Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.62 KB, 9 trang )



SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM

Giới thiệu

Tăng trưởng kinh tế nhanh ở Việt Nam diễn ra trong suốt thập niên 90 và những năm đầu thập niên
2000 đã đem đến những kết quả ngoạn mục về giảm nghèo. Tuy nhiên trong giai đoạn này, sự giảm
nghèo của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra với tốc độ chậm hơn. Nghèo, tuổi thọ, tình trạng
dinh dưỡng và những chỉ số đo mức sống khác của nhóm
đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn ở
mức thấp dù có rất nhiều chính sách đã được đưa vào thực hiện nhằm hỗ trợ các nhóm dân tộc này.

Ở Việt Nam có 54 nhóm dân tộc sinh sống, trong đó người Kinh chiếm tới gần 87%. Trừ người Hoa,
người Khơ-me và người Chăm, 50 nhóm dân tộc còn lại chủ yếu sinh sống ở vùng nông thôn hoặc
miền núi xa xôi và chịu những bất lợi về xã hội và kinh tế
ở những mức độ khác nhau. Tỉ lệ nghèo của
nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số cao hơn 4,5 lần so với đồng bào người Kinh và Hoa. Nhóm đồng
bào dân tộc thiểu số cũng có tỉ lệ suy dinh dưỡng, mù chữ và bệnh tật cao hơn. Tuy chỉ chiếm 1/8 số
dân cả nước, song các dân tộc thiểu số chiếm đến 40% tổng số người nghèo năm 2004. Một số cơ
quan chính phủ dự báo rằng
đến năm 2010, đồng bào dân tộc thiểu số sẽ chiếm hơn một nửa số
người nghèo của Việt Nam.

Dự án nghiên cứu do ESRC-DFID tài trợ này muốn tìm hiểu tại sao nhóm đồng bào các dân tộc thiểu
số chưa tận dụng được đầy đủ những lợi ích do sự tăng trưởng kinh tế cao gần đây của Việt Nam tạo
ra, cho dù đã có hàng loạt chương trình của chính phủ được thi
ết kế và thực hiện để hỗ trợ đồng bào
các dân tộc thiểu số.
i


Cụ thể, trên cơ sở sử dụng số liệu điều tra mức sống hộ gia đình, chúng tôi tập
trung phân tích các nhóm dân tộc nào hưởng lợi nhiều nhất từ mức tăng trưởng cao của nền kinh tế
Việt Nam và tại sao chênh lệch trong mức sống giữa các nhóm dân tộc càng ngày càng lớn. Do phần
lớn đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng nông thôn, phân tích của chúng tôi chỉ giới hạn ở đị
a
bàn vùng nông thôn. Mặc dù dự án nghiên cứu này không đặt ra mục tiêu đánh giá các chính sách
song chúng tôi cũng thực hiện việc tổng quan lại hệ thống các chính sách và chương trình hỗ trợ
đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam, và nghiên cứu xem những chính sách này vận hành như thế





BÁO CÁO TỔNG HỢP


2

nào ở 3 tỉnh và huyện được lựa chọn
ii
. Nghiên cứu do Viện Nghiên cứu Phát triển và Khoa Kinh tế
học, Trường Đại hoc Sussex kết hợp với Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam thực hiện trong thời gian từ 12/2006 đến 02/2008. Báo cáo tổng hợp này tóm lược những kết
quả của 3 báo cáo chuyên đề được thực hiện trong khuôn khổ của dự án, hiện đã đăng tải trên trang
web của dự án (xem Phần tài liệu tham khảo thêm ở cuối bài)

Sự thay đổ
i mức sống theo thời gian
Phần lớn các nghiên cứu phân tích định lượng về các vấn đề liên quan đến mức sống của đồng bào
các dân tộc thiểu số trước đây ở Việt Nam tập trung so sánh người Kinh và Hoa với 52 dân tộc khác.

