VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TÀI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TÀI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8.34.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS. Hồ Việt Hạnh
HÀ NỘI - 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam liên tục phải đối
mặt với chiến tranh. Chiến tranh khi qua đi để lại hậu đau thương quả nặng nề nhân
dân ta đành gánh lấy mà phải gánh chịu và khắc phục hậu quả đó. Trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở thế kỉ XX, với tổn thương này cả của nhân dân
ta về tinh thần để lại di chứng đối với con người của cải vật chất, cả về thời cơ hội
để phát huy cho đất nước là lớn lao. Kháng chiến không chỉ ảnh hưởng đến người
tới cả của thời chiến đó mà họ đã trực tiếp tham gia và đóng góp công sức vào trong
cuộc kháng chiến.
Những di chứng của nó vẫn gieo rắc lên hình hài thế hệ tương lai để rồi
khó khăn lại càng chồng chất khó khăn. Từ việc đó trong khi tạo ra những thử
thách cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân chúng ta.
Những người đã vì nước vì dân, quên thân phục vụ cống hiến sức lực,
tuổi trẻ và dành trọn niềm tin cho cuộc sống tự do. Trong công cuộc kháng
chiến đông đảo con người đã sông pha chiến đấu vào để đấu tranh và gánh chịu
những nỗi đau cả về thân thể lẫn tâm hồn và trí não do chiến tranh gây ra. Khi
đó ta nên biết phải làm gì để bù đắp và thể hiện lòng biết ơn đối với những đối
với người có công ưu đãi- những người mà đối với người có công ưu đãi và
điều kiện sống của họ chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn, chắc chở.
Chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi và nâng cao đời sống
chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi là một trong những chính sách
được Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng. Những chính sách cho Đối với người
có công ưu đãicách mạng như: chính sách bảo hiểm y tế, chính sách ưu đãi đối
với người có công, chính sách ưu đãi về kinh tế, chính sách trợ cấp... đã được
1
bđó cân trọng tâmhành và thực hiện. Như chúng ta đã biết, đối với người có
công ưu đãi và chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi có vai trò vô
cùng cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng đối với mỗi người. Đối
với những người có công, nhất là những thương, bệnh binh vấn đề này càng
cấp thiết và cần cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtâm nhiều hơn hết.
Tuy nhiên chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi cũng như các khó
khăn còn tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có
công.
Địa bàn huyện thanh trì nằm ở vị trí cửa ngõ phía Nam của Thủ đô, Thanh
Trì là một địa phương giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Trong
quá trình hình thành và phát triển, Thanh Trì nhiều lần thay đổi về tên gọi và
địa giới, nhưng truyền thống lịch sử, văn hóa, giáo dục của người dân Thanh
Trì vẫn ngày càng được bồi đắp thêm, sáng mãi cùng Thủ đô ngàn năm văn
hiến.
Huyện Thanh Trì hiện có 16 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: thị trấn
Văn Điển và 15 xã: Duyên Hà, Đại Áng, Đông Mỹ, Hữu Hòa, Liên Ninh, Ngọc
Hồi, Ngũ Hiệp, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Tân Triều, Tứ Hiệp, Thanh Liệt, Vạn
Phúc, Vĩnh Quỳnh, Yên Mỹ.
Xuất phát từ mong muốn làm được một việc có ích, là một cán bộ với
nguyện vọng thông qua thực tiễn được tiếp xúc hằng ngày đối với người có
công ưu đãi và từ thực tế bắt nguồn từ nhu cầu chính sách ncc và những khó
khăn, tồn tại trong quá trình thực hiện công tác chính sách ncc trên địa bàn
huyện Thanh Trì, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách ưu đãi đối với
người có công trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” làm luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khi mà có nhiều đề tài, trong quá trình nghiên cứu chính sách cũng như
sách, báo, tạp chí viết về vấn đề chính sách ncc. Trong các cuốn sách trước tiên
2
phải kể tới Cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm niệm về công tác thương
binh và tử sỹ đã ra năm 1952 khi cuốn sách đề cập đến vấn đề ưu đãi thương
bệnh binh và tử sỹ tại một số nước đế quốc trong vấn đề thương binh và tử sỹ
tại các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa con người chúng ta[18]. Nội
dung cuốn sách là cơ sở tiền đề cho tác giả nghiên cứu về ưu đãi chính sách bảo
vệ ưu đãi với người có công ưu đãi đối với người có công ưu đãi chính.
Năm 1993, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội đã xuất bản cuốn Một số
vấn đề chính sách xã hội ở nước ta hiện nay của tác giả Hoàng Chí Bảo[26].
Chính sách xã hội không ngừng thay đổi để phù hợp với đối tượng áp dụng.
Đất nước ngày càng phát triển thì việc yêu cầu các chính sách phải xuất phát từ
thực tiễn, gắn liền với lợi ích của đối tượng. Chính sách đối với người có công
ưu đãiđược thay đổi qua các thời kỳ, sự thay đổi đó có những mặt tích cực và
tiêu cực trong Trong quá trình việc, thực hiện chính sách.
Pháp lệnh ưu đãi với đối với người có công ưu đãi chính là căn cứ để
thực hiện những chính sách, những trợ cấp, chi trả hàng tháng, một lần, các
mức ưu đãi mà đối với người có công ưu đãi xứng đáng được hưởng.
Khi đi vào Luận án đã hệ thống công việc tổng hợp những căn luận điểm
khoa học về lý luận và chính sách ưu đãi đối với người có công trong bấy giờ.
