Tải bản đầy đủ (.doc) (213 trang)

Chất lượng hoạt động báo cáo viên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 213 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

PHẠM TUYẾT LỆ

CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO VIÊN
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2018


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm xây dựng, phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng, phổ biến
truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, cổ vũ động viên quần chúng tham gia
các hoạt động xã hội. Trong lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện giai cấp và đấu
tranh giai cấp, các giai cấp cầm quyền đều tiến hành công tác tư tưởng, xây
dựng hệ tư tưởng để luận chứng cho sự tồn tại của chế độ xã hội và bảo vệ lợi
ích của giai cấp mình.
Công tác tư tưởng của đảng cộng sản là hoạt động xây dựng, phát triển,
hoàn thiện hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, tạo nền tảng tư tưởng cho


Đảng; phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng trong giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các tầng lớp quần chúng, lôi cuốn, cổ vũ họ tham gia cuộc đấu tranh
giành và bảo vệ chính quyền, xây dựng CNXH và tiến lên chủ nghĩa cộng
sản. Xét về nội dung, vị trí, vai trò, công tác tư tưởng là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục, quan trọng hàng đầu trong tất cả các giai đoạn cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Công tác tư tưởng bao gồm 3 hình thái: hình thái lý luận, hình thái
tuyên truyền và hình thái cổ động. Hình thái lý luận bao gồm các hoạt động
nghiên cứu, tuyên truyền lý luận và giáo dục lý luận chính trị, nhằm xác lập,
phát triển, hiện thực hóa hệ tư tưởng. Hình thái tuyên truyền bằng các hình
thức khác nhau phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, quan điểm, đường lối của giai
cấp, chính đảng trong xã hội. Hình thái cổ động là các hoạt động cổ vũ, động
viên, đa số bằng các hình thức trực tiếp, kêu gọi và tổ chức quần chúng tham
gia các hoạt động cách mạng trong thực tế. Tuyên truyền là một trong những
hoạt động cơ bản của công tác tư tưởng. Các kết quả của công tác nghiên cứu
lý luận, hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng nhờ có tuyên truyền đã
đến với quần chúng và trở thành lực lượng vật chất vĩ đại thông qua các hoạt
động cách mạng của hàng triệu quần chúng.


2
TTM là bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng. Cùng với các bộ phận
khác của công tác tư tưởng, TTM và hoạt động của BCV truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong xã hội, góp phần xây dựng thế giới quan
duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học, tư tưởng, tình cảm, nhân
cách, lối sống, cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự chuyển biến trong
nhận thức và cùng với cổ động, tạo nên các hành động tự giác, tích cực, chủ
động, sáng tạo của đại đa số quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. TTM và hoạt động BCV còn là công cụ quan trọng hàng

đầu trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán, phản bác
các quan điểm sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
lực lượng thù địch trong công tác tư tưởng.
Trong CTTT, TTM là một trong những hình thức tuyên truyền đặc biệt,
hình thành từ rất sớm và được thực hiện bằng lời nói qua giao tiếp trực tiếp.
Nhờ có giao tiếp trực tiếp giữa người nói và người nghe, TTM có những ưu
thế nổi trội so với các loại hình tuyên truyền khác về tính hấp dẫn, sinh động,
tính định hướng thông tin, tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính bảo mật, tính
tương tác và khả năng thực hiện đối thoại... Trong thời đại ngày nay, dù các
phương tiện truyền thông ngày càng hiện đại, phổ biến, tiện lợi thì TTM vẫn
là một hình thức tuyên truyền hiệu quả, không thể thay thế.
TTM được thực hiện bởi ĐNBCV do cấp ủy thành lập, lãnh đạo, tổ
chức và chỉ đạo hoạt động. Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, BCV phổ biến
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông
báo thời sự, chính sách, giải đáp những vướng mắc trong nhận thức, nắm bắt
và phản ánh kịp thời tình hình tư tưởng, những tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng cho các cấp ủy đảng; đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái... Cũng
như các lĩnh vực hoạt động khác, chất lượng hoạt động BCV là yếu tố mang
tính quyết định đến hiệu quả của công tác TTM và HĐTT nói chung. Chất
lượng của hoạt động BCV phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đó là phẩm chất, năng
lực của BCV và chủ thể lãnh đạo, quản lý hoạt động BCV. Trong bối cảnh


3
tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp; sự bùng nổ
thông tin toàn cầu cùng với sự nở rộ của các trang mạng xã hội làm cho cuộc
đấu tranh tư tưởng trên mặt trận tuyên truyền ngày càng phức tạp và trở nên
cấp bách thì việc nâng cao chất lượng hoạt động BCV có tác động trực tiếp
đến chất lượng, hiệu quả của CTTT, góp phần nâng cao chất lượng công tác
tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

ĐBSCL, còn được gọi là đồng bằng Nam Bộ hoặc miền Tây Nam Bộ, có
12 tỉnh và thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Toàn vùng có có diện
tích tự nhiên 40.548 km2, chiếm 12,25% diện tích tự nhiên của cả nước; có
đường biên giới với Campuchia dài hơn 340 km; có bờ biển dài 743 km, vùng
biển, vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn với tài nguyên biển, trong lòng đất đáy
biển rất phong phú; có hai 2 huyện đảo là Phú Quốc và Kiên Hải nằm trên
đường giao lưu quốc tế rất nhộn nhịp…. Dân số trong vùng gồm 17,55 triệu
người, trong đó dân tộc Kinh chiếm 91,91%; còn lại là các dân tộc thiểu số
Khmer, Hoa, Chăm và một số ít người của các dân tộc thiểu số khác. Các dân
tộc sống đan xen nhau, có sự giao thoa về văn hóa, tạo nên sự phong phú, đa
dạng của văn hóa VĐBSCL và gắn kết các dân tộc với nhau. Vị trí quan trọng
của VĐBSCL trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của Tổ
quốc đặt ra yêu cầu cao đối với công tác tư tưởng và những đặc điểm về tự
nhiên, kinh tế - xã hội, dân tộc, tôn giáo, đối ngoại… nơi đây có tác động
mạnh đến TTM và hoạt động BCV trên địa bàn.
Những năm qua, hoạt động BCV của VĐBSCL đã đạt được những kết
quả nhất định, góp phần quan trọng vào việc đưa các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Đồng thời, hoạt động TTM, BCV cũng còn nhiều hạn chế, chất
lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác tư tưởng trong tình
hình mới. Nghiên cứu để tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
BCV ở VĐBSCL là yêu cầu cấp bách của công tác tư tưởng nói chung và
CTTT nói riêng ở các đảng bộ trong Vùng hiện nay.