Nhưng những khác biệt giữa các dân tộc thiểu số cũng đáng kể, vì vậy trong nghiên cứu này chúng
tôi đã gộp các nhóm dân tộc lại thành 7 nhóm là (1) Kinh, (2) Hoa, (3) Khơ-me và Chăm, (4) Tày,
Thái, Mường, Nùng, (5) các dân tộc thiếu số vùng núi phía Bắc, (6) các dân tộ
c thiểu số ở Tây
nguyên, và (7) ‘các nhóm khác’
iii
. Sự phân loại này là hợp lý và được đưa ra trên cơ sở thảo luận với
các chuyên gia về dân tộc học và các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam. Phân loại như vậy cũng
nhằm mục đích đạt được sự hài hòa giữa phân tích tổng thể các dân tộc thiểu số và phân tích từng
nhóm dân tộc riêng lẻ, vốn rất khó thực hiện vì số quan sát đối với một số nhóm dân tộc trong bộ số

liệu điều tra hộ gia đình rất nhỏ.

Phân tích 3 cuộc điều tra mức sống hộ gia đình do Tổng Cục Thống kê thực hiện năm 1993, 1998 và
2004 cho thấy cuộc sống của đồng bào Kinh đã được cải thiện rất nhiều nhờ công cuộc Đổi mới (Hình
1). Các hộ gia đình có chủ hộ là người Kinh có mức sống tăng rõ nét so với mức trung bình của khu
miền núi) v
ực nông thôn trong giai đoạn 1993-2004, cho dù hộ đó thuộc nhóm hộ giàu nhất, nghèo

Hình 1: Chênh lệch về phúc lợi hộ giữa các dân tộc ở nông thôn Việt Nam năm 1993-2004 theo
phân tích hồi qui trung bình
Khác
Tây Nguyên
Hoa
Kinh
Khơ-me và Chăm
-60.0% -40.0% -20.0% 0.0% 20.0% 40.0% 60.0%
% chênh lệch so với trung bình
1993
1998

2004
Tày, Thái, Mường, Nùng
Các vùng núi phía Bắc



3

nhất hay trung bình. Trong khi đó, ưu thế trong mức sống của nhóm đồng bào người Hoa dường như
giảm dần
iv
. Mức sống của đồng bào Khơ-me và Chăm so với trước đây có mức tăng khiêm tốn và
mức này không khác biệt đáng kể so với mức trung bình của khu vực nông thôn vào 2004. Tuy nhiên,
nghiên cứu cho thấy những chênh lệch về phúc lợi hộ gia đình giữa các nhóm trên với 4 nhóm dân
tộc còn lại vẫn còn khá lớn, đặc biệt là đối với nhóm đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây nguyên và ‘các
nhóm khác’ trong phân loại nêu trên. Những phát hiện này không thay đổi ngay cả khi chúng tôi so
sánh các hộ có điều kiện tương đồng về nguồn lực của hộ (gồm qui mô hộ, cấu trúc gia đình, trình độ
học vấn và sở hữu đất đai), đặc tính của xã (xã có đường, giao thông công cộng, bưu điện, chợ hàng
ngày, nhà máy trong bán kính 10km) và yếu tố địa lý của xã (xã thuộc khu vực bờ biển, hay đồng
bằng, hay trung du hoặc vùng núi thấp, núi cao). Những phát hiện từ phân tích này cũng cho thấy tác
động củ
a đặc điểm địa lý của xã và khả năng tiếp cận đường, trường và các dịch vụ công cộng khác
đến chênh lệch trong chi tiêu của hộ gia đình không quá 7% tổng mức chênh lệch và ảnh hưởng của
các yếu tố địa lý này giảm dần theo thời gian.

Qui mô và phân tách chênh lệch chi tiêu của các dân tộc thiểu số

Trong giai đoạn từ 1993 đến 2004, chênh lệch chi tiêu giữa người Kinh – Hoa và nhóm đồng bào các
dân tộc thiểu số tăng 14.6% [hay tương đương 687.000 VND], trong đó phần lớn mức tăng này diễn
ra trong thời kỳ 1998-2004 (Hình 2). Tuy vậy tỉ lệ phần trăm tăng trong chênh lệch chi tiêu giữa các

nhóm dân tộc tương đối đồng đều trong toàn bộ cư dân ở nông thôn . Chênh lệch này (tính theo theo
phần trăm) không thay đổi nếu xem xét đoạn đầu (nhóm nghèo), hay giữa (nhóm trung bình) hoặ
c
cuối (nhóm giàu) của phân loại cư dân nông thôn theo mức chi tiêu đầu người.

