nước nhằm hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con
người.
(nguồn: />1.3 Khái niệm " Bảo tồn ".
Theo định nghĩa của IUCN (1991): “Bảo tồn là sự quản lý, sử dụng của con
người về sinh quyển nhằm thu được lợi nhuận bền vững cho thế hệ hiện tại
trong khi vẫn duy trì tiềm năng để đáp ứng những yêu cầu và nguyện vọng
của thế hệ tương lai”.
(nguồn


: />
qid=20071028224450AAkiIme)
1.4 Khái niệm " Phát triển"


Phát triển là khái niệm dùng để khái quát những vận động theo chiều hướng
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời thay thế cái
lạc hậu
(nguồn

: />
qid=20100331011426AAeqI8P)
1.5 Khái niệm về " Văn hóa".
Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Từ “văn hoá” có nhiều nghĩa, nó được
dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng
theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm “văn hoá” bao
giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa
rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo
không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng
(văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá
được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn
hoá Đông Sơn…)…
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do

con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử


dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn” [Hồ Chí Minh 1995: 431].
(nguồn: />Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số người,
văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và
sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm
cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại
nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách
hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên
chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise” [UNESCO
1989: 5].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt – Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam.
Bộ GD-ĐT, NXB Văn hóa Thông tin – 1999 [tr. 1796] thì văn hóa là (1)
những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử: nền văn
hóa các dân tộc; kho tàng văn hóa dân tộc. (2) Đời sống tinh thần của con
người: phát triển kinh tế và văn hóa; chú ý đời sống văn hóa của nhân dân.
(3) Tri thức khoa học, trình độ học vấn: trình độ văn hóa; học các môn văn
hóa. (4) Lối sống, cách ứng xử có trình độ cao: người có văn hóa; gia đình
văn hóa mới. (5) Nền văn hóa một thời kì lịch sử cổ xưa, xác định được nhờ
tổng thể các di vật tìm được có những đặc điểm chung: văn hóa Đông Sơn;
văn hóa rìu hai vai.
Trong từ điển học sinh do NXB Giáo dục ấn hành năm 1971 viết: “Văn hóa”
là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần (như trình độ sản xuất, khoa



học, văn học nghệ thuật, nếp sống, đạo đức, tập quán…) mà loài người sáng
tao ra nhằm phục vụ những nhu cầu của mình trong quá trình lịch sử. Hay là:
“Trình độ hiểu biết về những giá trị tinh thần thuộc về một thời kì lịch sử
nhất định”.
(nguồn: />1.6 Khái niệm " Dân tộc thiểu số ".
Dân tộc thiểu số là thuật ngữ ám chỉ cho một nhóm người: (a). Cư trú trên
lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền mà họ là công dân của quốc gia này;
(b). Duy trì mối quan hệ lâu dài với quốc gia mà họ đang sinh sống; (c).Thể
hiện bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ của họ; (d).
Đủ tư cách đại diện cho nhóm dân tộc của họ, mặc dù số lượng ít hơn trong
quốc gia này hay tại một khu vực của quốc gia này; (e). Có mối quan tâm
đến vấn đề bảo tồn bản sắc chung của họ, bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong
tục tập quán, tôn giáo và ngôn ngữ của họ
(nguồn:file:///C:/Users/admin/Downloads/LQT-Lê%20Xuân%20TrìnhQuyền%20của%20người%20dân%20tộc%20thiểu%20số%20theo
%20%20quy%20định%20của%20luật%20pháp%20quốc%20tế%20và
%20Việt%20Nam.pdf)
1.7 Khái niệm " Chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số Việt Nam".
Chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa là những cơ chế ưu tiên của Nhà nước
để giữ gìn bảo tồn, phát triển những nét đẹp - giá trị văn hóa của đồng bào
dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn, phát triển


văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn, phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi

mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc cùng với đó là bảo tồn, phát triển văn hóa cac dân tộc thiểu số. Quan
điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đồng thời cũng là
kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong
suốt quá trình lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên
tiến và đậm đà bản sắc dân tộc; bảo tồn và phát triển văn hóa các DTTS là
một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy, đó vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng này tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn
trong các văn kiện của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo
toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị
quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục
khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"1.
Tháng 7-2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX


đã ra Kết luận Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã

hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”
(nguồn

: />
dang/books-2928201510064846/index-592820151000374663.html
Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương, chính sách nhằm ưu tiên,
phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi với quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt: các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, khoảng
cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi
với các khu vực khác trong cả nước đang ngày càng có xu hướng gia tăng
cách biệt, vùng miền núi và dân tộc thiểu số đang còn những khó khăn,
thách thức rất lớn, trong đó văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số đang
đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, giữa kinh tế và
văn hoá.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn
hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”, đây là sự kiện quan trọng
tiếp tục thể hiện chính sách của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 5 khoá VIII.
2.2 Đối tượng của chính sách.
-

Đối tượng: Các dân tộc thiểu số rất ít người (gồm các dân tộc: Si La, Ơ Đu,

Brâu, Rơ Măm, Pu Péo (dưới 1.000 người), Cống, Mảng, Bố Y, Lô Lô, Cờ


Lao, Ngái (dưới 5.000 người), Lự, Pà Thẻn, Chứt, La Ha và La Hủ (dưới
10.000 người); các dân tộc thiểu số vùng di dân tái định cư để xây dựng các

công trình thủy điện.
- Địa bàn: Các địa phương có dân tộc thiểu số rất ít người, các địa phương có
thủy điện.
(nguồn : />3. Mục tiêu của chính sách.
3.1 Mục tiêu tổng quát:
- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc thiểu số rất ít người; đưa các dân tộc thiểu số rất ít người ra khỏi tình
trạng mai một, mất bản sắc văn hóa.
- Hỗ trợ các dân tộc vùng di dân tái định cư xây dựng các công trình thủy
điện bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống, xây dựng đời sống văn hóa tại
nơi định cư mới.
- Xây dựng, củng cố phát triển hệ thống thiết chế văn hóa phù hợp; đẩy
mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao mức hưởng thụ văn
hóa tại các thôn, bản vùng đồng bào các dân tộc rất ít người, các dân tộc
vùng di dân tái định cư xây dựng các công trình thủy điện góp phần xóa đói,
giảm nghèo, phát triển bền vững.
- Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn
hóa, huy động mọi nguồn lực cho bảo tồn và phát triển văn hóa, xây dựng
đời sống văn hóa vùng các dân tộc thiểu số có nguy cơ cao mai một bản sắc


văn hóa.
3.2 Mục tiêu cụ thể:
Giai đoạn 1 (2013-2015)
- Đối với đối tượng hưởng lợi là các dân tộc rất ít người:
+ Kiểm kê, đánh giá thực trạng về di sản văn hóa truyền thống, đời sống văn
hóa của các dân tộc rất ít người.
+ Hỗ trợ bảo tồn và phát triển không gian văn hóa, bảo tồn 30 làng truyền
thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số rất ít người, trong đó tập trung ưu
tiên cho các dân tộc có số dân dưới 1.000 người.

+ Hỗ trợ bảo tồn, phát triển một số nghề truyền thống vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số rất ít người, trong đó tập trung ưu tiên cho các dân tộc có số
dân dưới 1.000 người.
+ Hỗ trợ bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa, nghệ thuật truyền thống tiêu
biểu các dân tộc thiểu số rất ít người, trong đó tập trung ưu tiên cho các dân
tộc có số dân dưới 1.000 người. Tập trung nguồn lực hỗ trợ bảo tồn trang
phục truyền thống; tiếng nói, chữ viết của các dân tộc rất ít người. Tạo điều
kiện để các dân tộc bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống, tiếng nói, chữ
viết thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian, các hình thức giao
lưu văn hóa trên địa bàn và cấp khu vực, toàn quốc.
+ Hỗ trợ tăng cường năng lực của các chủ thể văn hóa, đề cao các nghệ
nhân, người có uy tín trong cộng đồng để họ nhận thức, tham gia với vai trò
then chốt trong việc tự bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc mình thông
qua các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, trao truyền văn hóa dưới sự hướng
dẫn của các chuyên gia.