4
Với các lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Chất lượng hoạt động báo
cáo viên Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ
Chính trị học, chuyên ngành công tác tư tưởng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng
hoạt động BCV, luận án đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất
lượng hoạt động BCV của VĐBSCL hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, nhận định về
kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu đã có và chỉ ra hướng
nghiên cứu tiếp theo.
- Khái quát, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động BCV và
chất lượng hoạt động BCV, xây dựng công cụ đánh giá chất lượng và xác định
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV của VĐBSCL.
- Đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động BCV, khái quát những vấn
đề đặt ra trong chất lượng hoạt động BCV của VĐBSCL.
- Đề xuất và luận giải cơ sở khoa học của phương hướng, giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động BCV của VĐBSCL hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong hoạt
động BCV và chất lượng hoạt động BCV của VĐBSCL hiện nay.
3.2. Về phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án nghiên cứu chất lượng hoạt động BCV cấp ủy
VĐBSCL (bao gồm BCV cấp tỉnh và cấp huyện). Hoạt động BCV được
nghiên cứu bao gồm hoạt động của ĐNBCV dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy và hoạt động của từng BCV.


5
Về thời gian nghiên cứu: Khảo sát, nghiên cứu thực trạng về chất lượng
hoạt động BCV của VĐBSCL từ năm 2012 đến 2017.
Về không gian: Luận án tập trung khảo sát lấy số liệu thực tế về hoạt

động BCV cấp tỉnh và cấp huyện qua các báo cáo và khảo sát thực tế hoạt động
này ở các tỉnh tiêu biểu là Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên các nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; quan điểm chỉ đạo của Đảng về hoạt động BCV. Trong quá
trình nghiên cứu của đề tài, tác giả có lựa chọn, kế thừa một số kết quả nghiên
cứu lý luận của các công trình khoa học có liên quan.
4.2. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu,
luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: được dùng để nghiên cứu các văn
kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, văn bản của BTG Trung
ương, báo cáo hoạt động hàng năm của BTG các cấp, tài liệu, bài báo, tạp chí,
các công trình khoa học trong nước và ngoài nước… liên quan đến luận án.
- Phương pháp lôgíc và lịch sử: phương pháp lôgíc để tìm ra mối liên
hệ bản chất, tính tất yếu, quy luật các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.
Luận án trình bày vấn đề theo trình tự thời gian để thấy được các tư tưởng,
quan điểm về hoạt động BCV qua các giai đoạn lịch sử.
- Phương pháp thống kê, so sánh, quan sát: Luận án thống kê các số
liệu có liên quan đến hoạt động BCV, so sánh, đối chiếu và quan sát thực tế để
đảm bảo sự tin cậy của số liệu.


6
- Phương pháp tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận: Bắt đầu từ
nghiên cứu thực tiễn hoạt động BCV làm cơ sở kết hợp nghiên cứu lý luận

chung có liên quan đến đề tài nghiên cứu để xây dựng khung lý thuyết, đánh
giá thực trạng, từ đó đề ra phương hướng và giải pháp của luận án.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Tham khảo ý kiến của chuyên gia và
người hướng dẫn khoa học để lập bảng hỏi, chọn mẫu mang tính đại diện để
điều tra về nhận thức, những đánh giá, quan điểm của đối tượng về hoạt động
BCV; thu thập dữ liệu theo mẫu và tiến hành phân tích, xử lý phiếu điều tra xã
hội học.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với
những người làm công tác lãnh đạo, quản lý hoạt động BCV ở các BTG,
Trung tâm thông tin công tác tuyên giáo một số tỉnh VĐBSCL về các nội
dung liên quan đến hoạt động BCV ở cơ sở, qua đó tìm hiểu những vấn đề có
liên quan đến luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Từ góc độ khoa học công tác tư tưởng, luận án góp phần làm rõ khái
niệm hoạt động BCV và chất lượng hoạt động BCV, xây dựng hệ thống tiêu chí
đánh giá chất lượng hoạt động BCV từ cấp độ hoạt động của ĐNBCV và cấp
độ hoạt động về chuyên môn, nghiệp vụ của từng BCV. Chất lượng hoạt động
BCV từ bình diện một đội ngũ và cá nhân BCV.
Luận án đã khái quát, phân tích, làm rõ cơ sở khoa học, tổng kết thực
trạng và xác định những vấn đề đặt ra trong hoạt động BCV ở một vùng lãnh
thổ với nhiều điểm đặc thù. Luận án đã đề xuất và luận giải cơ sở khoa học của
các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV của
VĐBSCL hiện nay. Dưới góc độ nghiên cứu, triển khai, đó là quá trình tổng kết
thực tiễn, góp phần làm phong phú thêm khoa học về công tác tư tưởng.
Những kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với
những người làm công tác BCV nói chung.


7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Luận án làm rõ những vấn đề lý luận và khái niệm hoạt động BCV,
chất lượng hoạt động BCV, xác định các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt
động BCV dưới góc độ khoa học công tác tư tưởng. Với kết quả nghiên cứu
luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu
hoạt động giảng dạy chuyên ngành công tác tư tưởng, quản lý hoạt động tư
tưởng văn hóa.
- Từ việc đánh giá đúng thực trạng, luận án đề ra phương hướng và giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV phù hợp với đặc thù của VĐBSCL
hiện nay. Việc nghiên cứu về thực trạng và phương hướng, giải pháp này cung
cấp căn cứ khoa học và thực tiễn cho cấp ủy, BTG cùng cấp ở ĐBSCL trong
việc đề ra chủ trương giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong công tác TTM,
chất lượng hoạt động BCV và xây dựng ĐNBCV của Vùng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho cấp
ủy các cấp, BTG, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện, thị xã trong
VĐBSCL trong việc tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo, xây dựng, phát triển ĐNBCV
và cho việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng hoạt động BCV trên địa bàn.
7. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu gồm: mở đầu, 4 chương, với 12 tiết, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác tuyên truyền, tuyên
truyền miệng và hoạt động báo cáo viên
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác tuyên truyền, tuyên
truyền miệng ở nước ngoài
Đề cập đến CTTT, TTM và hoạt động BCV có một số công trình