Hình 2: Chênh lêch chi tiêu đầu người giữa dân tộc đa số - thiểu số
giai đoạn 1993-2004


C
hênh l

ch chi tiêu bình
q
uân
(%)

Phân phối chi tiêu bình quân hộ gia đình


4
Chúng tôi đã thực hiện tính toán phân tách để tìm hiểu tại sao lại tồn tại chênh lệch chi tiêu giữa các
nhóm dân tộc. Kết quả khi xem xét cả chênh lệch chi tiêu trung bình giữa nhóm người Kinh-Hoa và
nhóm đồng bào dân tộc thiểu số cũng như chênh lệch chi tiêu tại các điểm phần trăm đã chọn trong
phân loại cư dân nông thôn theo mức chi tiêu đầu người cho thấy:
• Xấp xỉ 2/5 của chênh lệch chi tiêu trung bình mỗi năm giữa các hộ thuộc dân tộ
c đa số và dân tộc
thiểu số có nguyên nhân là do những khác biệt về nguồn lực của hộ và đặc tính của xã (như đã
xác định ở trên), trong đó khác biệt về đặc tính nhân khẩu học có tầm quan trọng lớn hơn so với
những khác biệt về trình độ học vấn và khác biệt đặc tính của xã.

• Sự khác biệt về qui mô đất đai thu hẹp chênh lệch giữa các dân tộc do các hộ
thiểu số thường có
nhiều đất hơn người Kinh và biết cách canh tác đất miền núi và vùng cao hiệu quả hơn.
• Ít nhất một nửa chênh lệch chi tiêu giữa các dân tộc bắt nguồn từ những khác biệt về hiệu quả thu
nhập từ các nguồn lực của hộ và đăc tính cấp xã (như đã xác định ở trên). Trong các nghiên cứu
hàn lâm trên thế giới, những khác biệt như vậy thường đượ
c cho rằng là do ‘đối xử không ngang
bằng’ đối với dân tộc thiểu số. Nhưng trong thực tế sự khác biệt trong hiệu quả thu nhập từ các
nguồn lực cũng có thể do những khác biệt về các nguồn lực của hộ và đặc tính của cộng đồng
nơi hộ sinh sống mà các cuộc điều tra hộ không thu thập được thông tin. Ví dụ như nếu hộ dân
tộc thiểu s
ố sống xa trung tâm xã hơn hộ người Kinh, họ sẽ hưởng lợi ít hơn từ những công trình
đường sá, trường học và chợ.
v

• Khi so sánh các hộ tương đồng về điều kiện địa lý của xã nơi các hộ sinh sống và khả năng tiếp
cận của các hộ đối với đường giao thông, giao thông công cộng, bưu điện, chợ hàng ngày và các
đặc tính cấp xã khác, 1/3 đến 2/3 của chênh lệch chi tiêu giữa nhóm đa số và thiểu số có thể là do
sự khác biệt về các đặc tính của xã. Khác biệt trong hiệu suất khai thác các đặc tính của xã quan
trọ
ng hơn sự khác biệt về các đặc tính của xã - sự khác biệt của các đặc tính này đang giảm dần
theo thời gian.
• Những phát hiện này đúng với cả nhóm hộ nghèo, trung bình và giàu ở vùng nông thôn (Hình 3).