+ Hỗ trợ xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ dân gian, nhà sinh hoạt
cộng đồng các dân tộc rất ít người.
- Đối với đối tượng hưởng lợi là vùng đồng bào các dân tộc di dân tái định
cư xây dựng các công trình thủy điện:
+ Kiểm kê, đánh giá thực trạng về văn hóa truyền thống, đời sống văn hóa
các dân tộc di dân tái định cư xây dựng các công trình thủy điện.
+ Hỗ trợ bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa, nghệ thuật truyền thống tiêu
biểu vùng đồng bào các dân tộc phải di dân tái định cư xây dựng các công
trình thủy điện.
+ Hỗ trợ tăng cường năng lực của các chủ thể văn hóa, đề cao các nghệ
nhân, người có uy tín trong cộng đồng để họ nhận thức, tham gia với vai trò
then chốt trong việc tự bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc mình thông
qua các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, trao truyền văn hóa dưới sự hướng

dẫn của các chuyên gia.
+ Hỗ trợ xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ dân gian các dân tộc,
trong đó tập trung hỗ trợ: Truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ
thuật truyền thống dân tộc của cộng đồng, nghệ nhân; phát triển đội ngũ
nghệ nhân tại cơ sở (cấp huyện, xã, thôn/bản) sưu tầm, phổ biến các giá trị
văn hóa truyền thống tiêu biểu trong cộng đồng.
Giai đoạn 2 (2016 - 2020):
- Đối với đối tượng hưởng lợi là các dân tộc rất ít người:
+ Cơ bản hoàn thành việc bảo tồn khẩn cấp và bước đầu phát huy các di sản
văn hóa tiêu biểu của các dân tộc rất ít người.
+ Tiếp tục hỗ trợ bảo tồn không gian văn hóa truyền thống của các dân tộc


rất ít người tại 20 thôn, bản của 16 dân tộc rất ít người.
+ Tiếp tục hỗ trợ bảo tồn, phát triển một số nghề truyền thống vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số rất ít người.
+ Tiếp tục hỗ trợ bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa, nghệ thuật truyền
thống tiêu biểu các dân tộc thiểu số rất ít người, trong đó tập trung nguồn lực
hỗ trợ bảo tồn trang phục truyền thống; tiếng nói, chữ viết của các dân tộc
rất ít người. Tạo điều kiện để các dân tộc bảo tồn, phát huy trang phục truyền
thống, tiếng nói, chữ viết thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân
gian, các hình thức giao lưu văn hóa trên địa bàn và cấp khu vực, toàn quốc.
+ Tiếp tục hỗ trợ tăng cường năng lực của các chủ thể văn hóa, đề cao các
nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng để họ nhận thức, tham gia với
vai trò then chốt trong việc tự bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc mình
thông qua các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, trao truyền văn hóa dưới sự
hướng dẫn của các chuyên gia.
+ Tiếp tục hỗ trợ xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ dân gian, nhà
sinh hoạt cộng đồng các dân tộc rất ít người.
- Đối với đối tượng hưởng lợi là vùng đồng bào các dân tộc di dân tái định

cư xây dựng các công trình thủy điện:
+ Tiếp tục hỗ trợ bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa, nghệ thuật truyền
thống tiêu biểu các dân tộc, tập trung đầu tư bảo tồn các loại hình văn hóa,
văn nghệ dân gian truyền thống có nguy cơ mai một cao: Các loại hình ca
múa nhạc, các loại nhạc cụ truyền thống, lễ hội truyền thống tiêu biểu; tiếng
nói, chữ viết; trang phục truyền thống; bảo tồn, phát huy kiến thức dân gian
truyền thống, tri thức bản địa các dân tộc, tổ chức phục dựng không gian
diễn xướng văn hóa tiêu biểu của các số dân tộc tại nơi định cư mới.


+ Tiếp tục hỗ trợ tăng cường năng lực của các chủ thể văn hóa, đề cao các
nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng để họ nhận thức, tham gia với
vai trò then chốt trong việc tự bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc mình
thông qua các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, trao truyền văn hóa dưới sự
hướng dẫn của các chuyên gia.
+ Tiếp tục hỗ trợ xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ dân gian các
dân tộc; hoàn thành mục tiêu mỗi thôn, bản có 01 đội văn nghệ truyền thống
để chủ thể văn hóa tự xây dựng, tổ chức hoạt động văn hóa cộng đồng tại
các thiết chế văn hóa cơ sở; hướng dẫn phục dựng bảo tồn các lễ hội dân
gian tiêu biểu trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số; Hỗ trợ kỹ năng
sử dụng tri thức bản địa trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường,
định hình, bảo tồn để phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc tại nơi định cư mới.
4. Sự tác động của chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam đến sự phát triển xã hội.
4.1 Nội dung chính sách theo đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số Việt Nam.
(nguồn : />-