nghiên cứu ở nước ngoài với các góc độ khác nhau. Có thể kể đến các công
trình tiêu biểu sau:
- Tác giả I.Ia-Blinôp trong cuốn “Nghệ thuật nói chuyện của tuyên
truyền viên”, (người dịch: Nguyễn Ngọc Lư), Nxb Văn hóa - Nghệ thuật,
(1962), đã đề cập đến những vấn đề khá cụ thể và tỷ mỷ, như: làm thế nào để
tránh các lỗi về đặt câu, dùng từ, phát âm; trình tự chuẩn bị cho một buổi nói
chuyện; mối quan hệ giữa người nói chuyện với thính giả... Cuốn sách đã
giúp BCV nghiên cứu, vận dụng trong quá trình phát biểu miệng, điều khiển
buổi truyết trình bằng các mối liên hệ với người nghe...
- Tác giả E.Phancôvích trong “Nghệ thuật diễn giảng”, Nxb Sách giáo
khoa Mác - Lênin, Hà Nội (1976) cho rằng, những bài giảng được chuẩn bị
cẩn thận và truyền đạt tốt sẽ giúp cho người nghe có thêm những kiến thức
mới trong từng lĩnh vực, biết tư duy sâu rộng và hiểu rõ hơn những hiện
tượng về tự nhiên và xã hội. Muốn soạn được bài giảng đạt yêu cầu, giảng
viên phải có giác ngộ chính trị, kiên định lập trường của Đảng và có tầm hiểu
biết sâu rộng về lĩnh vực nghiên cứu. Sự thành công của bài giảng còn tùy
thuộc vào nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của giảng viên khi trình bày, lý giải
các vấn đề. Muốn làm được điều đó, người giảng viên phải lao động miệt mài,
tìm tòi và sáng tạo để đạt được kỹ năng diễn giảng. Đây là tài liệu giúp tác giả
luận án kế thừa, vận dụng trong quá trình nghiên cứu, đề ra những giải pháp
nâng cao chất lượng họat động BCV hiện nay.


9
X.I. Xurơnitrencô trong cuốn “Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản
Liên Xô”, (chủ biên), Nxb Thông tin lý luận (1982), đã phân tích, chỉ rõ tuyên
truyền, diễn giảng là một bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng. Tác giả
đề cao vai trò của CTTT bằng phương pháp diễn giảng; cho rằng phương
pháp diễn giảng đang vận động, ngày càng phát triển; các bài diễn giảng đã
trở thành một phương tiện tác động tư tưởng có uy tín trong quần chúng lao

động, góp phần làm phong phú hơn kiến thức, nâng cao thêm tính tích cực
của họ. Đây là những gợi ý quan trọng, giúp tác giả luận án nghiên cứu chất
lượng hoạt động BCV hiện nay.
M.M. Rakhơmancunôp trong cuốn “Tuyên truyền miệng: Lý luận - Tổ
chức - Phương thức”, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, (1983), cho rằng:
TTM đã và vẫn là lĩnh vực quan trọng trong hoạt động của Đảng, là một trong
những hình thức tích cực để giữ mối liên hệ thường xuyên giữa Đảng với
quần chúng, là công cụ lãnh đạo chính trị có hiệu lực. Từ đặc điểm thực hiện
tuyên truyền qua giao tiếp trực tiếp với mọi người, TTM có khả năng cụ thể
hóa các nhiệm vụ của Đảng, đề ra các nhiệm vụ cho các tập thể và mỗi cá
nhân cán bộ, đảng viên. TTM cần phải dựa trên những nguyên tắc: tính đảng,
tính khoa học, tính chân thực, gắn liền với thực tiễn. Nếu chọn được những
vấn đề lý thú, cấp bách để nói chuyện, các buổi tọa đàm, báo cáo, thông tin
chính trị được xây dựng trên cơ sở sự kiện, gần gũi với mọi người và được
diễn đạt bằng ngôn ngữ sinh động, dễ hiểu thì CTTT đạt được mục đích và
chất lượng cao.
Tác giả E.A. Nôgin trong cuốn “Nghệ thuật phát biểu miệng”, Nxb
Sách giáo khoa Mác - Lênin (1984), đã giới thiệu những vấn đề về tâm lý - sư
phạm của nghệ thuật phát biểu miệng, nêu lên công việc chuẩn bị bài phát
biểu, lôgic và văn phong của các bài phát biểu, cách sử dụng tư liệu thực tế,
sự tác động qua lại lẫn nhau giữa cán bộ tuyên truyền và người nghe; giúp cho
cán bộ làm công tác TTM có được nghệ thuật phát biểu, kỹ năng phát biểu
thành thạo trước công chúng. Theo tác giả, nghệ thuật phát biểu miệng là kỹ


10
năng nói với mọi người một cách hấp dẫn, thuyết phục và dễ hiểu mà trong
thực tế, mỗi người đều có thể có được kỹ năng, phẩm chất ấy.
Raymond De Saint Laurent trong tác phẩm “Nghệ thuật nói trước công
chúng” Nxb Văn hóa - Thông tin, (2003), lý giải việc một người nói chuyện