Hình 3: Phân tách chênh lệch chi tiêu các dân tộc vùng nông thôn năm 2004
theo các yếu tố tác động
Cấu trúc hộ
Cấu trúc hộ
Giáo dục
Giáo dục

Đất đai
Đất đai
Đặc tính xã
Đặc tính xã
Khác biệt về
hiệu quả
thu nhập
Khác biệt về
hiệu quả
thu nhập
-20%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
25th 50th 75th
Điểm phần trăm
Phần chênh lệch chi tiêu đầu người (%)



5
Tại sao chênh lệch chi tiêu giữa các dân tộc tăng theo thời gian?
Chúng tôi tiến hành một tính toán phân tách khác nhằm tìm hiểu các nguyên nhân của sự gia tăng
chênh lệch trong chi tiêu của các dân tộc theo thời gian. Trong các tính toán này chúng tôi sử dụng
giá trị trung vị thay vì giá trị trung bình.
vi

Và kết quả tính toán phân tách này cho thấy:

• Khoảng 1/3 sự tăng lên của chênh lệch chi tiêu trung vị trong giai đoạn 1993-2004 là do nguồn lực
hộ quan sát được (từ số liệu điều tra) của người Kinh-Hoa và đặc tính cấp xã nơi các hộ sinh
sống tăng nhanh hơn so với mức nguồn lực nhóm các dân tộc thiểu số khác. Cơ cấu hộ và trình
độ học vấn vẫn là nhóm đặc tính quan trọng nhất giải thích sự gia tăng trong chênh lệch chi tiêu,
trong khi đất
đai sở hữu giúp làm giảm sự gia tăng này.
• Những thay đổi trong hiệu quả thu nhập từ các nguồn lực của hộ người Kinh-Hoa và đặc tính cấp
xã nơi các hộ sinh sống, cũng như sự khác biệt trong hiệu quả thu nhập từ các yếu tố này của
nhóm dân tộc đa số và thiểu số đóng vai trò khá nhỏ trong việc làm tăng chênh lệch chi tiêu trung
vị trong những năm này.
• Sự thay
đổi của các yếu tố không quan sát được giải thích khoảng một nửa mức tăng của chênh
lệch chi tiêu trung vị giữa các dân tộc. Những yếu tố này bao gồm văn hóa, ngôn ngữ, khoảng
cách từ nơi hộ sinh sống đến trung tâm huyện/xã và các tiện ích công cộng khác, chất lượng giáo
dục, phân bổ địa lý của các dân tộc… Thông tin về những yếu tố này hoặc không được thu thập
trong các cuộc điều tra mứ
c sống hộ gia đình, hoặc được thu thập theo những cách thức không
nhất quán giữa các năm.
• Phân tích bổ sung sử dụng những biến phụ như văn hóa, ngôn ngữ và khoảng cách địa lý được
thu thập trong một số năm cho thấy các yếu tố như: hộ thuộc nhóm dân tộc thiểu số ở vùng Tây
nguyên, khả năng tiếng Việt hạn chế và ở xa trung tâm xã và huyện làm tăng them chênh lệch chi
tiêu gi
ữa các nhóm dân tộc đa số và thiểu số.
vii
Các đặc tính khác như hộ thuộc dân tộc Khơ-me
hay dân tộc Chăm lại giúp giảm chênh lệch so với dân tộc Kinh. Tuy nhiên, những kết quả này
không thật rõ ràng và thay đổi qua các năm.


Vì vậy vẫn còn một câu hỏi lớn chưa trả lời được là: Đâu là những yếu tố chính làm cho sự phát triển
của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn chậm? Chưa đến một nửa chênh lệch chi tiêu giữa các
dân tộc có thể được diễn giải là do nguồn lực hạn chế của đồng bào dân tộc thiểu số và do họ sinh
sống ở vùng núi xa xôi. Hơn một nửa còn lạ
i của sự chênh lệch chi tiêu có thể là do những yếu tố
không quan sát hay đo đạc được từ các cuộc điều tra hộ gia đình (như chất lượng giáo dục hoặc chất
lượng đất), song cũng có thể do chênh lệch trong hiệu quả thu nhập từ các nguồn lực hộ giữu dân tộc
thiểu số và người Kinh. Có vẻ hai cách giải thích này củng cố cho nhau, vì chênh lệch về nguồn lực
hộ không quan sát
được từ các cuộc điều tra có thể cho thấy lợi thế của người Kinh. Mặc dù các phân
tích định lượng tiếp theo có thể giúp làm sáng tỏ thêm về những yếu tố này, phân tích định tính sâu
cũng sẽ rất hữu ích giúp hiểu rõ hơn tác động của các chuẩn mực và giá trị văn hóa đến sự phát triển
chậm hơn của các nhóm dân tộc thiểu số. Đây có thể sẽ là chủ đề cần
được ưu tiên nghiên cứu trong
Đánh giá nghèo 2008 sắp được thực hiện.