Tác giả dã nghiên cứu chính sách đối với người có công, phát hiện những tồn
tại và nguyên nhân của sự việc. Tiến trình việc ngiên cứu cuộc sống cần trọng
tâm hơn cân trọng tâmđiểm với nguyên tắc và phương hướng lẫn biện pháp chủ
yếu để chính sách đối với người có công được đổi mới[25].
Hoàn thiện pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu
đãi trên địa bàn ở Nhà nước ta. Luận án nêu lên những vấn đề cơ bản như:
Khái nhiệm Pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên
địa bàn. Đến tới nghiên cứu Lịch sử hình thành và nâng tầm phát triển của pháp
luật thì. Pháp luật này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và việc hoàn thiện
3
pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn trên
địa bàn huyện[28]. Thế kỷ đã trôi qua đi kể từ ngày đất nước chúng ta giành
được độc lập tự do sau hai cuộc chiến tranh kháng chiến chống thực dân Pháp
và chống đế quốc Mỹ. Nỗi đau và vết thương của chiến tranh đã và đang được
khôi phục lại dần dần đất nước bước vào thời kỳ mới thời kỳ xây dựng và phát
triển. Có được những thành quả đó, dân tộc ta không thể quên ơn những người
con đã cống hiến cả cuộc đời, hy sinh xương máu của mình vì độc lập, tự do
của đất nước. Đối với những người trong số đó là những người bị thương bệnh
binh. Trong chính những người thương bệnh binh và liệt sỹ và đối với người
có công đóng góp với Cách mạng thì đó là một chính sách to lớn đối với Đảng
và Nhà nước. Trong những năm qua thì Đảng và Nhà nước ta đã bđó cân trọng
tâmhành nhiều chính sách và chế độ với đối với người có công ưu đãi và thường
xuyên bổ sung sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Tới nay thì
điều đó đã hình thành một hệ thống chính sách kinh tế xã hội và liên cuộc sống
cần trọng tâm hơn cân trọng tâm đến đời sống hàng ngày của NCC. Khi đó đã
và đang có nhiều Pháp lệnh và Thông tư cả Nghị định kế hoạch chương trình
đề án đó có Chính phủ và các Sở Bđó cân trọng tâmngành liên cuộc sống cần
trọng tâm hơn cân trọng tâmvề thống kê lẫn khảo sát về chất lượng cuộc sống
của các đối tượng đối với người có công ưu đãi cũng như nhu cầu và đánh giá
mức độ hài lòng của họ với thụ hưởng chính sách ưu đãi theo đó là những
nghiên cứu báo cáo đề xuất chính sách được thực hiện một cách cụ thể chi tiết
nhằm nâng cao hơn hiệu quả của các chính sách ưu đãi xã hội với chính sách
ưu đãi thương bệnh binh nói riêng và đối tượng đối với người có công ưu
đãi. Việc trợ cấp với đối với người có công ưu đãi được thực hiện từ năm 1995
theo quy định của Pháp lệnh trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu
đãi trên địa bàn với cách mạng và một số văn bản pháp quy đơn hành khác của
Chính phủ. Có thể phân ra các loại trợ cấp một lần và trợ cấp thường xuyên
4
hàng tháng và một số chế độ trợ cấp nào đó nữa. Những chế độ trợ cấp được
qui định khá cụ thể, chi tiết, theo từng mức khác nhau cho từng diện đối tượng.
Một trong những cuốn sách đầu tiên phải kể đến là Cuộc sống cần trọng tâm
hơn cân trọng tâmniệm về công tác thương binh và tử sỹ, do Bộ Thương binh
Cựu binh xuất bản năm 1952, cuốn sách đề cập đến vấn đề thương binh và tử
sỹ tại các nước đế quốc, vấn đề thương binh và tử sỹ tại các nước dân chủ
nhân dân và xã hội chủ nghĩa; khi đề ra việc nhiệm vụ, phương châm và nội
dung công tác đối với thương binh và tử sỹ đối với Việt Nam , đưa ra giải pháp
và kiến nghị nhằm hoàn thiện ưu đãi đối với người có công cuả nhân dân ta.