có duyên, một nhà hùng biện tài ba… phải rèn luyện cách xã giao, ứng xử khi
nói chuyện như thế nào. Đứng trước mọi người, họ được xem như người có
năng khiếu giao tiếp, nhưng thực ra không phải vậy mà thực chất là sự chuẩn
bị chu đáo và không ngừng rèn luyện của bản thân. Tác giả giới thiệu các
bước chuẩn bị buổi nói chuyện, cũng như các cử chỉ, điệu bộ, âm điệu, giọng
nói và khẳng định: đây không phải là khả năng bẩm sinh mà phần lớn là do sự
rèn luyện mà nên. BCV muốn trở thành người có uy tín (có thương hiệu),
trước hết phải trau dồi, học hỏi, nâng cao về trình độ chuyên môn, đúc rút
kinh nghiệm trong hoạt động TTM của mình.
Cục Cán bộ, Bộ Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
đã xuất bản cuốn “Tuyên truyền công tác tư tưởng trong thời kỳ mới”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2005). Cuốn sách trình bày trong 9 chương, tổng
kết một cách có hệ thống và toàn diện những kinh nghiệm cơ bản trong CTTT
tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chương 9 trình bày về xây dựng
đội ngũ những người làm CTTT tư tưởng; yêu cầu về tố chất đối với cán bộ
làm CTTT tư tưởng. Trong đó đã chỉ rõ vai trò đặc biệt của CTTT:
Trong các mặt trận lãnh đạo của Đảng thì tuyên truyền tư tưởng
là mặt trận hết sức quan trọng. Trong các cơ quan lãnh đạo các
cấp của Đảng thì cơ quan làm công tác tuyên truyền tư tưởng là
cơ quan hết sức quan trọng, còn trong hàng ngũ cán bộ của Đảng
thì những người làm công tác tuyên truyền tư tưởng là lực lượng
hết sức quan trọng [57, tr.8].
Về mục đích của CTTT, tác phẩm đã chỉ rõ:
Công tác tuyên truyền tư tưởng phải tạo ra động lực tinh thần to
lớn, tạo nên sự ủng hộ bằng trí tuệ, bảo đảm về tư tưởng và môi


11
trường dư luận lành mạnh trong công cuộc cải cách, mở cửa, xây
dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và xã hội tiến bộ

toàn diện [57, tr.21].
Trần Khang - Lê Cự Lộc (chủ biên), trong cuốn “Giáo trình tổng kết
một cách toàn diện, có hệ thống những kinh nghiệm cơ bản trong công tác
tuyên truyền tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội (2005), đã chỉ rõ vai trò đặc biệt của CTTT, cho rằng: đối tượng
tuyên truyền là con người và để làm tốt CTTT cho quần chúng cần phải thích
ứng với hoàn cảnh cụ thể của quần chúng; áp dụng PPTT một cách khoa học,
phù hợp với đối tượng tuyên truyền.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài, chủ yếu là ở
Liên Xô (cũ) và Trung Quốc, gắn với việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng của đảng cộng
sản trong tiến trình xây dựng CNXH. Các công trình nêu trên trên gợi mở cho
tác giả trong nghiên cứu, đề xuất các giải pháp về nâng cao chất lượng hoạt
động BCV VĐBSCL hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về công tác tư tưởng,
công tác tuyên truyền và hoạt động báo cáo viên
Về công tác tư tưởng, CTTT có nhiều tác giả, tác phẩm đề cập đến các
vấn đề nội dung, phương pháp, phương thức, tổ chức và hoạt động của lĩnh
vực này.
Tác giả Đào Duy Tùng trong cuốn “Một số vấn đề về công tác tư
tưởng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (1999), khẳng định tầm quan trọng của
công tác TTM trong việc đưa tiếng nói của Đảng đến quần chúng, đồng thời có
nhận định TTM phát triển có phần chậm so với yêu cầu, tính chất, tầm vóc của
những nhiệm vụ cách mạng và so với một số lĩnh vực khác, như báo chí, phát
thanh, truyền hình. Tác giả nêu lên những nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân chủ yếu là nhận thức và tổ chức; từ đó, tác giả đã nêu những giải pháp
thiết thực để khắc phục những khó khăn, hạn chế mà công tác TTM gặp phải.


12

Tác giả Lương Khắc Hiếu (chủ biên) trong cuốn“Nguyên lý công tác tư
tưởng" tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2008), đã đề cập một cách tổng
thể các vấn đề về công tác tư tưởng. Về tuyên truyền, tác giả đưa ra khái niệm
TTM, vị trí, vai trò của TTM, những ưu thế của TTM; sự cần thiết của việc tổ
chức xây dựng ĐNBCV, TTV; những vấn đề thuộc về tổ chức, phương thức
hoạt động và chức năng của BCV, TTV; những nội dung chủ yếu về đổi mới
hoạt động BCV, TTV hiện nay. Đây là tài liệu cơ bản có tính giáo khoa, hết sức
bổ ích cho hoạt động BCV, tuyên truyền và những người quan tâm đến vấn đề
này.
Tác giả Ngô Văn Thạo (chủ biên), trong cuốn “Nghiệp vụ Tuyên giáo”,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, (2008), đã làm rõ những khái niệm như:
tuyên truyền, TTM, BCV; các yếu tố tác động đến hiệu quả tuyên truyền. Cuốn
sách đã nêu những nội dung cơ bản trong quan điểm của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về lĩnh vực tuyên truyền.
BTG Trung ương, trong “Tập bài giảng cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh, cấp
huyện năm 2009”, (2009), đã cập nhật kiến thức mới về chuyên môn, nghiệp
vụ công tác tuyên giáo; những chủ trương, đường lối, quan điểm, yêu cầu mới
của Đảng về lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; vấn đề nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tuyên giáo của Đảng. Tài liệu
đã đề cập đến công tác TTM; vị trí, vai trò của TTM và hoạt động của ĐNBCV,
TTV; ưu thế của TTM và các loại hình tuyên truyền; cách chuẩn bị một bài nói
cho cán bộ làm công tác TTM ở cấp huyện và cấp tỉnh.
Tác giả Phạm Tất Thắng trong cuốn “Ðổi mới công tác tư tưởng, lý
luận trong tình hình mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2010), đề cập về
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, đã đưa ra những biện pháp cơ bản đổi
mới mạnh mẽ cả về nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong việc phát huy sức mạnh của đại
đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, hội
nhập quốc tế. Về tuyên truyền thi đua yêu nước, tác giả viết: Đổi mới cách