Kiểm kê, đánh giá thực trạng về di sản văn hóa, đời sống văn hóa của các


dân tộc rất ít người, các dân tộc di dân tái định cư xây dựng các công trình
thủy điện: Trên cơ sở thực tế về nguồn lực, khảo sát điều tra tại một số địa
bàn trọng điểm: tỉnh Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Quảng Trị,
Quảng Nam, Gia Lai, Kon Tum để đánh giá thực trạng về văn hóa truyền
thống của các dân tộc thiểu số rất ít người; đánh giá những tác động tích cực;


những ảnh hưởng tiêu cực của việc di dân xây dựng các công trình thủy điện
trên các lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng; đề
xuất xây dựng một số cơ chế chính sách để khôi phục, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc của đồng bào các dân tộc khu vực tái định cư; hỗ trợ thiết lập
các dịch vụ, ngành nghề nhằm tạo điều kiện cho bà con ở những vùng có
thủy điện có công ăn việc làm để tăng thêm thu nhập, ổn định cuộc sống.
Kiến nghị các giải pháp đối với các cấp chính quyền địa phương, các nhà
đầu tư trong quá trình khảo sát, lập dự án đầu tư xây dựng các công trình
thủy điện.
- Bảo tồn không gian văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số rất ít
người: Lựa chọn trong số 194 làng, bản các dân tộc rất ít người sống tập
trung để đầu tư, bảo tồn làng, bản truyền thống, gồm: bảo tồn cảnh quan môi
trường thiên nhiên, các giá trị văn hóa vật thể (kiến trúc, nhà ở, trang phục,
ẩm thực,...), văn hóa phi vật thể (phong tục, tập quán, lễ hội, các làn điệu dân
ca, dân vũ, tiếng nói, chữ viết, văn học dân gian,...) gắn với không gian sinh
hoạt văn hóa truyền thống của các dân tộc rất ít người.
- Xây dựng, bảo tồn một số nghề truyền thống vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số rất ít người.
- Bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa, nghệ thuật truyền thống tiêu biểu
các dân tộc thiểu số rất ít người và các dân tộc vùng di dân tái định cư xây
dựng các công trình thủy điện, bao gồm các loại hình: Ca, múa, nhạc và mỹ
thuật truyền thống các dân tộc; lễ hội truyền thống tiêu biểu và trò chơi dân

gian của các dân tộc; tiếng nói, chữ viết; trang phục truyền thống; bảo tồn,
phát huy kiến thức dân gian truyền thống; phong tục, tập quán, văn hóa ẩm
thực, tri thức bản địa các dân tộc thiểu số, các loại nhạc cụ dân tộc, nghệ
thuật kiến trúc, hội họa, phục dựng không gian diễn xướng văn hóa tiêu biểu


của các dân tộc.
- Tăng cường năng lực của các chủ thể văn hóa, đề cao các nghệ nhân, người
có uy tín trong cộng đồng để họ nhận thức, tham gia với vai trò then chốt
trong việc tự bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc mình thông qua các
hoạt động bồi dưỡng, tập huấn dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia.
- Xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ dân gian các dân tộc rất ít
người, các dân tộc vùng di dân tái định cư xây dựng các công trình thủy
điện, trong đó tập trung hỗ trợ: Truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa,
nghệ thuật truyền thống dân tộc của cộng đồng, nghệ nhân; phát triển đội
ngũ nghệ nhân tại cơ sở (cấp huyện, xã, thôn/bản) sưu tầm, phổ biến các giá
trị văn hóa truyền thống tiêu biểu trong cộng đồng; xây dựng mỗi thôn, bản
01 đội văn nghệ truyền thống để chủ thể văn hóa tự xây dựng, tổ chức hoạt
động văn hóa cộng đồng tại các thiết chế văn hóa cơ sở; hướng dẫn phục
dựng bảo tồn các lễ hội dân gian tiêu biểu trong đời sống cộng đồng các dân
tộc thiểu số; Hỗ trợ kỹ năng sử dụng tri thức bản địa trong bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường để đảm bảo cho quá trình phát triển du lịch cộng
đồng bền vững.
Bảy giải pháp để thực hiện các mục tiêu,nhiệm vụ trọng tâm đã được đề ra,
trong đó giải pháp đột phá là đào tạo nhân lực nòng cốt cho bảo tồn, phát
huy văn hóa dân tộc ở các cấp huyện, tỉnh. Gắn bảo tồn, phát triển văn hóa
dân tộc với phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, ở địa phương; đảm bảo mối
quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và kinh tế, hài hòa giữa bảo tồn, phát
huy và phát triển. Và 6 Dự án đã được định hướng xác lập đảm bảo tính
đồng bộ, hệ thống: Xây dựng Bộ chỉ số phát triển văn hóa các dân tộc thiểu