Tác giả hệ thống một cách khái lược những cuộc sống cần trọng tâm hơn cân
trọng tâmđiểm, mà chính sách của Đảng và nhà nước đối với công tác thương
binh, liệt sĩ từ năm 1986 đến năm 2012; đánh giá những mặt tích cực của thực
tiễn quá trình thực hiện mà chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề này và
đề ra giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn trong thời giđó cân trọng tâmtới. Chính
sách Đối với người có công ưu đãi - là trách nhiệm của toàn dân, Tạp chí Tuyên
giáo số 7, 2012. Qua bài viết này, tác giả đã khái quát một số thành tựu của
chính sách trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn
trong những năm qua, đi sâu vào đánh giá tìm hiểu nguồn lực thực hiện chính
sách ở nước ta. Trong luận án đổi mới chính sách kinh tế này đã hệ thống và
tổng hợp những căn cứ khoa học về lý luận chính sách đối với người có công
ưu đãi ở Việt Nam. Thực trạng chính sách đối với người có công, phát
hiện những tồn tại và nguyên nhân của nó. Cuộc sống cần trọng tâm hơn cân
trọng tâmđiểm, nguyên tắc, phương hướng, biện pháp chủ yếu để đổi mới chính
sách đối với người có công. Nguyễn Đình Liêu, Hoàn thiện pháp luật trong quá
trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn ở Việt Nam. Lý luận và
thực tiễn, Luận án Phó tiến sỹ Luật học, 1996. Luận án nêu nên những vấn đề
cơ bản như: Khái niệm Pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công
5
ưu đãi trên địa bàn. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật này. Thực
trạng của pháp luật này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và việc hoàn thiện
pháp luật trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn. Tạ
Vân Thiều, Cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực đối với người có công ưu đãi
ở ngành Lao động Thương binh và xã hội, Luận án cao học Luật, Viện
Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 1997 Nguyễn Đình Liêu, Cơ sở khoa học
để hoạch định chính sách giáo dục đào tạo con thương binh, liệt sỹ, Luận án
Tiến sỹ Nguyễn Thị Thu Hoài, Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam đối với Thương binh, liệt sỹ và đối với người có công ưu đãi
với cách mạng. Luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng thể những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đối tượng đối với người có công ưu đãi
từ năm 1991 đến năm 1995 và những đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
của Nhà nước cũng những chủ trương chính sách ưu đãi cho phù hợp với tình
hình mới trong giai đoạn 1996 đến 2010. Các trong quá trình nghiên cứu chính
sách cũng như các sách, tạp chí trên đã góp phần cơ bản về lý luận cho việc
trong đó thục hiện công tác chính sách ưu đãi cho người có công. Quá trình xây
dựng công việc rất cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng cho trong
quá trình triển khai, bổ sung và hoàn chỉnh pháp luật trong quá trình ưu đãi đối
với người có công ưu đãi trên địa bàn với cách mạng nói chung và với đối tượng
thương binh, bệnh binh nói riêng. Do đó, luận văn tốt nghiệp với đề tài “Ưu đãi
xã hội đối với thương binh, bệnh binh tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội”
hoàn toàn không phải là một chủ đề mới trong hoạt động thực tiễn cũng như
trong khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, điểm nhấn của luận văn chính là tìm
hiểu, đánh giá công tác ưu đãi thương binh, bệnh binh thông qua việc thực hiện
chính sách ưu đãi xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì hiện nay; từ đó đề xuất
các biện pháp nhằm thực thi chính sách một cách hiệu quả, phù hợp với điều kiện,
tình hình thực tế của huyện Thanh Trì. Điều này có ý nghĩa đặc biệt cuộc sống cần
6
trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả của chính
sách ưu đãi xã hội với đối tượng thương binh, bệnh binh trên địa bàn huyện, hướng
họ đến một cuộc sống tính chất đó cân trọng tâmtâm, tốt đẹp hơn về đưa ra một
số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi với người có công [27].
Trong bài viết Tiếp tục thực hiện tốt mà đó là như chính sách ưu đãi xã
hội đối với thương binh và gia đình liệt sỹ đối với người có công ưu đãi với
cách mạng, Trong tạp chí Cộng sản số 7/2005. Nêu những nét khái quát thành
tựu đạt được trong việc thực hiện ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia đình
liệt sỹ và đối với người có công ưu đãitrong 10 năm từ 1995 đến 2005, qua đó
đúc kết những kinh nghiệm và đề ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn
chính sách ncc[27].
Năm 2011, Hoàng Thúy Hằng có luận văn ngành “Thực trạng công tác
xã hội hóa chính sách ưu đãi đối với người có công tại phường Đề Thám thị xã
Cao Bằng” [8]. Tác giả đã nghiên cứu về chính sách ưu đãi đối với người có
công ưu đãiở phường, chỉ ra được thực trạng và những hạn chế về công tác xã
hội hóa người có công. Nghiên cứu có 56,7% với ý kiến cho rằng 5 chương
trình chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi tại địa phương được thực
hiện tốt, 26,7% đối với người có công ưu đãicho rằng các chương trình chưa
được thực hiên tốt. Khi đề ra việc những giải pháp để nâng cao hiệu quả công
tác xã hội hóa chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi tốt hơn tại địa
bàn.
Năm 2011, Hồ Thị Vân Kiều đã nghiên cứu về “Chính sách ưu đãi đối
với người có công: Thực trạng và giải pháp (điển cứu tại trung tâm Thanh trì,
thành phố Hà Nội)”[41]. Nghiên cứu tại huyện Thanh trì hiện nay nguồn nhân
lực chăm đối với người có công ưu đãithì có 36,9% ý kiến cho rằng bác sĩ, y
tá, thiếu trách nhiệm, 13,8% là có cán bộ tôn trọng bệnh nhân. Tác giả cũng chỉ
ra hầu hết đối với người có công ưu đãi cách mạng ở huyện Thanh trì, thành
7
phố Hà Nội và đang được chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãitheo
chính sách của Đảng và Nhà nước. Bài viết đã nghiên cứu được đa số đối với
người có công ưu đãi cách mạng ở huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội có nhu
cầu cao về chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi nhưng chất lượng
và hiệu quả của công tác con có cần nhìn nhận do rất nhiều khó khăn mang lại,
nhất là thiếu thốn về tài chính, về đội ngũ y, bác sĩ, cơ sở vật chất nghèo nàn,
lạc hậu. Từ đó tác giả cũng đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả chính sách ưu đãi đối với người có công
Năm 2011, Vũ Thị Thanh Nga đã có nghiên cứu về “Vai trò của công
tác xã hội trong việc nâng cao hiệu quả của công tác chính sách ưu đãi đối với
người có công ưu đãi người cao tuổi ở huyện Lạng Giang, Bắc Giang” [26].
Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng công tác chính sách ưu đãi đối với
người có công ưu đãi người cao tuổi. Trong khi đó vai trò ưu đãi chính sách ưu
đãi đối với người cao tuổi tại địa phương, 48,7% thuộc về gia đình, 43,2% mà
thực tế chính sách đó của Đảng và Nhà nước đối với người cao tuổi, 41,2% là
vai trò của Hội người cao tuổi và 34,1% là vai trò cộng đồng địa phương . Khi
nghiên cứu nói cũng nhìn nhận ra được nguyên nhân từ việc chính sách ưu đãi
đối với đối với người có công ưu đãi của địa phương và nêu được vai trò nhân
viên công tác xã hội trong nâng cao chất lượng cuộc sống người cao tuổi tại
huyện.
Tác giả hệ thống một cách khái lược những cuộc sống cần trọng tâm hơn
cân trọng tâmđiểm, mà chính sách của Đảng và nhà nước đối với công tác
thương binh, liệt sỹ từ năm 1986 đến năm 2012; đánh giá những mặt tích cực
của thực tiễn quá trình thực hiện mà chính sách của Đảng và nhà nước về vấn
đề này và đề ra giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác thương binh, liệt sỹ
trong thời giđó cân trọng tâmsớm [39].
Qua bài viết này, tác giả đã khái quát một số thành tựu của chính sách
8
trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn trong những
năm qua, đi sâu vào đánh giá tìm hiểu nguồn lực thực hiện chính sách ở nước
ta. Nguồn lực của Nhà nước thông qua chế độ trợ cấp ưu đãi thường xuyên
ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong việc ổn định đời sống với cách mạng, bởi
đa phần họ là những người không hưởng chế độ lương hay bảo hiểm xã hội[25].
Luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng thể những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta đối với đối tượng đối với người có công ưu đãitừ năm
1991 đến năm 1995 và những đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo Nhà
nước cùng những chủ trương chính sách ưu đãi cho phù hợp với tình hình mới
trong giai đoạn 1996 đến 2010 và 2013 đến 2023[28].
Trong quá trình nghiên cứu chính sách cũng như các sách, tạp chí trên
đã góp phần cơ bản về lý luận cho việc trong đó thục hiện công tác chính sách
trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn. Việc quá trình
xây dựng công việc rất cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng cho
trong quá trình triển khai, bổ sung và hoàn chỉnh pháp luật trong quá trình ưu
đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn nói chung và đối với thương binh,
bệnh binh.
Luận văn nghiên cứu với trọng tâm về vấn đề “Thực hiện chính sách ưu
đãi đối với người có công trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội”
nhằm hoàn thiện và không phải là một chủ đề mới trong quá trình hoạt động
thực tiễn cũng như trong nghiên cứu vấn đề của nhan đề.
9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng và các yếu tố tác động tới ưu đãi chính sách
bảo vệ ưu đãi với đối với người có công ưu đãi trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao chính sách ưu đãi đối với người có công.
3.2.
Nhiệm vụ nghên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận chính sách ưu đãi đối với người có công
- Phân tích thực trạng ưu đãi chính sách bảo vệ ưu đãi với đối với người
có công ưu đãi (các hoạt động ưu đãi, các yếu tố tác động tới thực trạng hoạt
động ưu đãi, các yếu tố tác động như: cộng đồng, xã hội, gia đình….).
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao việc chính sách ưu đãi đối với
người có công ưu đãi đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Khi thục hiện tổ chức thực hiện thực, hiện chính sách ncc; quy trình thực
hiện chính sách ưu đãi cho vệc thực hiện mục tiêu thuộc diện thụ hưởng chính
sách theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa
bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện chính sách ưu đãi ncc trên địa bàn huyện
Thanh Trì, Thành phố Hà Nội và trong khoảng thời giđó cân trọng tâmtừ năm
2013 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Vận dụng thục hiện tổ chức tiếp cận thực hiện nghiên cứu chính sách qua
tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và phương pháp nghiên cứu chính
sách công. Thực hiện tổ chức tiếp cận thực hiện quy phạm chính sách công về
10
chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính
sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Thực hiện chính sách ưu
đãi công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận
về chính sách chuyên ngành đối với người có công.
5.2.
Phương pháp nghiên cứu
- Chính sách của Nhà nước cũng như địa phương về Người có công, các
bản báo cáo tổng kết về công tác thực hiện chính sách về Đối với người có công
ưu đãi của phòng Đối với người có công ưu đãi sở Lao động Thương binh và
Xã hội thành phố Hà Nội, các bài viết.
- Đối với người có công ưu đãi, Sở Lao động Thương binh và Xã hội
thành phố Hà Nội, thư viện Học viện Khoa học xã hội, thư viện trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, các thông tin, tài liệu internet….
* Phương pháp trưng cầu ý kiến:
Nghiên cứu tiến hành thiết kế bảng hỏi nhằm thu thập thông tin về thực
hiện chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn huyện Thanh
Trì, thành phố Hà Nội.
Bảng 1.1: Mô tả khách thể điều tra
Đối tượng
Số lượng (người)
Thương binh, bệnh binh
80
Cán bộ Lao động TB và XH
05
Lãnh đạo phòng Lao động TB và XH
03
Gia đình, người thân thương, bệnh binh
06
* Phương pháp cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmsát:
- Cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmsát là phương pháp thu thập
thông tin xã hội sơ cấp về đối tượng nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp và ghi
chép lại những nhân tố có liên cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđến đối
11
tượng nghiên cứu và có ý nghĩa đối với mục đích nghiên cứu.