13
viết, cách tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, các phong trào thi đua yêu
nước theo hướng thiết thực, không hình thức, không phô trương, lãng phí, phù
hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Luận án Tiến sĩ Tâm lý học của Đinh Thị Mai “Kỹ năng tuyên truyền
bằng lời tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của báo cáo viên”, Trường đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, (2013), đề cập đến việc tuyên
truyền tư tưởng Hồ Chí Minh bằng lời nói (hiểu là TTM của ĐNBCV, TTV),
một vấn đề có tính nghiệp vụ tuyên truyền. Luận án đã nghiên cứu một cách
hệ thống về cơ sở lý luận, kỹ năng tuyên truyền tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh của BCV cơ sở. Luận án đã nêu lên một số yếu tố chủ quan và khách
quan tác động tới kỹ năng tuyên truyền tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và các
yếu tố tác động đến kỹ năng tuyên truyền tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh của
BCV cơ sở.
Tác giả Lương Ngọc Vĩnh trong bài viết “Công tác tuyên truyền miệng
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí BCV, số 02, tháng
2/2015 cho rằng, để phát huy hiệu quả công tác TTM trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau: tiếp
tục quán triệt ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác TTM và ĐNBCV,
TTV trong tình hình mới; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức
TTM và hoạt động của BCV, TTV, vừa đáp ứng nhanh nhu cầu và trình độ
mới của quần chúng, vừa nâng cao tính định hướng và sự thuyết phục của
công tác TTM; tiếp tục cũng cố và xây dựng ĐNBCV các cấp, đẩy mạnh việc
tổ chức và hoạt động của các đội TTV của các ngành, địa phương, các tổ
chức, đoàn thể chính trị - xã hội và trong lực lượng vũ trang.
Tác giả Bùi Thế Đức trong bài viết “Vai trò công tác tuyên truyền miệng
đối với phát triển hình ảnh và thương hiệu quốc gia Việt Nam”, Tạp chí BCV,
số 05, tháng 05 năm 2016, cho rằng: Trước tác động nhiều chiều của quá trình

vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế của đất nước, việc xây dựng chiến lược phát triển hình ảnh và thương hiệu
quốc gia Việt Nam là một yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách, trong đó CTTT có vị trí


14
vô cùng quan trọng, góp phần tích cực xây dựng, phát triển thương hiệu quốc
gia. CTTT đã giúp nâng cao nhận thức của toàn xã hội, các cấp lãnh đạo, doanh
nghiệp về sự cần thiết phải phát triển hình ảnh và thương hiệu quốc gia trong
bối cảnh đất nước đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. CTTT góp phần
giáo dục ý thức tự tôn, lòng tự hào, tự trọng của dân tộc; xây dựng đạo đức, văn
hóa, trách nhiệm xã hội và sự tự tin cho doanh nghiệp.
Luận án Tiến sĩ Chính trị học của Lê Mai Trang, “Đổi mới công tác
tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện
nay”, (2016). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, đã đề cập đến
các quan niệm về CTTT của C.Mác - V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Đặc biệt, luận án đã trình bày các yếu tố cấu thành CTTT của Đảng, gồm các
vấn đề sau: Một là, chủ thể của CTTT là tổ chức đảng, cơ quan chuyên trách về
công tác tư tưởng, trong đó Đảng đề ra chủ trương, đường lối, nội dung và
phương thức tuyên truyền, còn cơ quan chuyên trách và đảng viên là người
thực hiện; đối tượng của CTTT là những cá nhân, cộng đồng người và đối
tượng tác động là nhận thức, tư tưởng của nhân dân. Hai là, nội dung tuyên
truyền gồm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đấu tranh
chống các luận điệu sai trái, thù địch. Ba là, phương thức tuyên truyền gồm
TTM, tuyên truyền trực quan, qua các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài
ra, luận án đã nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến CTTT của Đảng. Những
nội dung trên là cơ sở để nghiên cứu hoạt động BCV - một hình thức của CTTT
của Đảng.
Về hoạt động BCV, nhiều tác giả đã đề cập đến các lĩnh vực thuộc nội

dung, phương thức, phương pháp, nghệ thuật phát biểu của BCV.
Tác giả Lương Khắc Hiếu (chủ nhiệm đề tài) “Nâng cao năng lực hoạt
động thực tiễn của đội ngũ báo cáo viên ở Hà Nội hiện nay”, (2003), đã nêu
ra thực trạng ĐNBCV ở Hà Nội và hoạt động của họ, từ đó có những kiến
nghị và giải pháp thích hợp, có thể vận dụng vào việc phát huy vai trò của
ĐNBCV trong hoạt động TTM trên địa bàn Hà Nội và ở nước ta hiện nay.


15
Trong tác phẩm “Nghệ thuật phát biểu miệng”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, (2008), tác giả Lương Khắc Hiếu đã đề cập đến những nội dung cơ
bản của phát biểu miệng gồm cơ sở tâm lý - sư phạm; phương pháp, thao tác,
kỹ năng TTM; những ưu thế và hạn chế của phát biểu miệng. Công tác rèn
luyện, tu dưỡng, xây dựng ĐNBCV, TTV, gồm vấn đề về tâm lý - sư phạm,
những phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ TTM. Cách để chuẩn bị bài
phát biểu và chứng minh trong phát biểu; ngôn ngữ và quá trình phát biểu
miệng. Theo tác giả: “Phát biểu miệng là quá trình truyền thông bằng lời nói
trực tiếp, với phương thức, mục đích khác nhau, xuất hiện và được sử dụng
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể” [87, tr.9].
Bàn về PPTT, tác giả Hoàng Quốc Bảo trong cuốn sách“Học tập
phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh”, Nxb Lý luận chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, (2006), nêu lên khái niệm về PPTT cách mạng của Hồ
Chí Minh:
Phương pháp tuyên truyền cách mạng của Hồ Chí Minh là sự tổng
hợp những cách thức, là khoa học và nghệ thuật mà Hồ Chí Minh
đã tiếp thu, kế thừa, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác Lênin, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại… để giải thích,
chứng minh, cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân, nhằm thức
tỉnh họ ở tinh thần yêu nước, xây dựng cho họ tinh thần cách
mạng, đồng thời vạch ra cho họ con đường đấu tranh giành độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa cộng sản [41, tr.58-59].

