Các màn "phù phép" trong Báo cáo tài chính
Có nhiều lý do khiến các bản báo cáo tài chính không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu
bị đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả
năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà lãnh đạo buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng
nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số
lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm.
Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo
cáo tài chính. Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đối phó nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang
làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện doanh nghiệp thiếu minh bạch trong cung cấp thông
tin, hậu quả sẽ khó lường. Lấy Enron làm ví dụ, chính kỳ vọng quá lớn của thị trường đã đẩy các nhà lãnh
đạo Enron tới hành vi gian lận tài chính. Sau khi bị phanh phui, giá trị của Enron nhanh chóng bị tụt xuống
dưới mức 1 tỷ USD so với giá trị thực khoản 30 tỷ và kết cục sau cùng là phá sản.
Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến những thủ thuật hợp pháp, tuân thủ theo chuẩn mực kế toán, mà
các doanh nghiệp Mỹ thường sủ dụng, song cũng không mấy xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam.
Phù phép thông qua các ước tính kế toán
Trong quá trình lập báo cáo tài chính, các công ty thường sử dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual
earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của công ty. Vì không có một tiêu
chuẩn chính xác về giá trị các ước tính này, nên nó được xem là một công cụ đắc lực để phù phép lợi
nhuận. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng,
giảm giá hàng tồn kho, giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuấng
dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện...
Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn
thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm.
Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải
được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các
ước tính kế toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh
khỏi.
Phù phép thông qua các giao dịch thực
Ngoài phù phép thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp còn có thể phù phép lợi nhuận thông qua
việc giàn xếp một số giao dịch thực (Real earnings management) nhằm tăng lợi nhuận trong năm hiện tại,
mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi cho công ty về lâu dài.
Ø Tăng doanh thu thông qua các chính sách giá và tín dụng
Một biện pháp các doanh nghiệp thường sủ dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có nguy cơ không đạt kế
hoạch đặt ra là giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong
những tháng cuối năm tài chính. Biện pháp thứ hai là công bố kế hoạch tăng giá bán đầu năm sau. Ví dụ,
để tăng lợi nhuận Quí IV/2007, một công ty sản xuất ôtô có thể công bố kế hoạch tăng giá bán từ Quí
I/2008, lập tức doanh thu Quí IV/2007 sẽ tưng vọt. Hai biện pháp này cho phép công ty tăng lợi nhuận
trong năm hiện tại, nhưng sẽ bị giảm vào các năm sau, vì thực chất công ty đã chuyển lợi nhuận của năm
sau sang năm hiện tại. Mặt khác, tăng giá bán năm sau còn làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty trên
thị trường.
Ø Cắt giảm chi phí hữu ích
Cắt giảm chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tu,
bảo dưỡng thiết bị cũng là cũng là một cách có thể làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các chi phí này có vai
trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của công ty về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này cũng đồng
nghĩa với việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai.
Ø Trì hoãn thanh lý tài sản không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không hiệu quả
Đối với các tài sản doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không mang lại hiệu
quả, giải pháp tối ưu là thanh lý càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, thanh lý tài sản thường đem lại một khoản
lỗ cho công ty trong năm hiện tại. Do đó, nếu lợi nhuận trong năm hiện tại có nguy cơ không đạt được mức
kỳ vọng của thị trường, lãnh đạo công ty có thể không muốn thanh lý, mặc dù trì hoãn sẽ gây nhiều thiệt
hại cho công ty như làm phát sinh chi phí bảo quản, cản trở không gian sản xuất. Với các tài sản và các
khoản đầu tư không hiệu quả thì càng nắm giữ lâu, doanh nghiệp càng lỗ
Ø Bán các khoản đầu tư hiệu quả
Ngoài trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, công ty có thể bán các khoản đầu tư sinh lời
nhằm tăng thêm lợi nhuận cho năm hiện tại. Động thái này được ví như “gặt lúa non”. Vì thế, áp dụng biện
pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm năng sinh lời lớn từ các khoản đầu tư này trong những
năm tiếp theo.
Ø Sản xuất vượt mức công suất tối ưu
Trong điều kiện thông thường, mỗi doanh nghiệp thường xác định một mức công suất tối ưu, tuỳ thuộc vào
năng lực nội tại cũng như điều kiện thị trường Tuy nhiên, trong trường hợp cần tăng lợi nhuận, công ty có
thể quyết định sản xuất vượt mức công suất tối ưu. Điều này cho phép công ty giảm giá thành đơn vị sản
phẩm nhờ tận dụng chi phí cố định. Mặt trái của biện pháp này là máy mó, thiết bị phải làm việc quá mức
ảnh hưởng tiêu cự tới năng suất và độ bền. Ngoài ra, sản phẩm làm ra nhiều, nếu không bán được, sẽ phát
sinh chi phí bảo quản và hàng tồn kho lâu ngày sẽ bị giảm giá trị.
Cả hai biện pháp phù phép báo cáo tài chính (dựa trên các ước tính kế toán hay các giao dịch thực), về bản
chất, chỉ là chuyển lợi nhuận của các năm sau sang năm hiện tại. Điểm khác biệt là ở chỗ: trong khi sử
dụng các ước tính kế toán không làm thay đổi khả năng sinh lời đích thực của doanh nghiệp, thì việc sử
dụng các giao dịch thực để phù phép lợi nhuận sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời
của công ty trong dài hạn. Xét về mặt này, làm tăng lợi nhuận thông qua các ước tính kế toán được ưa
chuộng hơn.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sử dụng các ước tính kế toán không đủ sức giúp các doanh nghiệp đạt
được mức lợi nhuận kỳ vọng và có thể sẽ gặp trở ngại từ phía kiểm toán viên. Do đó, doanh nghiệp có thể
phải dùng đến các giao dịch thực để tăng lợi nhuận. Kiểm toán viên dù phát hiện các thủ thuật này nhưng
vì nó tuân thủ các chuẩn mực kế toán, nên cũng không thể yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh lại.
Tóm lại, dù áp dụng biện pháp nào, về lâu dài đều không có lợi cho nhà đầu tư cũng như cho chính công
ty. Xét trên phạm vi toàn xã hội, hậu quả còn nặng nề hơn, vì bê bối tài chính của một công ty không chỉ
ảnh hưởng riêng đến công ty đó, mà còn làm xói mòn lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường. Để ngăn
chặc những tác động tiêu cực của “Overvaluation”, các doanh nghiệp cần có ý thức cung cấp thông tin đầy
đủ và minh bạch cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng cần tỉnh táo để không đẩy mọi việc đi
quá xa vượt tầm kiểm soát. Tuy nhiên, nhiều khi lợi ích ngắn hạn của “Overvaluation” quá hấp dẫn khiến
các doanh nghiệp khó có thể cưỡng lại được. Theo như nhận xét của Giáo sư M.C Jensen, Giám đốc công
ty Tư vấn Quản trị doanh nghiệp Monitor Group: “Overvaluation cũng giống như một loại heroin. Nó
mang cho ta cảm giác lâng lâng lúc ban đầu, nhưng không lâu sau đó sẽ là những nối đau không cùng.
……………………………………………………………….
Bảo toàn kế toán quản trị trong điều kiện không chắc chắn
Trong chỉ đạo và ra quyết định kinh doanh, các nhà quản trị doanh nghiệp
thường xuyên phải đối mặt với các điều kiện và tình huống kinh doanh
không chắc chắn. Đó là khả năng mà giá trị phát sinh thực tế của các yếu tố
giá bán, sản lượng tiêu thụ, chi phí lãi vay…. sẽ chênh lệch đáng kể với dự
tính. Để quyết định của nhà quản trị mang tính hiệu quả cao, nhà quản trị
cần phải tính đến các yếu tố mang tính rủi ro này. Xét về khía cạnh kế toán
quản trị, đây chính là việc xác lập ảnh hưởng của các yếu tố không chắc chắn trong các mô hình ra
quyết định.
Tùy theo mức độ tiếp cận chi tiết mà việc xác lập ảnh hưởng của yếu tố không chắc chắn trong các mô
hình kế toán quản trị có thể được thực hiện theo một trong 2 phương thức sau:
- Xác định xác suất xảy ra các sự kiện và đưa vào mô hình ra quyết định.