6
Tổng lược các Chính sách và Chương trình
Việt Nam có rất nhiều chính sách và chương trình được thiết kế và thực hiện nhằm hỗ trợ cho sự
phát triển của các dân tộc thiểu số. Những chương trình và chính sách này chú trọng giải quyết nhiều
vấn đề kinh tế xã hội có liên quan đến sự phát triển của dân tộc thiểu số và hướng vào thực hiện
nhiều mục tiêu. Một số chương trình (như hợp phần cơ sở h
ạ tầng thuộc Chương trình 135 và 143,
hợp phần nước thuộc Chương trình 134) tập trung vào xây dựng hạ tầng cơ sở cơ bản ở các vùng
đặc biệt khó khăn (Vùng 3). Nhà nước cũng áp dụng trợ cấp về giá và cước vận chuyển cho các xã
khó khăn và ở vùng xa. Các chương trình và chính sách khác (như hợp phần khuyến nông thuộc
Chương trình 143, hợp phần đào tạo thuộc Chương trình 135, miễn giảm viện phí và nhà ở thu

ộc
Chương trình 134) đã hỗ trợ kỹ thuật canh tác, tay nghề, chăm sóc sức khỏe, phổ cập kiến thức và
nhà ở cho các hộ thuộc dân tộc thiểu số hoặc các hộ nghèo. Loại chương trình thứ 3, điển hình là
Chương trình Hỗ trợ Các hộ dân tộc thiểu số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và một số sáng kiến ở
các tỉnh nhằm hỗ trợ cho các nhóm dân tộc thiể
u số, thường là các dân tộc có ít người và mức sống
rất thấp. Theo thời gian, do tăng trưởng kinh tế nhìn chung giúp nâng cao mức sống người dân Việt
Nam, dường như đã có sự chuyển hướng từ hỗ trợ theo địa bàn sang các chính sách và chương
trình được định hướng trực tiếp vào các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm người nghèo
khác.

Các cuộc phỏng vấn về thực hiện chính sách mà chúng tôi đã thực hiện ở 3 t
ỉnh như là một phần của
dự án nghiên cứu này cho thấy các chính sách cấp quốc gia này nhìn chung được hiểu thông suốt và
đã được thực hiện một cách có hệ thống ở tất cả các cấp quản lý. Tuy nhiên những điều chỉnh đối với
các chính sách cũng đã được thực hiện cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, văn hóa và địa lý
của địa phương. Trong phần lớn các tr
ường hợp, những điều chỉnh như vậy vẫn giữ được chủ trương
chính sách, cho dù vẫn có sự thiếu hụt đáng kể giữa các khoản chi tiêu thực tế so với nhu cầu. Khác
biệt đáng kể nhất khi thực hiện chính sách ở cấp địa phương mà chúng tôi nhận thấy trong suốt quá
trình công tác thực địa là ở Chương trình 134 và trong việc miễn học phí cũng như đóng góp khác đối
với học sinh và sinh viên thuộc dân tộc thiểu số ở các tỉnh. Chương trình 134 có nguồn gốc là chương
trình phân bổ lại đất đai ở Tây nguyên nhưng sau đó tập trung vào xây dựng hệ thống nước và nhà.
Cũng có những khác biệt đáng kể trong cách mỗi tỉnh thực hiện hợp phần nhà ở thuộc Chương trình
134. Tương tự, vài tỉnh hiểu việc miễn học phí cho 11 loại học sinh là áp dụng cho tấ
t cả học sinh là
người dân tộc thiểu số, trong khi các tỉnh khác lại không hiểu như vậy. Phần lớn các tỉnh có các
chương trình nhỏ riêng của mình để hỗ trợ phương kế sinh nhai nông nghiệp của đồng bào dân tộc
thiểu số.