Cuốn sách cũng chỉ ra những đặc trưng cơ bản trong PPTT của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, như: Tính khoa học và tính cách mạng; tính đại chúng và
tính nghệ thuật; kết hợp giữa lời nói và hành động. Sách yêu cầu cần phải vận
dụng PPTT cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đổi mới PPTT của cán
bộ tư tưởng trong thời kỳ mới.
Tác giả Ngô Văn Thạo (chủ biên), trong tài liệu“Công tác tuyên truyền
miệng, báo cáo viên”, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, (2008), đã cung cấp
một cách có hệ thống những kiến thức nghiệp vụ của công tác TTM và nghiệp


16
vụ công tác BCV, bao gồm cả chỉ đạo và tổ chức quản lý đối với ĐNBCV,
TTV. Trong 5 chuyên đề của cuốn sách, tác giả đã nêu một số vấn đề chung về
CTTT; TTM trong HĐTT; xây dựng và tổ chức ĐNBCV, TTV; nội dung,
phương pháp chuẩn bị một buổi TTM; phương pháp thực hiện một buổi tuyên
truyền. Tài liệu cũng đã gợi ý 5 "đề cương mẫu" về các nội dung tuyên truyền
mà BCV hay gặp phải trong TTM cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Đây là tài liệu
bổ ích cho ĐNBCV, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TTM.
Luận án Tiến sĩ Chính trị học của tác giả Vũ Minh Thực “Đổi mới
công tác tuyên truyền miệng ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam giai
đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng, (2008), đã trình bày khái
quát cơ sở lý luận về công tác TTM theo quan điểm của các nhà kinh điển
Mác - Lênin, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam, quan điểm của các nhà lãnh đạo và các nhà khoa học mác xít trong và
ngoài nước, thực trạng và một số kinh nghiệm đổi mới công tác TTM ở đơn vị
cơ sở của Quân đội, từ đó tác giả đưa ra yêu cầu, phương hướng và một số
giải pháp đổi mới công tác TTM ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam
giai đoạn hiện nay.
Tác giả Nguyễn Chí Mỳ trong bài báo “Một số suy nghĩ đổi mới
phương pháp tuyên truyền miệng hiện nay”, Tạp chí BCV, số 02, tháng

02/2009, đưa ra một số vấn đề đang nổi lên về đổi mới PPTT miệng như:
nâng cao năng lực nắm đối tượng và chú ý tới những vấn đề mà đối tượng
quan tâm khi TTM; quán triệt sâu sắc sự thống nhất giữa lời nói với niềm tin
của BCV trong PPTT; tăng cường đối thoại trong TTM; chuẩn bị chu đáo cho
buổi báo cáo, nói chuyện; chăm lo đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, kỹ
thuật, có chính sách hợp lý để thu hút, động viên BCV; đây là những gợi ý
quan trọng để tác giả luận án nghiên cứu nội dung của luận án.
Tác giả Hà Thị Bình Hòa (chủ biên), trong cuốn Giáo trình “Tâm lý học
tuyên truyền”, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, (2012), đã viết:
Hiệu quả tuyên truyền không chỉ phụ thuộc vào nội dung, hình
thức, phương pháp, phương tiện tuyên truyền mà còn lệ thuộc vào


17
hàng loạt các yếu tố tâm lý trong quá trình đó, như: phẩm chất,
năng lực, uy tín, các trạng thái xúc cảm, tình cảm của người tuyên
truyền; ấn tượng của chủ thể tuyên truyền; sự thiện cảm của đối
tượng đối với người tuyên truyền; trình độ nhận thức, phong tục
tập quán, thói quen, nhu cầu thông tin của đối tượng tuyên
truyền… Do vậy, để tuyên truyền có hiệu quả, cùng với sự chuẩn
bị về nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động, người tuyên
truyền cần chú ý khai thác, vận dụng các hiện tượng, quy luật tâm
lý trong tuyên truyền [95, tr.11].
Những nghiên cứu trên là những gợi ý quan trọng khi tác giả luận án
nghiên cứu những yếu tố tác động đến chất lượng của hoạt động BCV.
1.2. Các công trình nghiên cứu về chất lượng tuyên truyền miệng,
chất lượng hoạt động báo cáo viên
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, gồm báo cáo kết quả đề tài
khoa học, kỷ yếu hội thảo, tọa đàm, sách, giáo trình, luận văn, các bài báo
khoa học đăng trên các tạp chí, thông tin chuyên đề…, liên quan đến chất

lượng TTM và chất lượng hoạt động BCV.
Về chất lượng, hiệu quả công tác TTM và hoạt động BCV:
Tháng 8/2017, BTG Trung ương đã tổ chức các cuộc tọa đàm tại thành
phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, kết quả tọa đàm đã được tóm tắt trên Báo điện
tử Tuyên giáo. Nội dung các ý kiến phát biểu tập trung làm rõ thực trạng,
nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác TTM và hoạt động BCV trong thời gian tới. Đó là: nhóm giải pháp về nâng
cao nhận thức của các cấp ủy đảng, BTG các cấp và lực lượng BCV về vị trí,
vai trò công tác TTM. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp
TTM, trong đó đổi mới và nâng cao chất lượng nội dung thông tin tại các
HNBCV, tăng cường đối thoại, thông tin hai chiều, lắng nghe và tiếp nhận
thông tin phản ảnh của đối tượng nhằm nắm bắt được những tâm tư, nguyện
vọng, những vấn đề nảy sinh trong thực tế, những ý kiến trái chiều để trao đổi,


18
giải thích, thuyết phục, có lý, có tình. Nhóm giải pháp về củng cố, nâng cao
chất lượng ĐNBCV, TTV. Nhóm giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất, phương
tiện hoạt động và chế độ, chính sách đặc thù với hoạt động BCV. Cuối cùng là
nhóm giải pháp tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, sơ kết, tổng kết công tác TTM
và hoạt động của ĐNBCV, kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc cũng như
biểu dương, khen thưởng cho những đóng góp trong công tác TTM và hoạt
động BCV.
Tác giả Phạm Huy Kỳ trong bài báo “Các loại hình tuyên truyền và tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình tuyên
truyền”, Thông tin chuyên đề, số 3/2014, có nội dung liên quan đến TTM. Tác
giả cho rằng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tuyên truyền phụ thuộc vào các
yếu tố tham gia quá trình tuyên truyền, bao gồm: chủ thể tuyên truyền, nội
dung, hình thức, PPTT; cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ CTTT; kết quả tác
động vào đối tượng tuyên truyền. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tuyên truyền

còn phụ thuộc vào những đặc điểm, đặc trưng của các loại hình tuyên truyền:
tuyên truyền trực quan, TTM và tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại
chúng (tiêu chuẩn về nhận thức, tiêu chuẩn về thái độ, tiêu chuẩn về hành vi).
Nhận thức đúng về các loại hình tuyên truyền và tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng hoạt động, chính là cơ sở khoa học để chủ thể làm CTTT cải tiến, nâng
cao chất lượng của từng loại hình tuyên truyền trước yêu cầu mới.
Tác giả Lương Ngọc Vĩnh trong bài viết “Nâng cao chất lượng công
tác tuyên truyền của Đảng trong thời kỳ mới”, Tạp chí BCV, số 07, tháng
7/2015, cho rằng, bước vào thời kỳ đổi mới, công tác TTM có nhiều thuận lợi
nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Tuyên truyền đang phải cạnh
tranh với hoạt động quảng cáo, giải trí, các hoạt động truyền đạo của các tôn
giáo lớn, phải trực tiếp đấu tranh chống các hoạt động phản tuyên truyền của
các thế lực thù địch, trong điều kiện đời sống tinh thần của xã hội đang ngày
càng đa dạng, phức tạp. Tác giả đưa ra năm giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lượng HĐTT của Đảng trong giai đoạn hiện nay.