- Sử dụng các mô hình của thống kê, kinh tế lượng, và các mô hình kinh tế khác để dự báo cụ thể các yếu
tố không chắc chắn
Ví dụ, có số liệu về báo cáo kết quả kinh doanh tại công ty K kinh doanh mặt hàng A trong tháng 9.05 như
sau (sản lượng tiêu thụ 3.700 sp):
Trong tháng 10, bộ phận kinh doanh đề nghị giảm giá bán 3.000 đồng/sp, đồng thời tăng chi phí quảng cáo
lên thêm 900.000 đồng, vì biện pháp này sẽ làm cho lượng tiêu thụ tăng, lợi nhuận sẽ tăng. Nhà quản trị
đứng trước việc lựa chọn thực hiện hay không phương án kinh doanh trên.
Theo cách thứ nhất, người ta xác định các sự kiện và các yếu tố không chắc chắn, sau đó tiến hành tính
toán các xác suất xảy ra các sự kiện này trước khi đưa chúng vào mô hình ra quyết định kinh doanh.
Giả sử rằng bộ phận nghiên cứu thị trường cung cấp dữ liệu từ việc điều tra chọn mẫu tại một số đại lý
kinh doanh khi thực hiện biện pháp trên, như sau : sản lượng tiêu thụ dự kiến tăng 30% - 45%, xác suất để
mức sản lượng tiêu thụ tăng lên 30% là 70%, xác suất để mức sản lượng tiêu thụ tăng lên 45% là 30%.
- Nếu mức sản lượng tiêu thụ tăng 30% thì :
+ Số dư đảm phí tăng : (3.700 x 130% x 9.000) – 44.400.000 = -1.110.000
+ Lợi nhuận tăng : -1.110.000 – 900.000 = - 2.010.000 đ (lợi nhuận giảm 2.010.000)
- Nếu mức sản lượng tiêu thụ tăng 45% thì:
+ Số dư đảm phí tăng: (3.700 x 145% x 9.000) - 44.400.000 = 3.885.000 đ
+ Lợi nhuận tăng: 3.885.000 – 900.000 = 2.985.000 đ
Như vậy, mức lợi nhuận tăng khi tính toán ảnh hưởng của nhân tố không chắc chắn là : - 1.100.000 x 70%
+ 2.985.000 x 30% = -512.000 đ ( lợi nhuận giảm 512.000 đồng)
Như vậy, công ty không nên thực hiện phương án này.
Theo cách thứ hai, căn cứ vào dữ liệu thống kê và sự thay đổi trong giá bán và chi phí quảng cáo để tính
toán cụ thể về mức tăng sản lượng tiêu thụ.
Giả sử rằng, dữ liệu về tình hình khối lượng tiêu thụ, giá bán và chi phí quảng cáo của mặt hàng này được
thống kê như sau:
Ta thiết lập mối quan hệ giữa sản lượng tiêu thụ với giá bán và chi phí quảng cáo qua phương trình hồi quy
sau:
Y = b0 + b1X1 + b2X2 , trong đó:
+ Y: sản lượng tiêu thụ
+ X1: giá bán sản phẩm
+ X2: chi phí quảng cáo
+ b0: số hạng cố định
+ b1: mức tác động đến lượng tiêu thụ khi giá bán thay đổi một đơn vị
+ b2: mức tác động đến lượng tiêu thụ khi chi phí quảng cáo thay đổi đơn vị
Ta có thể sử dụng công cụ Exel (Lệnh Tool/Data Analysis) để tính toán các giá trị thống kê đặc trưng và
kết quả hồi quy đa biến. Tóm tắt kết quả hồi quy cho bởi Exel như sau:
+ Mức độ tương quan: 0,987
+ Hệ số xác định: 0,974
+ Thông số độ dốc của biến giá cả: -34,56
+ Thông số độ dốc của biến chi phí quảng cáo: 1,31
+ Số hạng cố định: 326,06
Phương trình hồi quy biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng tiêu thụ với giá bán và chi phí quảng cáo:
Y = 326,06 -34,56X1 + 1,31X2
Bây giờ ta tính toán mức sản lượng tiêu thụ và mức tăng giảm lợi nhuận khi giảm giá bán 3.000 đ/sp, tăng
chi phí quảng cáo thêm 900.000 đ. Thay vào phương trình, ta có dự báo về lượng tiêu thụ:
Y = 326,06 – 34,56 x 47 + 1,31 x 4.805 = 4.996 sp
+ Số dư đảm phí tăng : (4.996 x 9.000) – 44.400.000 = 564.000 đ
+ Lợi nhuận tăng : 564.000 – 900.000 = - 336.000 đ (lợi nhuận giảm 336.000 đ)
Như vậy, không nên thực hiện phương án này.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, nhà quản trị doanh nghiệp thường xuyên đứng trước những tình
huống, những điều kiện kinh doanh không chắc chắn. Các mô hình ra quyết định trong các bài toán kế toán
quản trị hiện nay thường bỏ qua yếu tố rủi ro này hoặc thường chưa xác lập ảnh hưởng của nó một cách cụ
thể và đáng tin cậy.
Về lý thuyết, đó chính là việc vận dụng các công cụ hỗ trợ của lý thuyết xác suất thống kê, kinh tế lượng,
toán kinh tế....để xác lập một cách cụ thể ảnh hưởng của các nhân tố rủi trong các mô hình ra quyết định
của bài toán kế toán quản trị nhằm nâng cao tính hiệu quả và hoàn thiện các mô hình này.
Ở góc độ thực tiễn, trong điều kiện công nghệ và thông tin phát triển hiện nay, chúng ta có đủ điều kiện về
dữ liệu và công cụ tính toán để có thể xác lập một cách cụ thể và đáng tin cậy ảnh hưởng các nhân tố
không chắc chắn trong các mô hình ra quyết định kinh doanh. Vấn đề cần phải xét thêm ở đây là cân nhắc
giữa chi phí và hiệu quả đem lại.
Như vậy, xét về mặt lý luận lẫn thực tiễn, việc tiếp tục hoàn thiện mô hình bài toán kế toán quản trị trong
điều kiện kinh doanh không chắc chắn là điều cần thiết, nhằm làm cho kế toán quản trị ngày càng phát huy
hiệu quả, trở thành công cụ đáng tin cậy trong việc ra quyết định của nhà quản trị ª
Tài liệu tham khảo:
- Tập thể tác giả khoa kế toán trường ĐH Kinh tế TP.HCM, Kế toán quản trị, NXB Thống kê.
- Nguyễn Tấn Bình, Phân tích hoạt động doanh nghiệp, NXB ĐHQG TP.HCM,, 2003
- Robert S.Kaplan, Anthony A.Atkinson, Advanced Management Accounting, third Edition, Prentice Hall
International, Inc.
…………………………………………………………
Bao thanh toán và phương pháp hạch toán
Việt Nam đã gia nhập WTO. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa đang dần dần được hình thành. Trong xu thế đó, sự phát
triển của các công cụ tài chính là một sự tất yếu. Với việc sử dụng các công
cụ tài chính sẽ giúp ích rất nhiều cho các doanh nghiệp cũng như các tổ
chức tài chính trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, việc sử dụng các công
cụ tài chính hiện nay còn chưa phổ biến. Trong phạm vi bài viết này chúng
tôi bàn về hình thức bao thanh toán, những lợi ích của nó đối với các
doanh nghiệp và phương pháp hạch toán nghiệp vụ bao thanh toán.
Theo Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI), bao thanh toán là một dịch vụ tài
chính trọn gói, kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi công nợ và thu hồi
nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán và người bán, trong đó đơn vị bao thanh toán sẽ mua lại
khoản phải thu của người bán, thường là không truy đòi, đồng thời có trách nhiệm đảm bảo khả năng chi
trả của người mua. Nếu người mua phá sản hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín dụng thì đơn vị bao
thanh toán sẽ thay người mua trả tiền cho người bán. Khi người mua và người bán ở hai nước khác nhau
thì dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế.