số đến năm 2020, tổng kiểm kê di sản văn hóa các dân tộc thiểu số; Bảo tồn
khẩn cấp và hỗ trợ, tăng cường năng lực bảo tồn, phát triển văn hóa các dân


tộc, bài trừ hủ tục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực, phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa cơ sở vùng dân tộc
thiểu số; Gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số; Giới thiệu quảng bá các sản phẩm văn học nghệ thuật và các di sản
văn hóa tiêu biểu của các dân tộc thiểu số và đưa giáo dục văn hóa truyền
thống của các dân tộc vào trường học; Chương trình hoạt động, lễ hội và
biểu diễn văn hóa, nghệ thuật các dân tộc cấp tỉnh, vùng và quốc gia giai
đoạn 2011 - 2020.
Đề án đã tập trung đánh giá được bản chất, nguyên nhân sâu xa của những
bất cập về thực trạng văn hoá các dân tộc thiểu số, việc thể chế hoá các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về văn hoá các dân tộc thiểu số và
hiệu quả thực tế. Đánh giá tác động đa chiều: tương hỗ, cộng sinh, xung
khắc giữa phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số với phát triển các lĩnh vực
khác. Đặc biệt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng với
phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số trong tình hình mới. Đề án có tính kế
thừa các chương trình, dự án của giai đoạn trước. Với quan điểm xuyên suốt:
Nhà nước không làm thay, chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tác động tạo điều kiện,
môi trường thuận lợi, phù hợp để bảo tồn, phát triển văn hoá đặc trưng của
các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Điểm mới của Đề án là phương thức triển khai: Theo hướng từ dưới lên: chủ
thể văn hoá đề xướng, thực hiện và thụ hưởng, tập trung cho các dự án hỗ
trợ, tăng cường năng lực với vai trò con người-chủ thể văn hoá là trung tâm,
không nặng về các dự án đầu tư. Nghiên cứu xây dựng (lượng hoá sự phát
triển) để ban hành được Bộ chỉ số về phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
Việt Nam. Để triển khai Đề án không dựa hẳn vào một nguồn lực chuyên
biệt, mà chủ yếu đánh giá, rà soát, cân đối, hiệu chỉnh các nguồn lực từ



Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, tập trung có trọng tâm, trọng
điểm, lồng ghép, kết hợp với các chương trình, dự án có liên quan đến vùng
đồng bào dân tộc thiểu số để gắn kết tạo sức mạnh tổng hợp phát triển kinh
tế-văn hoá.
Giai đoạn trước mắt từ nay đến năm 2015, Đề án sẽ tập trung vào các nhiệm
vụ: Xây dựng Bộ chỉ số phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến
năm 2020; Tổng kiểm kê các di sản văn hoá tiêu biểu của các dân tộc thiểu
số; Hỗ trợ bảo tồn khẩn cấp văn hóa các dân tộc thiểu số có số dân rất ít
người (dưới 5.000 người); Ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ là con em người
dân tộc thiểu số làm công tác văn hoá; Hỗ trợ truyền dạy và phát huy các giá
trị văn hoá, nghệ thuật truyền thống dân tộc của cộng đồng, nghệ nhân; Từng
bước phát huy hiệu quả sử dụng hệ thống các thiết chế văn hoá cơ sở, nâng
cao mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào các dân tộc thiểu số; Bước đầu
đưa giáo dục văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vào các trường học
trên địa bàn; Xây dựng cơ chế, chính sách và giải pháp nâng cao hưởng thụ
và hoạt động văn hoá của nhân dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
4.2 Sự tác động của chính sách đến sự phát triển xã hội.
Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm
2020” tập trung bảo tồn khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy
cơ mai một văn hoá của các dân tộc thiểu số rất ít người, tạo điều kiện phát
huy văn hoá các dân tộc thiểu số có số dân đông. Nó đã phát huy tối đa năng
lực của những người có uy tín như già làng, trưởng bản, các nghệ nhân
người DTTS
Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng
của nền văn hoá Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với xu



thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm nhập vào
đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh đến
văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai mờ,
biến dạng bản sắc dân tộc. Do vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hoá các dân
tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục
thực hiện thường xuyên và lâu dài.
Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương, chính sách nhằm ưu tiên,
phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi với quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt: các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, khoảng
cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi
với các khu vực khác trong cả nước đang ngày càng có xu hướng gia tăng
cách biệt, vùng miền núi và dân tộc thiểu số đang còn những khó khăn,
thách thức rất lớn, trong đó văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số đang
đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, giữa kinh tế và
văn hoá.
Qua nhiều năm thực hiện chính sách văn hoá đối với vùng đồng bào dân tộc
thiểu số đã đạt được những thành tựu nhất định: Nhận thức của cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân về văn hóa nói chung, văn hóa dân tộc thiểu
số nói riêng được nâng lên một bước; Đời sống văn hoá cơ sở đã có bước
phát triển, ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, đời sống văn hoá tuy còn
thấp so với đô thị và đồng bằng, nhưng đã có những cải thiện rõ rệt; Công
tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc, đặc biệt là văn hoá
của các dân tộc thiểu số có bước phát triển mới về quy mô cũng như chiều
sâu; Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá đã góp phần quan trọng
nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các


dân tộc.
Nhiều dự án lớn về sưu tầm, tư liệu hoá di sản văn hoá được thực hiện; Việc

xây dựng thể chế và thiết chế văn hoá đã chú ý đến những yêu cầu của thời
kỳ mới. Các thiết chế văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo được tăng cường cơ sở vật chất, tổ chức và hoạt
động bước đầu đã có sự đổi mới, phát huy được hiệu quả.
Ở các làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn… vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã
được Nhà nước quan tâm hỗ trợ để xây dựng các Nhà văn hoá, Nhà Rông,
Nhà Gươl văn hoá… làm nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hoá - văn
nghệ và hội họp chung của cộng đồng; Công tác đào tạo đội ngũ những
người hoạt động văn hoá, nghệ thuật vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa được chú trọng bước đầu; Một số di sản văn hoá của vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số được tôn vinh, đặc biệt Không gian văn hóa Cồng
chiêng Tây Nguyên được Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên
Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện
nhân loại; Tăng cường giao lưu văn hoá qua các hoạt động mang tính chất
vùng, miền góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần
củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đó là các Ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Ngày hội
văn hóa dân tộc Mông, dân tộc Chăm, dân tộc Khmer… Tạo điều kiện để
đồng bào các dân tộc thiểu số được giao lưu, học hỏi, tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, thắt chặt tình đoàn kết các dân tộc, đồng thời với việc làm cho
nhiều giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc tiếp tục được khơi
dậy, bảo tồn và phát huy trong đời sống cộng đồng.
Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các DTTS là vấn đề
được đề cao trong Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam"


Nhờ có đề án , người Mường ở Nho Quan hiện vẫn còn lưu giữ được những
nét văn hóa đặc sắc của dân tộc như: Văn hóa cồng chiêng, hát đúm, hát ru,
hát sắc bùa.
Trong những năm qua, quán triệt và nhận thức sâu sắc quan điểm “văn hóa