* Phương pháp thống kê:
- Học viên sử dụng phương pháp thống kê để xử lý các thông tin, các số
liệu đã thu thập được qua phiếu điều tra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Để đóng góp bổ sung hoàn thiện những vấn đề lý luận
về chính sách chuyên ngành mà thực tế chính sách đó đối với người có công ưu đãi
ở nước ta hiện nay và trên địa bàn huyện Thanh Trì.
6.2.
Ý nghĩa thực tiễn: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn chính
sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa bàn huyện Thanh Trì, từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ưu đãi chính sách bảo vệ ưu đãi với đối với
người có công ưu đãi để công tác chính sách ưu đãi đối với người có công chính
sách ưu đãi thực sự là một hoạt động giàu tính nhân văn, hoạt động truyền thống
của người dân.
7. Kết cấu của luận văn
Trong mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm có ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi
trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Chương 2. Thực trạng chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi
trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chính sách ưu đãi đối
với người có công.
12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Một vài cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmđiểm chính
sách ưu đãi đối với người có công
Dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do
của Tổ quốc và trong những cuộc đấu tranh đó đã có biết bao nhiêu người hy
sinh xương máu, của cải và cả tính mạng của mình cho nền độc lập tự do ấy,
họ luôn được nhân dân, Tổ quốc đời đời ghi nhớ và biết ơn. Từ năm 1986 đến
nay, trong vấn đề ưu đãi đối với người có công, hệ thống pháp luật nước ta đã
có những thay đổi cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm trọng để phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội của thời kỳ đổi mới. Nhà nước đã đề ra nhiều
văn bản luật ưu đãi xã hội đối với người có công, trong đó nổi bật nhất là việc
bđó cân trọng tâmhành Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ
và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người
có công giúp đỡ cách mạng năm 1994 (Pháp lệnh ưu đãi năm 1994) và Pháp
lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm
1994. Đây là hai văn bản pháp luật nhằm thể chế hóa Hiến pháp năm 1992,
đánh dấu sự tiến bộ trong hệ thống chính sách ưu đãi xã hội đối với người có
công, cùng với các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành hai pháp lệnh này
tạo thành hệ thống pháp luật về ưu đãi người có công. Năm 1998 và năm 2000,
Pháp lệnh ưu đãi năm 1994 lại được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện mới và
quá trình cải cách hành chính. Cơ cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng
tâmhành chính với tư cách là cơ cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng
13
tâmhành pháp đã bđó cân trọng tâm hành nhiều văn bản hướng dẫn, quy định
chi tiết và tổ chức thực hiện đưa pháp luật vào đời sống xã hội.
1.2. Các hoạt động cơ bản trong chính sách ưu đãi đối với người có công
Nên, chúng ta có thể hiểu sức khoẻ gồm 3 mặt: Sức khoẻ thể chất, sức
khoẻ tinh thần và sức khoẻ xã hội.
Như sức lực: Hoạt động của cơ bắp mạnh, có sức đẩy, sức kéo, sức nâng
cao…do đó làm công việc chân tay một cách thoải mái như mang vác, điều
khiển máy móc, sử dụng công cụ…
Trong sự dẻo dai: Việc hoạt động chân tay tương đối lâu và liên tục mà
không cảm thấy mệt mỏi.
* Trong sức khoẻ tinh thần: Tinh thần là hiện thân của sự thoả mãn về
mặt giao tiếp xã hội, tình cảm và tinh thần. là việc sức khoẻ tinh thần chính là
sự biểu hiện nếp sống lành mạnh, văn minh và có đạo đức.
Việc hoà nhập của cá nhân với cộng đồng trong xã hội được gọi là sức
khoẻ xã hội như câu nói Mác nói Con người là sự tổng hoà của các mối cuộc
sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ xã hội. Sức khoẻ xã hội thể hiện ở sự
thoải mái trong các mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ chằng
chịt, phức tạp giữa thành viên: còn gia đình, nhà trường, bạn bè, xóm làng, nơi
công cộng, cơ cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmvà thể hiện ở sự được
chấp nhận và tán thành của xã hội này. Khi càng hoà nhập với mọi người, được
mọi người đồng cảm, yêu mến càng có sức khoẻ xã hội tốt và ngược lại.
Mà cơ sở của sức khoẻ xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền
lợi cá nhân với hoạt động và quyền lợi của xã hội, của những người khác; là sự
hoà nhập giữa cá nhân, gia đình và xã hội[20].
Yếu tố sức khoẻ liên cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm chặt
chẽ với nhau. Là cơ sở cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâmtrọng tạo nền
tảng cho cuộc sống con người có ấm cúng. Nên ta biết một người hoàn toàn
14
khỏe mạnh phải là một người có đầy đủ đối với người có công ưu đãi về thể
chất, tinh thần và có các mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ xã
hội tốt đẹp. Nên cụ thể: Trong một người được xem là có đối với người có
công ưu đãi thể chất không những không có thương tật, bệnh tật mà các hoạt
động về thể lực cũng như tất cả các hoạt động sống đều ở trạng thái tốt nhất và
phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh, lứa tuổi...;
Được một cơ thể khỏe mạnh là mơ ước, mục tiêu, mục đích mà mọi
người hướng đến và cố gắng thực hiện mọi biện pháp để đạt đến cái
ngưỡng đó. Mối cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ hữu cơ với
nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhau, nếu thiếu một trong các
thành tố trên sẽ không làm nên đối với người có công ưu đãi con người. Từ
nhận định nghĩa trên đã chỉ cho chúng ta thấy rõ trạng thái đối với người có
công ưu đãi cần đạt được để từ đó mỗi cá nhân hướng đến và vạch ra mục tiêu,
phương pháp để đạt được. Định nghĩa trên cũng gặp phải hạn chế là chưa đưa
ra được mục tiêu, phương pháp, kế hoạch thực hiện cho các lực lượng tham gia
vào quá trình chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi.