Theo Điều 1 Những quy định chung về hoạt động bao thanh toán quốc tế ấn bản tháng 06/2004 của FCI
(General Rules for International Factoring Verion FCI June 2004), hợp đồng bao thanh toán là một hợp
đồng, theo đó nhà cung cấp sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu (hay một phần của các khoản phải thu)
cho một đơn vị bao thanh toán, có thể vì hoặc không vì mục đích tài trợ, để thực hiện ít nhất một trong các
chức năng sau đây:
- Kế toán sổ sách các khoản phải thu;
- Thu nợ các khoản phải thu;
- Phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
Điều 2 Chương I Công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế (UNIDROIT Convention on
International Factoring) còn bổ sung thêm một chức năng nữa của bao thanh toán là tài trợ cho người bán,
bao gồm việc cho vay lẫn việc ứng tiền thanh toán trước.
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của Thống đốc NHNN, bao thanh
toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua bán các
khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong
hợp đồng mua bán.
Bao thanh toán là sự tổng hợp tính chất của các hoạt động tài trợ cho người bán, tài trợ dựa trên hóa đơn,
tài trợ thương mại hay chiết khấu hóa đơn.
Về cơ bản, bao thanh toán là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được đảm bảo bằng cách
nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay.
Nói tóm lại, bao thanh toán được hiểu là sự chuyển nhượng nợ của người mua hàng (con nợ) từ người bán
hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang đơn vị bao thanh toán (chủ nợ mới). Đơn vị bao thanh toán đảm
bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Đơn vị bao
thanh toán có thể trả trước toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa
hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được tiền hàng đều do người tài trợ gánh chịu.
Ngoài ra, nghiệp vụ bao thanh toán còn bao gồm một số dịch vụ như quản lý tài khoản phải thu của khách
hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt quan hệ với
khách hàng lâu dài.
Bao thanh toán mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp bán hàng và mua hàng. Cụ thể:
* Đối với doanh nghiệp bán hàng:
+ Cải thiện dòng tiền, tăng khả năng thanh khoản.
+ Tăng doanh số bán hàng nhờ chính sách bán hàng trả chậm.
+ Giảm chi phí hành chính, quản lý công nợ.
+ Có nguồn tài chính mới mà không phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng, không yêu cầu phải có tài
sản bảo đảm.
+ Giảm thiểu nợ xấu, hạn chế rủi ro tín dụng.
* Đối với doanh nghiệp mua hàng:
+ Có thể mua hàng theo điều khoản thanh toán sau.
+ Sử dụng tín dụng người bán để tài trợ vốn lưu động.
+ Cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn.
+ Đơn giản hóa thủ tục thanh toán nhờ tập trung thanh toán về một đầu mối là ngân hàng.
Bao thanh toán có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, như:
- Bao thanh toán truy đòi - miễn truy đòi
- Bao thanh toán có thông báo - không thông báo
- Bao thanh toán trong nước - xuất nhập khẩu
Hiện nay, bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất nhập khẩu được các ngân hàng áp dụng phổ
biến. Cụ thể, cơ chế hoạt động của hai hình thức này được thực hiện như sau:
* Bao thanh toán trong nước:
1.Bên bán hàng và ngân hàng ký kết hợp đồng bao thanh toán.
2.Bên bán hàng và ngân hàng cùng gửi thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng, trong đó
nêu rõ việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ngân hàng.
3.Bên mua hàng xác nhận về việc đã nhận thông báo và cam kết thanh toán cho ngân hàng.
4.Bên bán hàng giao hàng cho bên mua.
5.Ngân hàng ứng trước cho bên bán hàng.
6.Bên mua hàng thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng khi đến hạn.
7.Ngân hàng thu phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên bán hàng
* Bao thanh toán xuất nhập khẩu:
1.Nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu với ngân hàng thanh toán xuất khẩu.
2.Nhà xuất khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu về việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ngân hàng thanh
toán xuất khẩu..
3.Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu.
4.Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu..
5.Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. ứng trước cho nhà xuất khẩu.
6.Nhà nhập khẩu thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu. khi đến hạn thông qua
đơn vị bao thanh toán nhập khẩu – đối tác của ngân hàng thanh toán xuất khẩu..
7. Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. thu phần ứng trước và chuyển phần còn lại cho nhà xuất khẩu.
Từ những vấn đề về bao thanh toán được trình bày ở trên, chúng tôi đi vào trình bày phương pháp hạch
toán.
* Trường hợp bao thanh toán trong nước:
+ Khi hạch toán trường hợp này cần chú ý một số nguyên tắc sau:
- Chi phí liên quan đến việc ký kết hợp đồng bao thanh toán được hạch toán vào chi phí tài chính.
- Phí bao thanh toán trả cho ngân hàng bao thanh toán được hạch toán vào chi phí tài chính.
- Chứng từ liên quan đến việc bán hàng được chuyển giao cho đơn vị bao thanh toán.
- Số tiền người mua thanh toán cho ngân hàng bao thanh toán khi đến hạn. Ngân hàng bao thanh toán thanh
toán phần còn lại cho doanh nghiệp.
- Số tiền mà ngân hàng bao thanh toán ứng trước cho doanh nghiệp mang tính chất của một khoản vay.
- Rủi ro liên quan đến việc thu hồi nợ từ người mua do ngân hàng bao thanh toán gánh chịu.
+ Phương pháp hạch toán:
- Phản ánh chi liên giao dịch ký kết hợp đồng bao thanh toán:
Nợ TK635 – Chi phí tài chính
Nợ TK133(1331) - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Có TK111,112…
- Phản ánh chi phí bao thanh toán phải trả cho ngân hàng bao thanh toán:
Nợ TK635 – Chi phí bao thanh toán
Có TK111,112…
- Khi giao hàng cho bên mua:
• Phản ánh giá vốn:
Nợ TK632 – Giá vốn hàng bán
Có TK155,156
• Phản ánh doanh thu:
Nợ TK131 - Tổng giá thanh toán
Có TK511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Có TK333(3331) - Thuế GTGT đầu ra phải nộp (nếu có)
- Khi ngân hàng bao thanh toán ứng trước một phần số tiền cho doanh nghiệp:
Nợ TK111,112 - Số tiền ngân hàng bao thanh toán ứng trước.
Có TK311
- Đến hạn thanh toán, người mua thanh toán tiền hàng cho ngân hàng bao thanh toán. Ngân hàng bao thanh
toán thanh toán phần còn lại cho doanh nghiệp.
Nợ TK111,112 - Số tiền còn lại mà ngân hàng thanh toán
Nợ TK311 - Số tiền ngân hàng bao thanh toán đã ứng trước
Có TK131 - Số tiền bán chịu người mua
* Trường hợp bao thanh toán xuất nhập khẩu:
- Phản ánh chi liên giao dịch ký kết hợp đồng bao thanh toán:
Nợ TK635 – Chi phí tài chính
Nợ TK133(1331) - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Có TK111,112…
- Phản ánh chi phí bao thanh toán phải trả cho ngân hàng bao thanh toán:
Nợ TK635 – Chi phí bao thanh toán (Theo tỷ giá giao dịch thực tế)
Có TK111,112…(Theo tỷ giá ghi sổ kế toán)
(Chênh lệch tỷ giá hối đoái được hạch toán vào chi phí hoạch doanh thu tài chính.)
Đồng thời: Có TK007 - Ngoại tệ các loại
- Khi giao hàng cho bên mua:
• Phản ánh giá vốn:
Nợ TK632 – Giá vốn hàng bán
Có TK155,156
• Phản ánh doanh thu:
Nợ TK131 - Tổng giá thanh toán (Theo tỷ giá giao dịch thực tế)
Có TK511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Theo tỷ giá giao dịch thực tế)
• Phản ánh thuế xuất khẩu phải nộp
Nợ TK511
Có TK333(3333-XK) - Thuế xuất khẩu phải nộp Nhà nước
- Khi ngân hàng bao thanh toán ứng trước một phần số tiền cho doanh nghiệp:
Nợ TK111,112 - Số tiền ngân hàng bao thanh toán ứng trước. (Theo TG GDTT)
Có TK311 – Theo TG GDTT
Đồng thời: Nợ TK007 - Ngoại tệ các loại
- Đến hạn thanh toán, người mua thanh toán tiền hàng cho ngân hàng bao thanh toán. Ngân hàng bao thanh
toán thanh toán phần còn lại cho doanh nghiệp.