là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội” và để những nét đẹp văn hóa Mường không bị mai một theo thời gian,
công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường luôn được
huyện Nho Quan quan tâm.
Công tác bảo tồn các làn điệu dân ca, dân vũ, lễ hội của đồng bào dân tộc
Mường được triển khai có hiệu quả. Đến nay, đồng bào Mường đã đưa tiếng
cồng, chiêng trở lại trong các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hiện ở
Nho Quan có nhiều xã như Thạch Bình, Kỳ Phú, Cúc Phương có đội cồng,
chiêng góp phần giữ gìn nét đẹp văn hóa của người Mường. Ngoài ra, công
tác điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch, xuất bản truyện cổ, lời nói vần,
nhạc cụ dân tộc Mường cũng được triển khai thực hiện hiệu quả thông qua
việc xây dựng Đề án về bảo tồn và phát triển văn hóa cồng chiêng dân tộc
Mường đang chờ UBND tỉnh xem xét, phê duyệt. Trong đó, đề án chú trọng
đến công tác phục dựng lại nét đẹp và tạo không gian sinh hoạt văn hóa
cồng, chiêng cho đồng bào Mường. Người Mường có rất nhiều trò chơi dân
gian, thường diễn ra trong các dịp lễ hội và Tết cổ truyền của dân tộc. Hiện
nay, các trò chơi như ném còn, đánh mảng, đẩy gậy, đi cà kheo, đánh đu…
vẫn được đồng bào Mường chơi trong các dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
(nguồn: />Hàng năm, huyện Nho Quan đều tổ chức Hội diễn văn nghệ quần chúng từ
thôn bản đến huyện, thu hút một lượng lớn đồng bào đến tham gia, cổ động;


đồng thời tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao chào mừng những ngày
lễ lớn của đất nước tại các xã có đồng bào dân tộc sinh sống, tạo không khí
vui tươi phấn khởi, qua đó khơi dậy và duy trì bản sắc văn hóa dân tộc của
địa phương.Những kết quả đã đạt được trong công tác bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc Mường trên địa bàn huyện Nho
Quan thời gian qua là minh chứng cho hiệu quả của quá trình vận động,
tuyên truyền để đồng bào Mường hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa của dân
tộc mình không bị mai một theo thời gian. Những kết quả này cũng góp

phần quan trọng vào việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về
“Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được trong lĩnh vực văn hoá ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề cấp
bách cần khắc phục, những nhu cầu bức thiết cần phải giải quyết. Đời sống
kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số rất ít người (dưới 5.000 người và
dưới 10.000 người) đều rất khó khăn so với các dân tộc có số dân đông hơn.
Trong đó, vấn đề đặc biệt cấp bách đặt ra là bản sắc văn hóa của các tộc
người này bị mai một nhanh chóng. Thậm chí có dân tộc (như người Ơ Đu)
ít tìm được các nét văn hóa đặc trưng.
Còn chưa thể hiện rõ vai trò và tầm quan trọng của văn hóa/chính sách văn
hóa đối với các chính sách cũng như biện pháp phát triển kinh tế- xã hội ở
vùng các dân tộc thiểu số và đối với các dân tộc thiểu số; Sự chênh lệch về
hưởng thụ văn hoá còn lớn: Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến
trước đây, vùng biên giới, hải đảo, hoạt động văn hoá còn nghèo nàn, sự
chênh lệch về hưởng thụ văn hoá so với thành thị còn lớn; Đầu tư của Nhà


nước cho bảo tồn văn hoá còn thấp và manh mún, đặc biệt đầu tư bảo tồn và
phát triển văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
(nguồn: />name=Content&op=details&mid=117455203)
Việc huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho văn hoá rất hạn chế do chính
sách khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực; Vai trò của chủ thể, của người
dân, của cộng đồng chưa được phát huy và đặt đúng vị trí trong việc lập kế
hoạch, xây dựng dự án cũng như triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự
án từ cơ sở đối với các dự án nói chung và các chương trình, dự án về văn
hoá, ảnh hưởng tới chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của
các dân tộc thiểu số Việt Nam; Đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác văn

hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu, yếu, nhất là đội ngũ cán bộ
trẻ, có năng lực là người dân tộc thiểu số. Người có uy tín và các nghệ nhân
người dân tộc thiểu số ngày càng ít dần.
Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được
nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn xướng
Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc Dao…, hàng
nghìn làng, bản, buôn… truyền thống với các giá trị văn hóa tiêu biểu của
các dân tộc (kiến trúc, trang phục dân tộc, nghề truyền thống và các món ăn
truyền thống, các làn điệu dân ca, dân vũ, lễ hội…) đang đứng trước nguy cơ
biến mất theo xu hướng kiên cố hoá, hiện đại hoá hoặc do tác động mặt trái
của cơ chế thị trường rất cần phải nhanh chóng được hướng dẫn, hỗ trợ để
bảo tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại.
Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá nhìn chung
vẫn ở tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ và hiệu quả sử dụng còn
thấp. Việc đưa văn hoá, văn nghệ đến phục vụ đồng bào các dân tộc tuy đã


×