Ngoại trừ khả năng trợ cấp giá và cước vận chuyển cho các xã nghèo, tất cả các chính sách và
chương trình đều tập trung cải thiện nguồn lực của các h
ộ gia đình dân tộc thiểu số và các xã nơi họ
sinh sống. Rất ít chính sách và chương trình hướng vào giải quyết vấn đề hiệu quả thu nhập thấp từ
các nguồn lực của các nhóm dân tộc thiểu số như được nêu ra trong phân tích định lượng được thực
hiện trong nghiên cứu này. Hộp 1 đưa ra một số ví dụ dựa trên kinh nghiệm của các nước khác về
các chính sách nhằm giải quyết vấn đề
nêu trên.


7
Hộp 1: Các chính sách nhằm cải thiện hiệu quả thu nhập từ các nguồn lực của
đồng bào dân tộc thiểu số: Một số kinh nghiệm quốc tế


Ở phần lớn các nước công nghiệp hóa và đang phát triển, các nhóm dân tộc thiểu số nghèo hơn
dân tộc đa số, tuy mức độ có khác nhau. Hai nhóm chính sánh được sử dụng rộng rãi để giúp
nhóm dân tộc thiểu số thu hẹp chênh lệch về hiệu quả thu nhập từ các nguồn lực là:
• Luật tạo cơ hội ngang bằng,
nhằm tránh trường hợp người có khả năng chuyên môn và kinh
nghiệm tương đương lại phải nhận mức lương thấp hơn, có cơ hội tiếp cận việc làm và các
dịch vụ của chính phủ ít hơn xuất phát từ dân tộc, giới tính, tôn giáo hoặc xu hướng tình dục
của họ. Ví dụ như sau Cách mạng năm 1959 ở Cuba, luật tạo cơ hội ngang bằng đã được
thực hi
ện song song với các chính sách kinh tế và xã hội toàn diện, kết quả là đến thập niên
80 đã gần như xóa bỏ chênh lệch mức sống giữa người da trắng và da đen. Gần đây hơn,
Hiến pháp 1998 của E-cu-a-đo đã bảo đảm quyền đất đai công của người bản địa, quyền có
giáo dục bằng ngôn ngữ người bản địa và quyền được tham gia quyết định việc sử d
ụng tài
nguyên thiên nhiên. Dù luật tạo cơ hội ngang bằng được áp dụng rộng rãi ở các nước đã nêu,

các nước đang phát triển và công nghiệp hóa, nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy chênh lệch
về lương và mức sống vẫn còn phổ biến.
• Các chương trình hành động tích cực, nhằm dành quyền ưu tiên cho thành viên của các nhóm
chịu thiệt thòi. Ví dụ như ở Ấn Độ, từ năm 1950, một số suất học cao học, việc làm trong chính
phủ và ghế trong thượng nghị viện được dành riêng cho thành viên thuộc một số bộ tộc.
Tương tự, Chính sách Kinh tế mới của Malaysia năm 1971 cũng đã đặt ra chỉ tiêu định lượng
về chủ sở hữu công ty của người Mã Lai b
ản địa và việc làm của họ trong các ngành. Các
chương trình hành động tích cực cũng được sử dụng tại Châu Phi và Mỹ song thường gây
tranh cãi và bị chỉ trích là đã trợ giúp cho các thành viên khá giả của một số nhóm dân tộc
được hỗ trợ, gây ra sự bất bình từ phía các nhóm dân tộc khác và ảnh hưởng đến sự khuyến
khích tài năng và đóng góp thực sự.


Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy rằng thực hiện phối kết hợp các chương trình hành động ở
một số ngành là cần thiết để giảm thiệt thòi cho các dân tộc thiểu số. Các tổ chức, diễn đàn và tổ
chức phi chính phủ hoạt động vì quyền lợi của nhóm dân tộc thiểu số hoặc do những người thuộc
nhóm dân tộc thiểu số trực tiếp thự
c hiện có vai trò quan trọng trong thực hiện luật và xóa bỏ rào
cản văn hóa và tư tưởng giữa các nhóm dân tộc. Ví dụ như Băng-la-desh và Indonesia, Philippine
và Thái Lan, các tổ chức của người dân bản địa đã tạo điều kiện cho dân tộc thiểu số có tiếng nói
có ảnh hưởng hơn. Có thể nói các tổ chức này giúp cải thiện cả nguồn lực cũng như hiệu quả thu
nhập từ các nguồ
n lực của dân tộc thiểu số.


8
Khuyến nghị chính sách
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
"Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân

tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có
nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.”
Đã hơn 30 năm trôi qua kể từ ngày Việt Nam thống nhất đất nước và 20 năm kể từ công cuộc Đổi
mới được thực hiện. Quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh chóng rõ ràng đóng vai trò quan trọng hàng
đầ
u trong giảm nghèo và cải thiện mức sống của người dân Việt Nam trên nhiều phương diện. Tuy
nhiên, trên cơ sở phân tíchđịnh lượng được thực hiện trong dự án nghiên cứu này, có thể thấy rằng
tác động của quá trình tăng trưởng kinh tế đến mức sống của các nhóm dân tộc là không đồng đều.
Chi tiêu của người Kinh tăng lên nhanh hơn so mới mức trung bình ở nông thôn, còn chi tiêu của 6
nhóm còn lại thấp hơn và tăng chậm h
ơn. Chênh lệch chi tiêu giữa các dân tộc sống ở nông thôn Việt
Nam cũng là đáng kể và khoảng cách này có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Một phần
của chênh lệch này là do nguồn lực hạn chế của đồng bào dân tộc thiểu số hoặc do các đặc tính của
xã nơi họ sinh sống. Điều này cho thấy các giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng cấp xã và cải thiện
nguồn lực của đồng bào dân tộc thiểu số dù quan trọng nhưng sẽ không đủ để xóa bỏ chênh lệch chi
tiêu nói trên. Bên cạnh việc hỗ trợ các xã nghèo ở vùng xa, nên tăng cường thêm các giải pháp hỗ trợ
trực tiếp các nhóm đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. Bảy nhóm dân tộc như dự án nghiên cứu này
phân loại và nghiên cứu có thể cung cấp những thông tin hữu ích. Cũng cần có các chính sách và
chương trình nâng cao hiệu quả thu nhập t
ừ các nguồn lực của dân tộc thiểu số.
viii
Chênh lệch hiệu
quả thu nhập từ các nguồn lực giữa đồng bào Kinh và đồng bào các dân tộc thiểu số cho thấy những
khó khăn liên quan đến văn hóa, ngôn ngữ, địa lý và thị trường nên đồng bào dân tộc thiểu số đã
không tận dụng hết được những cơ hội mà sự tăng trưởng nhanh chóng của kinh tế Việt Nam mang
lại. Do vậy các chính sách giúp tăng hiệu quả thu nhập từ các nguồn l
ực của đồng bào dân tộc thiểu
số có vai trò càng ngày càng quan trọng. Một số ưu tiên trước mắt có thể là:
• Mở rộng các chương trình khuyến nông, dịch vụ thị trường tập trung vào khuyến khích mở rộng
và nâng cao hiệu quả canh tác tại các vùng trung du và miền núi.

• Nâng cao chất lượng giáo dục dành cho con em đồng bào dân tộc thiểu số.
• Cải thiện khả năng tiếp cận đối với việc làm có thu nhập cho đồ
ng bào dân tộc thiểu số.
• Bồi dưỡng khả năng sử dụng tiếng Việt, đặc biệt là cho các nhóm dân tộc thiểu số ở vùng núi
phía Bắc và Tây nguyên.
Thực hiện những ưu tiên này cộng với các giải pháp giúp tăng cường sự tham gia và tận dụng cơ hội
từ tăng trưởng kinh tế của đồng bào dân tộc trở nên hết sức cấp thiết. Các giải pháp như vậy chắ
c
chắn sẽ giúp thực hiện được ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công bằng và tương hỗ lẫn nhau
giữa các dân tộc anh em ở Việt Nam.