Nợ TK111,112 - Số tiền còn lại mà ngân hàng thanh toán (Theo TG GDTT)
Nợ TK311 - Số tiền ngân hàng bao thanh toán đã ứng trước (Theo TG GSKT)
Có TK131 - Số tiền bán chịu người mua (Theo TG GSKT)
(Chênh lệch tỷ giá hối đoái được hạch toán vào chi phí hoạch doanh thu tài chính.)
Đồng thời: Nợ TK007 - Ngoại tệ các loại
Trên đây là một số nội dung bàn về hạch toán nghiệp vụ bán hàng trong trường hợp áp dụng bao thanh
toán chúng tôi muốn chia sẻ cùng bạn đọc.
………………………………………………
Kế toán tại DNNVV: Đối phó và hệ lụy
Tầm quan trọng của công tác kế toán DN mới chỉ được xác định ở nước ta về mặt
lý thuyết. Trên thực tế, công tác kế toán DN đã và đang bị coi thường.
Trước hết, trong các DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa, công tác kế toán chỉ là
"công cụ để đối phó" với việc kiểm tra, quyết toán thuế. Tình trạng "hai trong
một" - hai hệ thống sổ kế toán xảy ra khá phổ biến, nếu không muốn cho rằng, ở
tất cả các DN nhỏ và vừa.
Hai hệ thống cùng tồn tại
Hệ thống thứ nhất được gọi là "kế toán nội bộ" chỉ có chủ DN được biết. Đó là hệ thống "sổ chợ", không
theo bất kỳ quy định nào của pháp luật. Hệ thống thứ hai được gọi là "kế toán thuế". Hệ thống này, về hình
thức, theo đúng quy định của pháp luật nhưng thông tin, số liệu trong đó hoàn toàn không phản ánh đúng
thực tiễn hoạt động kinh doanh. Trong các DN ngoài quốc doanh, số liệu kế
toán phản ánh tình trạng "lãi thật, lỗ giả". Không ít DN, sau một số năm hoạt động số lỗ cộng dồn lớn hơn
nhiều lần vốn điều lệ nhưng chủ DN vẫn rất nhiều tiền để mua bán bất động sản và mua sắm các tài sản đắt
tiền. Ở các DN nhà nước (bao gồm cả các Cty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần chi phối) thì tình hình
ngược lại, hoạt động kinh doanh thua lỗ nghiêm trọng nhưng trên báo cáo tài chính vẫn có lãi, vẫn chia tiền
thưởng và thậm chí có Cty vẫn "lên sàn" giao dịch của thị trường chứng khoán.
Nhân lực không được trọng dụng
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ kế toán được đào tạo khá nhiều. Song, sự gia tăng về lượng không
tương xứng với sự nâng cao về chất. Thêm vào đó, cùng với phương thức "gia đình trị" trong quản lý các
DN VN, các cán bộ kế toán chưa được chủ DN trọng dụng, không có điều kiện để học tập, bồi dưỡng cập
nhật kiến thức và nâng cao năng lực chuyên môn. Có nhiều DN thuê kế toán theo mùa vụ. Vì vậy, đội ngũ
kế toán trong các DN không ổn định, gây khó khăn lớn cho việc bảo đảm yêu cầu liên tục trong công tác
kế toán.
Doanh nghiệp thờ ơ với Luật?
Về việc quản lý nhà nước đối với công tác kế toán DN, Luật Kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã
được ban hành và có hiệu lực. Song, việc triển khai Luật vào thực tiễn của các DN chưa được quan tâm.
Công tác kiểm tra kế toán theo các điều 35 đến 38 Luật Kế toán chưa được triển khai. Cho đến nay, chỉ cơ
quan thuế quan tâm, kiểm tra công tác kế toán của DN. Song, việc kiểm tra công tác kế toán DN của cơ
quan thuế chỉ nhằm mục đích thuế, do đó không thể toàn diện. Hơn nữa, theo quy định hiện hành, cơ quan
thuếë không có thẩm quyền trong việc xử lý phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán. Trong điều
kiện thực tế ở nước ta hiện nay, những sai sót của DN về công tác kế toán rất dễ dàng được "cho qua" nhờ
các "cuộc đàm phán tế nhị"!
Để từng bước đưa chế độ kế toán VN hòa nhập cùng chế độ kế toán của các nước trên thế giới, những năm
qua, Bộ Tài chính đã tích cực nghiên cứu và ban hành được 26 chuẩn mực kế toán. Đó là một cố gắng lớn,
đáng ghi nhận. Song, việc nghiên cứu, ban hành các chuẩn mực kế toán là quan trọng nhưng quan trọng
hơn là đưa chúng vào thực tiễn. Nghiên cứu, tiếp thu các chuẩn mực kế toán là công việc rất phức tạp,
ngay cả với những cán bộ kế toán được đào tạo chính quy. Do đó, ban hành các chuẩn mực kế toán chưa
phải đã là hoàn thành nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, ở không ít DN nhỏ và vừa hiện nay, còn rất nhiều cán
bộ kế toán như những "con nai vàng ngơ ngác" khi nghe nói đến chuẩn mực kế toán!
Đã đến lúc, gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng coi thường công tác kế toán trong các DNVN.
Tình trạng coi thường công tác kế
toán trong nhiều DNNVN, trước hết
và chủ yếu là trong các DNNVV đã
gây ra những hậu quả âm thầm
nhưng nghiêm trọng. Không ít DN,
sau hai ba năm, khi có thanh tra thuế
mới vội vàng "chạy" để lập lại các
sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Nghiêm trọng hơn, có những DN,
mời đơn vị kiểm toán để kiểm toán
báo cáo tài chính nhằm thực hiện
"giấc mơ lên sàn" nhưng đơn vị
kiểm toán đã từ chối vì công tác kế
toán... chưa đạt yêu cầu!
………………………..
Sơ lược sự ra đời của hệ thống kế toán tài chính thế giới và Việt Nam
Kế toán là một công cụ hữu hiệu giúp cho không chỉ các nhà quản lý nắm
được thực trạng tài chính nhằm hoạch định kế hoạch phát triển cho tương lai
của công ty mà còn là mối quan tâm của các nhà đầu tư tài chính, các ngân
hàng, Nhà nước… nhằm phục vụ cho những mục đích của mình.
Hạch toán kế toán gắn liền với sản xuất do đó ngay từ thời kỳ nguyên thuỷ người
ta đã sử dụng hạch toán kế toán đẻ ghi chép theo dõi quá trình sản xuất.
Các bản ghi kế toán đã xuất hiện từ năm 8500 trước công nguyên ở Trung Á, viết
bằng đất sét thể hiện các hàng hoá như bánh mỳ, dê, quần áo... Bản ghi này được gọi là bullae, một dạng
hoá đơn ngày nay. Bullae được gửi cùng với hàng hoá nhằm giúp người nhận kiểm tra lại chất lượng và
giá cả của số hàng mình nhận được. Lúc này vẫn chưa có hệ số đếm khác nhau cho đến năm 850 trước
công nguyên, hệ số đếm Hindus-Arabic ra đời và được sử dụng cho đến ngày nay. Việc giữ các bản ghi
vẫn chưa được hình thức hoá cho tới mãi thế thứ 13, xuất phát từ các giao dịch kinh doanh và ngân hàng
tại Florence, Venice and Genoa. Tuy nhiên, các tài khoản không thực sự thể hiện được bản chất nghiệp vụ
giao dịch và hiếm khi cân đối.
Tuy nhiên phải đến năm 1299 con người mới phát triển hệ thống thông tin tài chính gồm tất cả các yếu tố
cấu thành của hệ thống kế toán kép và vào năm 1494 Luca Pacioli tác giả cuốn Summa hệ thống kế toán
kép mới được miêu tả một cách cụ thể và rõ nét. Sau đó 377 năm Josial Wedwood là người đầu tiên hoàn
thiện hệ thống kế toán giá thành. Hệ thống kế toán từ đó đã ngày càng được hoàn chỉnh hơn với việc hoàn
thiện hệ thống kế toán giá thành hiện đại của Donaldson Brown- Giám đốc điều hành của General Motor.
Hiện nay trên thế giới đã có một tổ chức riêng ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế. Tổ chức thiết lập
chuẩn mực kế toán quốc tế gồm Tổ chức ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASCF), Hội đồng chuẩn mực
kế toán quốc tế (IASB), Hội đồng cố vấn chuẩn mực (SAC), Hội đồng hướng dẫn báo cáo tài chính quốc tế
(IFRIC).