19
Bàn về chất lượng hoạt động TTM, tác giả Trần Quang Nhiếp trong bài
báo “Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng trong thời kỳ mới”,
Tạp chí BCV, số 07, tháng 7/2013, cho rằng: trước biến đổi nhanh chóng và
phức tạp của tình hình thế giới và trong nước hiện nay, để đáp ứng tốt công
tác TTM trước những yêu cầu mới, BCV cần quan tâm rèn luyện một số lĩnh
vực thuộc về chuyên môn, nghiệp vụ BCV, nâng cao trách nhiệm của BCV,
như: làm chủ nội dung trong công tác TTM; có phương pháp sư phạm, biết
tích cực hóa các quá trình nhận thức của người nghe để cuốn hút họ khi báo
cáo; công tác tổ chức, điều khiển hoạt động trong buổi báo cáo chặt chẽ,
nghiêm túc, khoa học.
Trong cuốn sách “Công tác tư tưởng – văn hóa ở cấp huyện” do TS.
Đào Duy Quát (chủ biên) NxB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, PGS.TS

Lương Khắc Hiếu, cho rằng một trong những kỹ năng quan trọng, chủ yếu
trong nghệ thuật TTM là phải biết lựa chọn ngôn ngữ, văn phong phát biểu
miệng. BCV nên dùng ngôn ngữ phổ thông, dễ hiểu. Người nói phải biết tạo
lập sự chú ý của người nghe. Cần phải sử dụng những yếu tố bất ngờ để tạo ra
câu mới, độc đáo, sử dụng sáng tạo, linh hoạt một số thành ngữ, tục ngữ. Một
yếu tố quan trọng khác để giúp bài nói thu hút được người nghe là các BCV
phải có một đề cương nội dung phát biểu một cách mạch lạc, rõ ràng, logic,
dễ hiểu, kết hợp giữa thuyết trình và đối thoại. Nếu BCV trả lời tốt những câu
hỏi của người nghe sẽ nâng cao uy tín BCV và tăng thêm tính thuyết phục
trong nội dung thuyết trình. Ngược lại, nếu BCV khi đối thoại mà trả lời
không tốt thì người nghe có thể nghi ngờ độ tin cậy của các nội dung BCV đã
đưa ra.
Trong bài viết “Nâng cao tính thuyết phục trong công tác tuyên truyền
miệng hiện nay”, Tạp chí BCV, số 10, tháng 10/2013, tác giả Nguyễn Chí Mỳ,
cho rằng: để nâng cao tính thuyết phục trong công tác TTM hiện nay, người BCV
cần nhận thức sâu sắc các yêu cầu cơ bản của hoạt động TTM; nắm vững mục
đích CTTT, làm chủ nội dung tuyên truyền; nắm và hiểu sâu sắc đối tượng tuyên
truyền; tăng cường đối thoại, nâng cao tính thuyết phục trong công tác TTM.


20
Vẫn là tác giả Nguyễn Chí Mỳ, với bài viết “Một số suy nghĩ về
phương pháp tuyên truyền miệng hiện nay”, Thông tin chuyên đề, số 3/2014,
đã bàn về hiệu quả công tác TTM. Tác giả cho rằng: hiệu quả tuyên truyền
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng quan trọng hơn cả sau nội dung là PPTT.
Từ đó tác giả đã chỉ ra một số vấn đề đang nổi lên trong tình hình hiện nay:
nâng cao năng lực nắm bắt đối tượng và chú ý tới những vấn đề mà đối tượng
quan tâm khi TTM. Quán triệt sâu sắc sự thống nhất giữa lời nói với việc làm
trong PPTT. Tăng cường đối thoại trong TTM. Chuẩn bị chu đáo cho buổi nói
chuyện. Chăm lo đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật; có chính sách

hợp lý để thu hút, động viên các BCV. Để làm tốt công tác TTM, BCV phải
có lòng yêu nghề. Khi BCV đã tâm huyết, yêu nghề, đam mê với công việc thì
phương pháp TTM càng ngày càng được đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng đặt ra.
Tác giả Lương Khắc Hiếu trong bài viết “Phát huy ưu thế tuyên truyền
miệng trong công tác tư tưởng”, Tạp chí BCV, số 08, tháng 8/2013, đã nêu
lên những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy ưu thế của TTM trong công tác
tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Đó là tính định hướng của thông tin TTM; vấn
đề thông tin mang tính nội bộ chỉ có thể cung cấp qua kênh TTM; vấn đề về
tính chiến đấu, tính thuyết phục của TTM; về tính tương tác và khả năng thực
hiện đối thoại của TTM; vấn đề chế độ, chính sách và điều kiện làm việc của
BCV, TTV.
Các nghiên cứu trên là những cơ sở lý luận quan trọng, bổ ích cho tác
giả luận án khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
ĐNBCV.
Về nâng cao chất lượng hoạt động TTM, BCV ở các ngành, địa phương
có các nghiên cứu đáng chú ý sau:
Tổng hợp “Một số kết quả công tác tuyên truyền miệng và hoạt động
báo cáo viên năm 2016; nhiệm vụ trọng tâm năm 2017”, Tạp chí BCV, số 01,
tháng 01 năm 2017, đã đăng báo cáo tổng thể về hoạt động BCV hiện nay. Báo
cáo có đoạn nhận định: Công tác tham mưu về nâng cao hiệu quả công tác