9
© Viện Nghiên cứu Phát triển/Trung tâm Phân tích và Dự báo, tháng 03/2008

Tài liệu tham khảo thêm


3 bài báo thuộc dự án này có trên trang web:
/>minority-development-in-vietnam/

Baulch, B., Truong, K.C., Haughton, D. and Haughton, J., 2007, ‘Ethnic minority development in
Vietnam”, Journal of Development Studies, 43(7): 1151-1171

Braunholz-Speight, T., forthcoming, ‘Policies responses to discrimination and their contribution to
reducing chronic poverty’, Background Paper to Chronic Poverty Report 2007-08, Manchester:
Chronic Poverty Research Centre

Hoang, H.T.T., Pham, G.H., Tran, M.B., and Hansen, H., forthcoming, ‘Ethnicity and Poverty

Reduction’ in Hansen, H. and Nguyen, T. (eds) Market, Policy and Poverty Reduction in Vietnam,
Hanoi: Vietnam Culture and Information Publishing House

World Bank, forthcoming, Country Social Assessment: Ethnicity and Development in Vietnam, East
Asia Social Development Unit, World Bank




Báo cáo này do TS. Bob Baulch thuộc Viện nghiên cứu phát triển, Đại học Sussex (Anh quốc) xây
dựng vói sự hỗ trợ của TS. Phạm Thái Hưng thuộc Khoa Kinh tê, Đại học Sussex, và Nguyễn Thị Thu
Phương thuộc Trung tâm Phân tích và Dự báo. Các tác giả chân thành cám ơn các đại biểu tham dự
Hội thảo báo cáo kết quả tổng hợp của Dự án nghiên cứu này được tổ chức tại Hà nội ngày
29/2/2008 về những ý kiến đóng góp quí báu cho bản thảo của Báo cáo.

Ghi chú


i
Dự án này do Hội đồng Nghiên cứu Khoa học xã hội Anh và Bộ Phát triển quốc tế Anh quốc đồng tài
trợ (QĐ Số RES-167-25-0157).
ii
3 tỉnh (huyện) được chọn để nghiên cứu thực địa là Lạng Sơn (Văn Quán), Sơn La (Sông Mã) and
Trà Vinh (Duyên Hải).
iii
‘Khác’ chỉ nhóm còn lại gồm các nhóm dân tộc nhỏ sinh sống ở Duyên hải Bắc Trung Bộ và Nam
Trung Bộ.
iv
Một phần của hiện tượng này là do quá trình “hoà nhập” vào nhóm người Kinh của những hộ người
Hoa khá giả.

v
Tương tự, nếu chất lượng của đất nông nghiệp do đồng bào dân tộc thiểu số canh tác khác với
người Kinh (ví dụ như ít được tưới tiêu hơn), năng suất sẽ giảm. Chất lượng giáo dục mà người dân
tộc thiểu số nhận được thấp ít hơn so với người Kinh cũng có thể ảnh hưởng đến mức lương của họ.
vi
Chúng tôi thực hiện điều này vì nếu sử dụng giá trị trung bình, một số giá trị “bất thường” trong số
liệu có thể bóp méo kết quả của các tính toán phân tách.
vii
Những biến này gồm chế độ mẫu hệ và tôn giáo, phỏng vấn có qua phiên dịch hay không (thể hiện
sự hạn chế trong sử dụng tiếng Việt cho giao tiếp), khoảng cách từ xóm/làng đến trung tâm huyện xã
gân nhất, hộ thuộc nhóm nào trong 7 nhóm dân tộc đã nêu. Lưu ý rằng thu thập thông tin về các yếu
tố này không được thực hiện một cách nhất quán giữa các cuộc điều tra.
viii
Các lĩnh vực ưu tiên ở đây bao gồm khuyến nông, dịch vụ marketing, chất lượng giáo dục, cơ hội
tiếp cận việc làm và kỹ năng tiếng Việt.

×