* IASCF có trách nhiệm giám sát IASB, là tổ chức ban hành chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS).
SAC có trách nhiệm tư vấn các vấn đề kỹ thuật và lịch làm việc cho IASB. IFRIC, dưới sự quản lý của
IASB, có trách nhiệm ban hành các hướng dẫn báo cáo tài chính quốc tế.
* IASCF gồm mười chín (19) ủy thác viên gồm sáu (6) từ Bắc Mỹ, sáu (6) từ châu Âu, bốn (4) từ châu Á -
Thái Bình Dương, và ba (3) từ bất kỳ khu vực nào khác miễn là sự cân bằng về khu vực địa lý được giữ
vững.
* IASB có 14 thành viên đến từ 9 quốc gia có trách nhiệm thiết lập các chuẩn mực kế toán. Các thành viên
của IASB được lựa chọn theo tiêu chuẩn trình độ chuyên môn chứ không phải theo khu vực bầu cử hay
quyền lợi khu vực. Các thành viên của IASB có nguồn gốc là các kiểm toán viên thực hành, người lập các
báo cáo tài chính, người sử dụng các báo cáo tài chính, và từ hàn lâm. Bảy trong 14 thành viên có trách
nhiệm trực tiếp liên hệ với một hay nhiều hơn các nhà thiết lập chuẩn mực quốc gia. Việc công bố một
chuẩn mực, dự thảo, hay hướng dẫn cần được sự tán thành của 8 trên 14 thành viên.
* Hội đồng cố vấn chuẩn mực (SAC) bao gồm các nhóm cá nhân có các nguồn gốc chức năng và khu vực
địa lý khác nhau nhằm cố vấn cho IASB và đôi khi, cho các ủy thác viên.
* Các thành viên của IFRIC đến từ các khu vực địa lý rộng rãi, có trình độ giao dịch cao, đại diện của các
kế toán viên trong các ngành nghề và người sử dụng các báo cáo tài chính.
* Thêm vào đó, tất cả các thành viên của IASB có trách nhiệm liên hệ với các nhà thiết lập chuẩn mực
quốc gia không có thành viên của IASB trong tổ chức lập quy của họ. Ngoài ra, nhiều quốc gia này cũng
có mặt trong Hội đồng cố vấn chuẩn mực.
* Như vậy, trên thế giới hệ thống tài chính kế toán đã có được sự thống nhất cơ bản để các nước dựa vào
đó xây dựng các chuẩn mực tài chính kế toán của mình.
Tại Việt Nam hệ thống tài chính kế toán đã phát triển qua ba giai đoạn chính
accounting.gifTrước những năm 1990: Đây là giai đoạn mà nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế bao cấp,
các thành phần kinh tế chỉ có quốc doanh, tập thể và cá thể mà giữ thành phần chủ đạo là thành phần kinh
tế quốc doanh và không có các hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Do đặc điểm này mà
hoạt động nghề nghiệp của các kế toán viên chủ yếu tuân thủ theo nội quy, quy định của Bộ Tài chính – cơ
quan cao nhất chịu trách nhiệm quản lý tài sản XHCN.
Từ năm 1991 đến năm 1994: Đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần đã tác động đến bản chất và
đặc thù của nghề kế toán. Nhiều thuật ngữ trong lĩnh vực kế toán ra đời như khái niệm lãi, lỗ, lợi nhuận…
mà đối với nhiều kế toán viên chỉ quen làm trong nền kinh tế bao cấp là khá trừu tượng và khó hiểu.
Do thực tế khách quan thay đổi nên giai đoạn từ năm 1995 đến nay chính là thời gian mà hệ thống kế toán
tài chính nước ta có những bước phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Đặc biệt là từ năm 1995 đến nay
hệ thống kế toán toán tài chính nước ta đã hình thành và phát triển lĩnh vực kiểm toán. Sự phát triển vượt
bậc này được đánh dấu bởi sự ra đời của Luật kế toán Việt Nam do quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 3 thông
qua cũng như các chuẩn mực về kế toán tài chính riêng của Việt Nam đã được ban hành.
Kế toán tài chính tại Việt Nam không còn phát triển một cách đơn lẻ tự phát nội bộ mà đã có hệ thống và
liên kết với thế giới. Đánh dấu bước phát triển quan trọng này là vào năm 1996 Hội kế toán Việt Nam
(VAA) ra đời và trở thành thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cũng như là thành viên của
Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Tính đến ngày 31/12/2006 ở Việt Nam đã có 120 công ty
kiểm toán độc lập.
…………………………….
Thuê người làm kế toán quản trị doanh nghiệp, có được không ?
Trường hợp doanh nghiệp không bố trí người làm kế toán quản trị mà thuê người
bên ngoài làm công việc này thì có được không?
Đối với đơn vị kế toán không có điều kiện hoặc không bố trí người làm kế toán quản trị thì
có thể thuê người làm kế toán quản trị theo hướng dẫn tại Thông tư số 53/2006/TT-BTC
(12/6/2006) của Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị doanh nghiệp như sau:
- Đơn vị kế toán được ký hợp đồng với doanh nghiệp dịch vụ kế toán hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh
dịch vụ kế toán để thuê làm kế toán quản trị theo quy định của pháp luật;
- Việc thuê làm kế toán quản trị phải được lập thành hợp đồng theo quy định của pháp luật;
- Đơn vị kế toán thuê người làm kế toán quản trị có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời, trung thực mọi
thông tin, tài liệu liên quan đến công việc thuê làm kế toán và thanh toán đầy đủ, kịp thời phí dịch vụ kế
toán theo thoả thuận trong hợp đồng;
- Doanh nghiệp, cá nhân cung cấp dịch vụ kế toán quản trị phải chịu trách nhiệm về thông tin, số liệu kế
toán theo thoả thuận trong hợp đồng.
Kế toán trưởng của doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức thực hiện kế toán quản trị trong doanh nghiệp và
chịu trách nhiệm trước ban lãnh đạo doanh nghiệp về các thông tin, số liệu kế toán quản trị đã cung cấp.
………………….
Phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo quy định của chế độ kế toán áp dụng cho các DN
TCKT cập nhật: 21/04/2007
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong các báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp
phải lập để cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng. Trước đây báo cáo lưu chuyển tiền tệ có
thể được lập hoặc không tùy theo khả năng và điều kiện của doanh nghiệp, nhưng hiện tại, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ đã trở thành báo cáo bắt buộc phải lập để cung cấp thông tin. Các vấn đề pháp lý
liên quan đến báo cáo lưu chuyển tiền tệ đã được quy định trong luật kế toán, chuẩn mực kế toán
(Chuẩn mực số 24) và thông tư hướng dẫn thực hiện (Thông tư 105/2003-TT-BTC ngày 04.11.2003).
Mặc dù báo cáo lưu chuyển tiền tệ có tác dụng quan trọng trong việc phân tích, đánh giá, dự báo khả năng
tạo ra tiền, khả năng đầu tư, khả năng thanh toán,… nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà đầu tư và những
ai có nhu cầu sử dụng thông tin có những hiểu biết nhất định đối với hoạt động của doanh nghiệp nhưng
nhận thức về tầm quan trọng cũng như lượng thông tin được chuyển tải từ các báo cáo này vẫn còn thực sự
chưa rõ ràng thậm chí còn rất mơ hồ đối với nhiều người, ngay cả với những người làm công tác kế toán.
Bài viết này nhằm giải quyết một trong những thách thức đối với người đọc và người lập báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, đó là việc nhận diện các chỉ tiêu và phương pháp lập các chỉ tiêu của báo cáo lưu chuyển
tiền tệ theo quy định của chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Như chúng ta đều biết, để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì doanh nghiệp có thể lập theo một hoặc cả hai
phương pháp: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Tương ứng với mỗi phương pháp có mẫu
báo cáo riêng, nhưng mẫu báo cáo của hai phương pháp chỉ khác nhau ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động
kinh doanh.
Sau đây lần lượt đi vào tìm hiểu báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo từng phương pháp.