Chính sách ưu đãi và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ đối với người có công
ưu đãi rước hết phải do chính bản thân mỗi cá nhân thực hiện. Tục ngữ cũng
đã dạy như “Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức
khoẻ là của chính mình”.
Việc đầu tư chính sách ưu đãi đối với sức khoẻ là phải đầu tư chính sách
ưu đãi đối với ngay khi còn đang khoẻ mạnh, khi chưa thành bệnh mới là đầu
tư chính sách ưu đãi đối với có ý nghĩa và hiệu quả kinh tế cao nhất.
Nhiều khái niệm khác nhau về chính sách ưu đãi đối với người có công.
Tuy nhiên chính sách ưu đãi đối với đối với người có công ưu đãi là những hoạt
động nhằm nâng cao đối với người có công ưu đãi của con người.
Trong cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ xã hội: Là một
15
lĩnh vực ảnh hưởng rất lớn đến đối với người có công ưu đãi của mỗi cá thể,
mỗi người cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội thể dục thể thao, văn
hóa, tham gia các tổ chức, đoàn thể xã hội, tạo lập và duy trì các mối cuộc sống
cần trọng tâm hơn cân trọng tâm hệ với bạn bè, đồng nghiệp.
Chính sách trong quá trình ưu đãi đối với người có công ưu đãi trên địa
bàn của mỗi người không phải chỉ dựa vào sự cố gắngcông tác chăm lo đời
sống là đạt được mà còn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan.
Giao lưu các câu lạc bộ qua các hội thi, cuộc thi giữa các phường tạo
động lực giúp NCC thêm hăng say tham gia vào các hoạt động, tuyên truyền
những người chưa tham gia để các câu lạc bộ thực sự là nơi chia sẻ, đem tiếng
cười, sự gắn kết giữa các thành viên vượt qua mọi trách nhiệm chính sách giúp
công việc ưu đãi cho địa bàn người dân.
- Lý thuyết áp dụng
+ Thuyết nhu cầu
Abraham Maslow sinh ngày 1-4-1908, mất năm 8-5-1970. Ông là một
nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Maslow sinh ra ở Brookly – New York, là
con cả trong một gia đình người Do Thái có 7 anh em, nhập cư từ Nga. Bố mẹ
ông không được ăn học đến nơi đến chốn nhưng họ quyết tâm đầu tư cho
Maslow được học hành và khuyến khích ông nên học ngành Luật. Đầu tiên ông
thực hiện lời hứa của bố mẹ mình bằng cách ghi tên vào trường City College
of New York. Tuy nhiên, sau 3 học kỳ ông chuyển sang học tại Cornell, sau đó
ông quay trở lại CCNY. Sau đó ông cưới một người bà con là Bertha Maslow,
ông chuyển đến Wisconsin và theo học tại University of Wisconsin. Tại đây
ông đã nhận được B.A (1930), M.A (2011), PHD (1934) về tâm lý học. Trong
khi học tại Wisconsin ông đã học với Harry Maslow, người được biết đến với
những thí nghiệm gây tranh cãi về hành vi và tập tính xã hội của khỉ. Một năm
sau khi tốt nghiệp, Maslow trở lại NewYork và làm việc với E. L. Thorndike
16
tại Đại học Columbia. Maslow bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại Brooklyn
College. Trong suốt thời giđó cân trọng tâmnày ông đã gặp gỡ nhiều nhà tâm
lý học hàng đầu Châu Âu như Alfred Adler và Erich Fromm. Năm 1951,
Maslow trở thành Ttrưởng khoa Tâm lý học tại Brandeis University, nơi mà
ông bắt đầu với công tác nghiên cứu học thuyết của mình. Ông đã gặp Kurt
Goldstein, người đã giới thiệu ông ta về ý tưởng của sự tự nhận thức về nhu
cầu.
Ông về hưu tại California. Chết vì đau tim năm 1979, thọ 62, sau nhiều
năm sức khoẻ kém.
Nội dung cơ bản của thuyết nhu cầu
Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu
cầu của con người vào những năm 1950. Trong điều đó con người có cơ bản
nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu
những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Điều đó khi đối
với trẻ thì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ
các nhu cầu cơ bản này. Ông cuộc sống cần trọng tâm hơn cân trọng tâm nniệm
rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy
trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.
Nhu cầu về tính chất cân trọng tâmtâm hoặc cân trọng tâmninh:
Đó cân trọng tâm ninh và tính chất đó cân trọng tâm tâm có nghĩa là một
môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của
con người.
Trong nhu càu trật tụ thì: Tính chất đó cân trọng tâm sinh mạng Trong
điều đó con người có cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như tính chất
đó cân trọng tâm tâm lao động, tính chất cân trọng tâmtâm môi trường, tính chất
cân trọng tâmtâm nghề nghiệp, tính chất đó cân trọng tâm tâm kinh tế, tính chất
17
cân trọng tâmtâm ở và đi lại, tính chất cân trọng tâm tâm lý, tính chất cân trọng
tâm nhân sự,…
Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh
tồn con người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự tính chất cân trọng
tâmtâm. Nhu cầu tính chất cân trọng tâm nếu không được đảm bảo thì công
việc của mọi người sẽ không tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác
sẽ không thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những người phạm
pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét vì đã xâm phạm vào nhu
cầu tính chất cân trọng tâm của người khác.