- Theo phương pháp trực tiếp: Đặc điểm của phương pháp này là các chỉ tiêu được xác lập theo các dòng
tiền vào hoặc ra liên quan trực tiếp đến các nghiệp vụ chủ yếu, thường xuyên phát sinh trong các loại hoạt
động của doanh nghiệp. Tần số phát sinh và độ lớn của loại nghiệp vụ kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến lưu
chuyển tiền trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
+ Đối với hoạt động kinh doanh thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến hoạt động bán hàng, cung
cấp dịch vụ và việc thanh toán các khoản nợ phải trả liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy
các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh thường bao gồm: tiền thu từ bán hàng, cung cấp
dịch vụ và doanh thu khác, tiền đã trả nợ cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ, tiền trả cho người lao
động, tiền đã nộp thuế….
+ Đối với hoạt động đầu tư thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến việc mua sắm, thanh lý, nhượng
bán TSCĐ; xây dựng cơ bản, hoạt động cho vay, mua bán các công cụ nợ của đơn vị khác, hoạt động đầu
tư vào các đơn vị khác. Do vậy, các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư thường bao gồm:
thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu nợ cho vay, thu hồi các khoản vốn đầu tư vào đơn vị khác, chi mua
sắm TSCĐ, xây dựng cơ bản, chi cho vay, chi đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Đối với hoạt động tài chính thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến các nghiệp vụ nhận vốn, rút
vốn từ các chủ sỡ hữu và các nghiệp vụ đi vay, trả nợ vay. Do vậy các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ
hoạt động tài chính thường bao gồm: tiền thu do chủ sở hữu góp vốn, tiền chi trả vốn góp cho chủ sở hữu,
tiền vay nhận được, tiền trả nợ vay…
Ngoài ra nếu doanh nghiệp có sử dụng ngoại tệ trong giao dịch thì khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do
đánh giá lại số dư cuối kỳ của tiền và tương tiền bằng ngoại tệ khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng là
một chỉ tiêu nằm trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Có thể mô tả dòng tiền vào, ra từ các
hoạt động khác nhau qua sơ đồ tài khoản tổng quát như sau:
Qua sơ đồ trên có thể thấy rằng dòng tiền vào hoặc ra đồng thời liên quan đến cả 3 hoạt động: hoạt động
kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính. Nên để phân tích dòng tiền vào, ra gắn với từng hoạt
động cần thiết phải phân loại nội dung của từng khoản thu, chi theo từng loại hoạt động. Đây chính là đặc
điểm của phương pháp lập báo cáo theo phương pháp trực tiếp mà chúng ta đang đề cập. Theo chúng tôi,
để thuận lợi và dễ dàng khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp, cần phân loại nội
dung các dòng tiền vào, ra theo các bước:
Bước 1: Phân loại dòng tiền vào, ra gắn với các nhóm tài khoản theo sơ đồ trên.
Bước 2: Từ Bước 1 xác định dòng tiền vào, ra liên quan đến hoạt động tài chính – Đây là hoạt động có tần
suất về nghiệp vụ liên quan đến tiền không nhiều và rất dễ nhận diện.
Bước 3: Nhận diện và xác định dòng tiền vào, ra liên quan đến hoạt động đầu tư – Các nghiệp vụ liên quan
đến tiền của hoạt động đầu tư cũng có tần suất thấp, dễ nhận diện do tính đặc thù của nó.
Bước 4: Sau khi loại trừ dòng tiền vào ra của 2 hoạt động nêu trên, sẽ xác định nhanh chóng dòng tiền vào,
ra của hoạt động kinh doanh.
Một vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp nhỏ có khối lượng nghiệp vụ liên quan đến tiền phát sinh
không nhiều thì dựa vào cách xác định như trên để thực hiện một lần vào cuối tháng; Đối với những doanh
nghiệp lớn có khối lượng nghiệp vụ liên quan đến tiền phát sinh nhiều thì định kỳ 10 ngày nên dựa vào
cách xác định như trên để thực hiện một lần, sau đó đến cuối tháng sẽ cộng dồn để xác định lưu chuyển
tiền cho tháng (quý, năm).
- Theo phương pháp gián tiếp: báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp theo quy định hiện
nay chỉ thực sự gián tiếp ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh, còn 2 phần, lưu chuyển tiền từ
hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính được xác định theo phương pháp trực tiếp –
Việc xác lập như vậy cũng tỏ ra phù hợp bởi mục tiêu của phương pháp này là xác lập mối liên hệ giữa lợi
nhuận với lưu chuyển tiền để giúp người nhận thông tin thấy rằng không phải doanh nghiệp có lãi là có
tiền nhiều, doanh nghiệp bị lỗ thì có tiền ít hoặc không có tiền. Vấn đề là tiền nằm ở đâu, ở đâu ra và dùng
cho mục đích gì, mà đã đặt trong mối liên hệ với lợi nhuận thì hầu hết lợi nhuận lại được tạo ra từ hoạt
động kinh doanh.
Các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh theo phương pháp gián tiếp có thể nhận diện dễ
dàng qua công thức sau:
Lợi nhuận trước thuế = Doanh thu - Chi phí tạo ra doanh thu
= (Tiền + Nợ phải thu) - (Tiền + Hàng tồn kho + Chi phí trả trước phân bổ + Nợ phải trả + Khấu hao + Dự
phòng + Chi phí lãi vay).
= Tiền (lưu chuyển) + Nợ phải thu – Hàng tồn kho – Chi phí trả trước phân bổ - Nợ phải trả – Khấu hao –
Dự phòng – Chi phí lãi vay.
® Lưu chuyển tiền = Lợi nhuận trước thuế + Khấu hao + Dự phòng + Chí phí lãi vay + Hàng tồn kho – Nợ
phải thu + Nợ phải trả + Chi phí trả trước phân bổ.
Qua công thức này thấy rằng, lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh nếu được xác định bắt đầu từ lợi
nhuận trước thuế thì các chỉ tiêu điều chỉnh bao gồm: Khấu hao (điều chỉnh tăng), Dự phòng (điều chỉnh
tăng), Chi phí lãi vay (điều chỉnh tăng), con các chỉ tiêu: Hàng tồn kho, Nợ phải thu, Nợ phải trả và Chi phí
trả trước thì việc điều chỉnh tăng, giảm phụ thuộc vào số dư cuối kỳ và số dư đầu kỳ của các tài khoản nằm
trong các chỉ tiêu này:
+ Đối với hàng tồn kho:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành hàng tồn kho).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận hàng tồn kho
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Nợ phải thu:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành nợ phải thu).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải thu
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Chi phí trả trước:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộ phận tiền được
chuyển thành chi phí trả trước).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộ phận chi phí trả
trước đã chuyển hóa thành tiền).
+ Đối với Nợ phải trả:
°Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải trả được
chuyển thành tiền).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được dùng
để thanh toán nợ phải trả).
Qua lý giải trên có thể thấy rằng, lưu chuyển tiền nghịch biến với sự biến động của hàng tồn kho, nợ phải
thu, chi phí trả trước và đồng biến với sự biến động của nợ phải trả.
Ngoài ra do chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế bao gồm cả lợi nhuận của hoạt động đầu tư và lãi, lỗ chênh lệch
tỷ giá hối đoái chưa thực hiện nên các chỉ tiêu này cũng được dùng để điều chỉnh khi xác định lưu chuyển
tiền từ hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc nếu lãi thì điều chỉnh giảm, ngược lại lỗ thì điều chỉnh tăng.
Đồng thời lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh còn liên quan đến một số nghiệp vụ khác không ảnh
hưởng đến sự biến động của lợi nhuận trong mối quan hệ với lưu chuyền tiền nên cần được xác định thành
các chỉ tiêu thu, chi khác nằm trong lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh.
Từ việc nhận diện các chỉ tiêu và lý giải cơ sở xác định từng chỉ tiêu như nói trên cho thấy rằng việc hiểu
và lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thật ra không quá khó như nhiều người lầm tưởng, thậm chí có thể nói là
khá đơn giản. Hơn nữa do hai phương pháp trực tiếp và gián tiếp chỉ khác nhau ở phần lưu chuyển tiền từ
hoạt động kinh doanh nên nếu doanh nghiệp cùng một lúc lập theo cả hai phương pháp thì việc xác định
lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh càng có điều kiện để đối chiếu, tạo ra được cân đối đúng đắn.
Vấn đề cần được đặt ra hiện nay là tự thân báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng như sự kết hợp báo cáo lưu
chuyển tiền tệ với các báo cáo tài chính khác sẽ cung cấp cho người nhận thông tin các chỉ tiêu phân tích gì
để nó có thể chứng tỏ và phát huy được tính hữu dụng của mình trong thực tiễn quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh. Chúng tôi sẽ nghiên cứu và đề cập vấn đề này trong các số báo tiếp theo.
………………………..
Nhận diện các chỉ tiêu và phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong các báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp phải lập để cung
cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng. Trước đây báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể được lập hoặc
không tùy theo khả năng và điều kiện của doanh nghiệp, nhưng hiện tại, báo cáo lưu chuyển tiền tệ
đã trở thành báo cáo bắt buộc phải lập để cung cấp thông tin. Các vấn đề pháp lý liên quan đến báo
cáo lưu chuyển tiền tệ đã được quy định trong luật kế toán, chuẩn mực kế toán (Chuẩn mực số 24)
và thông tư hướng dẫn thực hiện (Thông tư 105/2003-TT-BTC ngày 04.11.2003).
Mặc dù báo cáo lưu chuyển tiền tệ có tác dụng quan trọng trong việc phân tích, đánh giá, dự báo khả năng
tạo ra tiền, khả năng đầu tư, khả năng thanh toán,… nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà đầu tư và những
ai có nhu cầu sử dụng thông tin có những hiểu biết nhất định đối với hoạt động của doanh nghiệp nhưng
nhận thức về tầm quan trọng cũng như lượng thông tin được chuyển tải từ các báo cáo này vẫn còn thực sự
chưa rõ ràng thậm chí còn rất mơ hồ đối với nhiều người, ngay cả với những người làm công tác kế toán.
Bài viết này nhằm giải quyết một trong những thách thức đối với người đọc và người lập báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, đó là việc nhận diện các chỉ tiêu và phương pháp lập các chỉ tiêu của báo cáo lưu chuyển
tiền tệ theo quy định của chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Như chúng ta đều biết, để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì doanh nghiệp có thể lập theo một hoặc cả hai
phương pháp: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Tương ứng với mỗi phương pháp có mẫu
báo cáo riêng, nhưng mẫu báo cáo của hai phương pháp chỉ khác nhau ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động
kinh doanh.
Sau đây lần lượt đi vào tìm hiểu báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo từng phương pháp.
- Theo phương pháp trực tiếp: Đặc điểm của phương pháp này là các chỉ tiêu được xác lập theo các dòng
tiền vào hoặc ra liên quan trực tiếp đến các nghiệp vụ chủ yếu, thường xuyên phát sinh trong các loại hoạt
động của doanh nghiệp. Tần số phát sinh và độ lớn của loại nghiệp vụ kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến lưu
chuyển tiền trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
+ Đối với hoạt động kinh doanh thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến hoạt động bán hàng, cung
cấp dịch vụ và việc thanh toán các khoản nợ phải trả liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy
các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh thường bao gồm: tiền thu từ bán hàng, cung cấp
dịch vụ và doanh thu khác, tiền đã trả nợ cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ, tiền trả cho người lao
động, tiền đã nộp thuế….
+ Đối với hoạt động đầu tư thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến việc mua sắm, thanh lý, nhượng
bán TSCĐ; xây dựng cơ bản, hoạt động cho vay, mua bán các công cụ nợ của đơn vị khác, hoạt động đầu
tư vào các đơn vị khác. Do vậy, các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư thường bao gồm:
thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu nợ cho vay, thu hồi các khoản vốn đầu tư vào đơn vị khác, chi mua
sắm TSCĐ, xây dựng cơ bản, chi cho vay, chi đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Đối với hoạt động tài chính thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan đến các nghiệp vụ nhận vốn, rút
vốn từ các chủ sỡ hữu và các nghiệp vụ đi vay, trả nợ vay. Do vậy các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ
hoạt động tài chính thường bao gồm: tiền thu do chủ sở hữu góp vốn, tiền chi trả vốn góp cho chủ sở hữu,
tiền vay nhận được, tiền trả nợ vay…
Ngoài ra nếu doanh nghiệp có sử dụng ngoại tệ trong giao dịch thì khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do
đánh giá lại số dư cuối kỳ của tiền và tương tiền bằng ngoại tệ khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng là
một chỉ tiêu nằm trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Có thể mô tả dòng tiền vào, ra từ các
hoạt động khác nhau qua sơ đồ tài khoản tổng quát như sau:
Qua sơ đồ trên có thể thấy rằng dòng tiền vào hoặc ra đồng thời liên quan đến cả 3 hoạt động: hoạt động
kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính. Nên để phân tích dòng tiền vào, ra gắn với từng hoạt
động cần thiết phải phân loại nội dung của từng khoản thu, chi theo từng loại hoạt động. Đây chính là đặc
điểm của phương pháp lập báo cáo theo phương pháp trực tiếp mà chúng ta đang đề cập. Theo chúng tôi,
để thuận lợi và dễ dàng khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp, cần phân loại nội
dung các dòng tiền vào, ra theo các bước:
Bước 1: Phân loại dòng tiền vào, ra gắn với các nhóm tài khoản theo sơ đồ trên.
Bước 2: Từ Bước 1 xác định dòng tiền vào, ra liên quan đến hoạt động tài chính – Đây là hoạt động có tần
suất về nghiệp vụ liên quan đến tiền không nhiều và rất dễ nhận diện.
Bước 3: Nhận diện và xác định dòng tiền vào, ra liên quan đến hoạt động đầu tư – Các nghiệp vụ liên quan
đến tiền của hoạt động đầu tư cũng có tần suất thấp, dễ nhận diện do tính đặc thù của nó.
Bước 4: Sau khi loại trừ dòng tiền vào ra của 2 hoạt động nêu trên, sẽ xác định nhanh chóng dòng tiền vào,
ra của hoạt động kinh doanh.
Một vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp nhỏ có khối lượng nghiệp vụ liên quan đến tiền phát sinh
không nhiều thì dựa vào cách xác định như trên để thực hiện một lần vào cuối tháng; Đối với những doanh
nghiệp lớn có khối lượng nghiệp vụ liên quan đến tiền phát sinh nhiều thì định kỳ 10 ngày nên dựa vào
cách xác định như trên để thực hiện một lần, sau đó đến cuối tháng sẽ cộng dồn để xác định lưu chuyển
tiền cho tháng (quý, năm).
- Theo phương pháp gián tiếp: báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp theo quy định hiện
nay chỉ thực sự gián tiếp ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh, còn 2 phần, lưu chuyển tiền từ
hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính được xác định theo phương pháp trực tiếp –
Việc xác lập như vậy cũng tỏ ra phù hợp bởi mục tiêu của phương pháp này là xác lập mối liên hệ giữa lợi
nhuận với lưu chuyển tiền để giúp người nhận thông tin thấy rằng không phải doanh nghiệp có lãi là có
tiền nhiều, doanh nghiệp bị lỗ thì có tiền ít hoặc không có tiền. Vấn đề là tiền nằm ở đâu, ở đâu ra và dùng
cho mục đích gì, mà đã đặt trong mối liên hệ với lợi nhuận thì hầu hết lợi nhuận lại được tạo ra từ hoạt
động kinh doanh.
Các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh theo phương pháp gián tiếp có thể nhận diện
dễ dàng qua công thức sau:
Lợi nhuận trước thuế = Doanh thu - Chi phí tạo ra doanh thu
= (Tiền + Nợ phải thu) - (Tiền + Hàng tồn kho + Chi phí trả trước phân bổ + Nợ phải trả + Khấu hao + Dự
phòng + Chi phí lãi vay).
= Tiền (lưu chuyển) + Nợ phải thu – Hàng tồn kho – Chi phí trả trước phân bổ - Nợ phải trả – Khấu hao –
Dự phòng – Chi phí lãi vay.
® Lưu chuyển tiền = Lợi nhuận trước thuế + Khấu hao + Dự phòng + Chí phí lãi vay + Hàng tồn kho – Nợ
phải thu + Nợ phải trả + Chi phí trả trước phân bổ.