Ví dụ1, mà tham hay tư vấn làm việc với trẻ em lang thang thì phải xác
định được rằng đa số trẻ em lang thang đã bị “tắc” ở bậc nhu cầu này bởi những
rủi ro mà các em đang phải đối diện ở cuộc sống ngoài đường phố (cướp giật,
lạm dụng,…). Trong các em phải luôn cảnh giác với các rủi ro này nên không
thể tập trung vào việc thỏa mãn các nhu cầu trong phát nhiều.
– Do con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và
được người khác thừa nhận.
Hãy thử tưởng tượng một ngày kia anh/chị thức dậy và phát hiện ra rằng
anh/chị là người cuối cùng trên quả đất này. Trong nhà, cộng đồng và cả thế
giới này không còn ai ngoài anh/chị. Điều gì sẽ xảy ra? Anh/chị sẽ cảm thấy
như thế nào? Hầu hết mọi người nói rằng nếu không còn ai khác – bạn bè, gia
đình, tình hữu nghị – cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa và giá trị nữa. Anh/chị
không thể phát triển được nếu thiếu mối cân trọng tâm hệ giao tiếp với người
khác (giao tiếp được coi như Trong điều đó con người cóbẩm sinh của con
người). Qua đó chúng ta thấy được sức mạnh to lớn của nhu cầu được cân và
được thừa nhận trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Nó cũng cho thấy con
người cần được yêu thương và thừa nhận hơn là cần thức ăn, quần áo và chỗ ở
cho sự tồn tại của mình.
18
– Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại:
Lòng tự trọng và được người khác tôn trọng.
+ Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin, có
năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự
biểu hiện và tự hoàn thiện.
+ Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín,
được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự… Tôn trọng là được
người khác coi trọng, ngưỡng mộ.
Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công
việc được giao…
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây Trong điều đó con người
có cao nhất trong cách phân cấp về nhu cầu của ông.
Trong đề tài này, tác giả đã vận dụng thuyết vai trò trong ưu đãi chính
sách với thương, bệnh binh để phân tích những vai trò để đó cân trọng tâm
thiệp, hỗ trợ gia đình vượt qua những khó khăn, khủng hoảng trong cuộc sống,
đó cân trọng tâmthiệp để giúp mỗi người giải quyết vấn đề tốt hơn. Thuyết vai
trò, người nghiên cứu cũng có thẻ biết được ai là người có uy tín trong gia đình
cũng như trong cộng đồng, tác động vào những thành viên uy tín để xây dựng
hoạt động cho thương, bệnh binh.
19
Tiểu kết chương 1
Phát huy truyền thống Uống nước nhờ nguồn và Đền ơn đáp nghĩa, trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã bđó cân trọng tâm hành nhiều chính
sách, chế độ để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của thương, bệnh binh,
giải quyết những hậu quả, những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Việc
chính sách ưu đãi đối với người có công, thương, bệnh binh là một chính sách
lớn được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng và được đó cân trọng tâm thành
ngay sau khi đất nước mới giành được độc lập.
Thể chế chính sách ưu đãi xã hội bao gồm 2 lĩnh vực: Trợ cấp, phụ cấp
ưu đãi thường xuyên, hàng tháng và các chính sách ưu đãi trong các lĩnh vực
khác như ưu đãi trong giáo dục và đào tạo, chính sách ưu đãi đối vớiy tế người
có công, ưu đãi về nhà ở và đất, ưu đãi trong phát triển kinh tế
Tiếp nối truyền thống nhân ái của dân tộc, với đạo lý “Ta biết ta biết uống
nước nhớ nguồn đó”, “Đền ơn đáp nghĩa”, bên cạnh các chính sách ưu đãi về trợ
cấp, phụ cấp, những ưu đãi trong giáo dục, y tế, việc làm, nhiều Trong việc phong
tràocủa các địa phương, các tổ chức xã hội và cá nhân đã làm công tác thương
binh, liệt sỹ trở thành công việc thường xuyên của toàn xã hội.
Những năm gần đây, đẩy lên các Trong việc phong trào chính sách ưu
đãi đối với thương, bệnh binh như tặng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình
nghĩa. Chính sách ưu đãi của Nhà nước, việc huy động Trong nguồn lực cộng
đồng chính sách ưu đãi đối với người có công, thương, bệnh binh đã góp phần
chăm lo tốt hơn đời sống mọi mặt của những thương bệnh binh, đúng với quy
định trong Pháp lệnh trong quá trình ưu đãi đối với người có công trên địa bàn;
việc cuộc sống cần trọng tâm chính sách ưu đãi đối với người có công ưu đãi
đời sống vật chất, tinh thần của thương, bệnh binh và gia đình họ là trách nhiệm
của Nhà nước và toàn xã hội.
20
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát tình hình trên địa bàn huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội
Huyện thanh trì nằm ở phía Nam của thành phố của Thủ đô, Thanh Trì là
một địa phương giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Trong quá trình
hình thành và phát triển, Thanh Trì nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa giới, nhưng
truyền thống lịch sử, văn hóa, giáo dục của người dân Thanh Trì vẫn ngày càng
được bồi đắp thêm, sáng mãi cùng Thủ đô ngàn năm văn hiến.
- Huyện Thanh Trì hiện có 16 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: thị trấn
Văn Điển và 15 xã: Duyên Hà, Đại Áng, Đông Mỹ, Hữu Hòa, Liên Ninh, Ngọc
Hồi, Ngũ Hiệp, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Tân Triều, Tứ Hiệp, Thanh Liệt, Vạn
Phúc, Vĩnh Quỳnh, Yên Mỹ.