Qua công thức này thấy rằng, lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh nếu được xác định bắt đầu từ lợi
nhuận trước thuế thì các chỉ tiêu điều chỉnh bao gồm: Khấu hao (điều chỉnh tăng), Dự phòng (điều chỉnh
tăng), Chi phí lãi vay (điều chỉnh tăng), con các chỉ tiêu: Hàng tồn kho, Nợ phải thu, Nợ phải trả và Chi phí
trả trước thì việc điều chỉnh tăng, giảm phụ thuộc vào số dư cuối kỳ và số dư đầu kỳ của các tài khoản nằm
trong các chỉ tiêu này:
+ Đối với hàng tồn kho:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành hàng tồn kho).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận hàng tồn kho
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Nợ phải thu:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được
chuyển thành nợ phải thu).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải thu
được chuyển thành tiền).
+ Đối với Chi phí trả trước:
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộ phận tiền được
chuyển thành chi phí trả trước).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộ phận chi phí trả
trước đã chuyển hóa thành tiền).
+ Đối với Nợ phải trả:
°Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải trả
được chuyển thành tiền).
° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được dùng
để thanh toán nợ phải trả).
Qua lý giải trên có thể thấy rằng, lưu chuyển tiền nghịch biến với sự biến động của hàng tồn kho, nợ phải
thu, chi phí trả trước và đồng biến với sự biến động của nợ phải trả.
Ngoài ra do chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế bao gồm cả lợi nhuận của hoạt động đầu tư và lãi, lỗ chênh lệch
tỷ giá hối đoái chưa thực hiện nên các chỉ tiêu này cũng được dùng để điều chỉnh khi xác định lưu chuyển
tiền từ hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc nếu lãi thì điều chỉnh giảm, ngược lại lỗ thì điều chỉnh tăng.
Đồng thời lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh còn liên quan đến một số nghiệp vụ khác không ảnh
hưởng đến sự biến động của lợi nhuận trong mối quan hệ với lưu chuyền tiền nên cần được xác định thành
các chỉ tiêu thu, chi khác nằm trong lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh.
Từ việc nhận diện các chỉ tiêu và lý giải cơ sở xác định từng chỉ tiêu như nói trên cho thấy rằng việc hiểu
và lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thật ra không quá khó như nhiều người lầm tưởng, thậm chí có thể nói là
khá đơn giản. Hơn nữa do hai phương pháp trực tiếp và gián tiếp chỉ khác nhau ở phần lưu chuyển tiền từ
hoạt động kinh doanh nên nếu doanh nghiệp cùng một lúc lập theo cả hai phương pháp thì việc xác định
lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh càng có điều kiện để đối chiếu, tạo ra được cân đối đúng đắn.
Vấn đề cần được đặt ra hiện nay là tự thân báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng như sự kết hợp báo cáo lưu
chuyển tiền tệ với các báo cáo tài chính khác sẽ cung cấp cho người nhận thông tin các chỉ tiêu phân tích gì
để nó có thể chứng tỏ và phát huy được tính hữu dụng của mình trong thực tiễn quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh. Chúng tôi sẽ nghiên cứu và đề cập vấn đề này trong các số báo tiếp theo.
……………………….
Bàn thêm về Hợp đồng quyền chọn
Cùng với bài viết Hợp đồng quyền chọn và phương pháp hạch toán của Nguyễn
Trung Lập đăng trên tapchiketoan.info về hạch toán theo hợp đồng quyền chọn, chúng tôi muốn làm
rõ thêm một số vấn đề về hợp đồng quyền chọn liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua
hoặc được bán:
+ Một số lượng xác định các hàng hoá, ngoại tệ hay chứng khoán;
+ Tại (hoặc trước) một thời điểm xác định trong tương lai;
+ Với một mức giá xác định tại thời điểm ký hợp đồng.
Tại thời điểm xác định trong tương lai, người mua quyền có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền
mua (hay bán) các hàng hoá, ngoại tệ hay chứng khoán. Nếu người mua thực hiện quyền mua (hay bán),
thì người bán quyền buộc phải bán (hay mua).
Các loại quyền chọn
Quyền chọn cho phép được mua gọi là quyền chọn mua (call option), quyền chọn cho phép được bán gọi
là quyền chọn bán (put option).
Quyền chọn mua trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không phải nghĩa vụ, được mua các
hàng hoá, ngoại tệ hay chứng khoán vào một thời điểm (kiểu Châu Âu) hay trước một thời điểm (kiểu Mỹ)
trong tương lai với một mức giá xác định.
Quyền chọn bán trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không phải nghĩa vụ, được bán các
hàng hoá, ngoại tệ hay chứng khoán vào một thời điểm (kiểu Châu Âu) hay trước một thời điểm (kiểu Mỹ)
trong tương lai với một mức giá xác định.
Đối với quyền chọn mua sẽ có người mua quyền chọn mua và người bán quyền chọn mua. Đối với quyền
chọn bán, cũng sẽ có người mua quyền chọn bán và người bán quyền chọn bán.
Để có được quyền, người mua quyền (chọn mua hay chọn bán) phải trả một khoản tiền (gọi là giá của
quyền chọn) cho người bán quyền. Mức giá này được thanh toán ngay khi ký kết hợp đồng quyền chọn.
Giá trị nhận được của quyền chọn mua vào lúc đáo hạn
Gọi PT là giá trị thị trường của các hàng hoá, ngoại tệ, chứng khoán vào lúc đáo hạn, PHĐ là giá xác định
tại thời điểm thoả thuận hợp đồng và P là giá trị nhận được của quyền chọn vào lúc đáo hạn.
Mua quyền chọn mua:
Vào lúc đáo hạn, nếu thực hiện quyền, người mua sẽ mua với giá PHĐ. Nếu mua trên thị trường, người
mua sẽ trả với giá PT.
Trường hợp PT > PHĐ. Nếu thực hiện quyền người mua sẽ mua với giá PHĐ, trong khi nếu ra thị trường
thì phải mua với giá PT. Như vậy, nếu PT > PHĐ, người mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền và nhận
được giá trị P = PT - PHĐ.
Trường hợp PT <= PHĐ. Nếu thực hiện quyền, người mua sẽ mua với giá PHĐ, trong khi hoàn toàn có thể
ra thị trường để mua với giá PT < PHĐ. Như vậy, nếu PT <= PHĐ, người mua quyền chọn mua sẽ không
thực hiện quyền và nhận được giá trị P = 0.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người mua quyền chọn mua vào lúc đáo hạn là:
P = max[(PT – PHĐ);0]
Ví dụ minh hoạ: Ngày 10/5/N, công ty T ký hợp đồng quyền chọn mua xi măng với công ty C, giá thực
hiện PHĐ = 55.000đ. Nếu vào ngày đáo hạn 10/8/N, giá xi măng là PT = 60.000đ, thì người mua quyền
thực hiện quyền và mua 1 bao xi măng với giá 55.000đ. Nếu không có quyền chọn mua sẽ phải mua trên
thị trường với giá 60.000đ. Khoản lợi thu được P = PT – PHĐ = 5.000đ/bao. Ngược lại, giả sử vào ngày
đáo hạn giá xi măng là PT = 50.000đ. Nếu thực hiện quyền, người nắm giữ quyền sẽ mua với giá 55.000đ/
bao, trong khi nếu mua trên thị trường thì chỉ phải trả giá 50.000đ/bao. Như vậy, người giữ quyền sẽ không
thực hiện quyền và nhận được bằng 0.
Bán quyền chọn mua:
Vào lúc đáo hạn, nếu PT > PHĐ thì người mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền. Trong trường hợp đó,
người bán quyền chọn mua sẽ phải bán cho người mua quyền ở mức giá PHĐ, trong khi lẽ ra có thể bán ra
thị trường với giá PT. Người bán quyền chọn mua bị lỗ PT – PHĐ, hay nhận được giá trị P = PHĐ – PT.
Nếu PT <= PHĐ, người mua quyền chọn mua sẽ không thực hiện quyền và như vậy giá trị mà người bán
quyền chọn mua nhận được là 0.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người bán quyền chọn mua vào lúc đáo hạn là: P = min[(PHĐ - PT);0]
Ví dụ minh hoạ: Trong quyền chọn mua xi măng, nếu vào ngày đáo hạn 10/8/N, giá xi măng là PT =
60.000đ, thì người mua quyền sẽ thực hiện quyền và được lợi 5.000đ/bao. Ngược lại, người bán quyền sẽ