- Về địa lý, Thanh Trì nằm ở vị trí cửa ngõ phía Nam của Thủ đô, phía
Tây Bắc giáp quận Thanh Xuân; phía Bắc giáp quận Hoàng Mai; phía Tây giáp
quận Hà Đông; phía Nam giáp huyện Thanh Oai và huyện Thường Tín; phía
Đông giáp huyện Gia Lâm và huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên với Sông Hồng
là ranh giới tự nhiên. Địa bàn huyện thanh trì nằm gần sông Hồng, địa thế thấp
dần về phía Đông Nam theo hướng dòng chảy của sông Hồng, trên địa bàn
huyện có đoạn cuối của sông Tô Lịch chảy qua nối với sông Nhuệ ở phía Tây
và giáp phía nam.
2.1.1. Một số đặc điểm chung người có công trên địa bàn huyện
Ở phần này, tác giả mô tả đối với người có công ưu đãi ở xã Ngọc Hồi,
huyện Thanh Trì theo những khía cạnh sau: độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn,
mức độ thương tật. Dưới đây là những nghiên cứu và phân tích lần lượt các
khía cạnh, đặc điểm của người có công.
21
2.1.2. Độ tuổi
Qua nghiên cứu, khảo sát về độ tuổi tại phường Tiền an, huyện Thanh
Trì thì độ tuổi của họ chủ yếu nằm trong nhóm tuổi từ 60 tuổi – 80 tuổi.
Bảng 2.1: Thống kê độ tuổi với cách mạng
Độ tuổi
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Dưới 60 tuổi
20
25,0
Từ 60 – 70 tuổi
35
43,75
Từ 70 – 80 tuổi
15
18,75
Trên 80 tuổi
10
12,5
80
100,0
Tổng
(Số liệu khảo sát của tác giả tháng 12 năm 2017)
Bảng số liệu trên đã cho thấy, trong tổng số 80 NCC thì độ tuổi 60 – 70
tuổi chiếm tỷ trọng cao nhất (43, 75%), đây là độ tuổi phổ biến của Người có
công. 15/80 người được hỏi nằm trong độ tuổi 70 – 80 tuổi chiếm 18, 75%; độ
tuổi dưới 60 tuổi chiếm 25% và có 10 người trên 80 tuổi chiếm 12,5%.
Đối với người có công ưu đãi đa số đều là những người đã có tuổi, nhóm
tuổi 60 – 70 tuổi là nhóm tuổi có số lượng nhiều nhất so với các nhóm tuổi
khác. Nguyên nhân ở đây là do ở độ tuổi này nhìn chung đối với người có công
ưu đãi vẫn tương đối tốt, niềm vui bên con cháu gia đình giúp họ vẫn sống vui,
sống khỏe. Các hoạt động tập thể: thể dục thể thao tuổi già, tham gia đều đặn
các câu lạc bộ dưỡng sinh giúp họ khỏe mạnh hơn.
Giữa độ tuổi 60 - 70 và trên 80 có sự chênh lệch nhau nhất nhiều. Di
chứng để lại trong mỗi con người (đối với người có công ưu đãivới cách mạng)
là rất khác nhau, tùy vào tình trạng đối với người có công ưu đãi mà mỗi con
người ấy có thể sống lâu hơn. Ít người có thể sống đến trên 80 tuổi, độ tuổi phổ
biến từ 60 - 70 chiếm đại đa số.
22
2.1.3. Giới tính
Vì những đặc thù đối với người có công ưu đãicũng như thể chất khác
nhau mà đối với người có công ưu đãilà nam giới có tỷ lệ cao hơn nữ giới, điều
đó thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2: Giới tính của người có công
Giới tính
Số lượng
Tỷ lệ
Nam
18
77,5
Nữ
62
22,5
Tổng
80
100,0
(Số liệu khảo sát của tác giả, tháng 12/2017)
Sự phân chia giới tính nam và nữ của NCC huyện Thanh Trì rất rõ rệt.
Theo số liệu điều tra được thì 18 người trong tổng số 80 người là giới tính nữ
(chiếm 22,5%) còn lại là nam (chiếm 77,5%). Tỷ lệ nam giới nhiều hơn nữ giới
khá nhiều điều này có thể dễ hiểu vì hai cuộc kháng chiến, hầu hết con trai là
người ra trận, trực tiếp đấu tranh với quân thù, chỉ có một số ít các bác gái là
đã từng trực tiếp tham gia chiến đấu còn lại chủ yếu ở nhà làm hậu phương cho
tiền tuyến, tham gia lao động sản xuất tại địa phương.
Ưu đãi và thể lực của nam giới bền bỉ và dẻo dai hơn nữ giới, nam giới
ra chiến trường nhiều hơn nữ giới không có nghĩa là nữ giới không biết chiến
đấu chống quân xâm lược bảo vệ Tổ quốc. Đằng sau mỗi trận chiến luôn có
bóng dáng của nữ giới, họ âm thầm lặng lẽ tiếp lương thực, tiếp sức mạnh, tiếp
thêm tinh thần và là hậu phương vững chắc.
Nam giới có sức mạnh phi thường của họ. Ở nam giới dễ nhận thấy sự
khỏe mạnh không chân yếu tay mềm giống như nữ giới, nam giới có những
quyết đoán nhanh gọn, chính xác mà ở nữ giới không phải ai cũng có được.
Là nam giới phải làm những công việc nặng nhọc, to lớn, gánh vác trách
nhiệm nặng nhọc trên đôi vai, những người đàn ông của gia đình của đất nước
23