21
TTM, hoạt động BCV ngày càng được chú trọng, bảo đảm chất lượng. Công
tác TTM và hoạt động của ĐNBCV các cấp cơ bản đi vào nền nếp, tích cực
tuyên truyền, đưa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước vào cuộc sống. Phương tiện, vật chất phục vụ công tác TTM được
đầu tư, nâng cấp. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác TTM và hoạt động BCV
năm 2016 còn một số hạn chế, như: Một số cấp ủy chưa thật sự quan tâm, đầu

tư đúng mức cho công tác TTM và hoạt động của ĐNBCV. Việc đôn đốc, kiểm
tra công tác TTM và hoạt động BCV chưa thường xuyên, chất lượng hoạt động
của ĐNBCV còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và
công tác tuyên giáo. Việc lựa chọn nội dung và các chuyên đề chuyên sâu đảm
bảo tính thời sự, tính thiết thực, đáp ứng yêu cầu người nghe chưa khoa học,
chưa có nhiều chuyên đề hay, ấn tượng. Nhiệm vụ trọng tâm năm 2017 của
công tác TTM và hoạt động BCV là tổng kết và tiếp tục quán triệt thực hiện
Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X;
xây dựng kế họạch TTM theo từng tháng, quý, năm, với nội dung phong phú,
đảm bảo tính cân đối về chủ đề và có trọng tâm. Thường xuyên quan tâm, kiểm
tra, đôn đốc, giám sát công tác TTM và hoạt động của BCV, TTV. Tài liệu này
đã giúp cho tác giả luận án có cách nhìn tổng quan về bức tranh hoạt động
BCV khi nghiên cứu đề tài.
Các bài viết trong cuốn Kỷ yếu tọa đàm“Nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
thành phố Hồ Chí Minh”, (2014), của BTG thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh, đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác TTM, hoạt động
BCV tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ. Tọa đàm đã đưa ra 4
nhóm vấn đề sau: nhóm thứ nhất, nhìn nhận, đánh giá thực trạng công tác
TTM và hoạt động BCV của Đảng bộ Thành phố; nhóm thứ hai, đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả TTM, hoạt động BCV của Đảng bộ; nhóm thứ
ba, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đến CTTT và hoạt động
BCV, nhóm thứ tư, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã


22
hội đối với công tác TTM cho các đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị xã hội.
Công tác TTM và hoạt động BCV trong các ngành, các cấp, các đối tượng.
Về hoạt động BCV trong quân đội và công an đã có một số bài viết
đáng chú ý. Tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa trong bài“Tiếp tục đổi mới, nâng

cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác tuyên truyền miệng đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong toàn quân”, Tạp chí BCV, số 10, tháng 10 năm 2017, cho
rằng: Với những đối tượng đặc thù, như: Đồng bào dân tộc ít người; người
dân có đạo, cán bộ, chiến sĩ đóng quân trên các địa bàn chiến lược… các đơn
vị trong quân đội đã chủ động, sáng tạo tổ chức tuyên truyền với nội dung,
hình thức, phương pháp phù hợp với trình độ nhận thức, tập quán, tín ngưỡng
của nhân dân, đưa công TTM đến gần dân, hợp với dân, đạt hiệu quả thiết
thực. Tác giả cũng nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác TTM và hoạt động BCV trong quân đội trong thời gian tới, đó
là: Tiếp tục quán triệt và thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác TTM trong tình hình mới”. Không ngừng đổi mới cơ
chế tiếp nhận, xử lý và cung cấp thông tin theo hướng kịp thời, thiết thực,
hiệu quả. Cấp ủy, chi ủy, cơ quan chính trị các cấp cần quan tâm hơn nữa đối
với ĐNBCV, thông tin viên. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác phối hợp tuyên truyền với nhiệm vụ quốc phòng. Đây là tài liệu
tham khảo thiết thực cho việc nghiên cứu của đề tài.
Tác giả Hồ Bá Vinh trong bài viết “Xây dựng đội ngũ báo cáo viên
quân đội đáp ứng yêu cầu công tác tuyên huấn trong tình hình mới”, Tạp chí
BCV, số 4, tháng 04 năm 2016, đã phân tích: Do đặc điểm, tính chất hoạt động
quân sự và yêu cầu công tác tuyên huấn trong quân đội có tính đặc thù cao,
nên hoạt động TTM cần tập trung một số nội dung sau: Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cấp uỷ, chính uỷ, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính
trị các cấp trong xây dựng ĐNBCV ở đơn vị; thường xuyên kiện toàn, lựa
chọn cán bộ thực sự tiêu biểu về phẩm chất, năng lực và uy tín bố trí làm


23
BCV; duy trì và quản lý tốt chế độ thông báo chính trị và nói chuyện thời sự ở
đơn vị; thường xuyên tổ chức thành nền nếp chế độ hội nghị, hội thi, tập huấn

BCV; quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện; có chế độ chính sách phù
hợp với ĐNBCV.
Cũng về đề tài hoạt động TTM, BCV trong quân đội, tác giả Nguyễn
Văn Tín trong bài viết “Một số bài học kinh nghiệm rút ra sau 10 năm thực
hiện Chỉ thị 17 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tuyên truyền
miệng của quân đội”, Tạp chí BCV, số 8, tháng 8 năm 2017, cho rằng để nâng
cao chất lượng công tác TTM trong quân đội cần nắm vững một số kinh
nghiệm sau: Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các
cấp với công tác TTM. Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức,
phương pháp TTM theo hướng đa dạng hóa, tăng tính thuyết phục, thiết thực,
phù hợp và sát cơ sở, sát đối tượng. Ba là, duy trì nghiêm chế độ công tác
TTM ở đơn vị, nhất là chế độ thông báo chính trị hằng tuần, nói chuyện thời
sự hằng tháng. Bốn là, quan tâm xây dựng ĐNBCV, TTV có chất lượng, tâm
huyết, yêu nghề. Năm là, chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong
toàn quân, cơ quan Trung ương và các cấp ủy, chính quyền địa phương.
Về hoạt động TTM, BCV trong lực lượng công an, tác giả Đào Gia Bảo
với bài viết “Công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên góp phần
giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ
Công an Nhân dân”, Tạp chí BCV, số 09, tháng 9 năm 2017, cho rằng: Công
tác TTM và hoạt động BCV trong Công an Nhân dân đã có bước phát triển
mạnh mẽ, ngày càng đi vào nền nếp, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng… Tác giả đã đề ra một số giải pháp nâng
cao hiệu quả giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán
bộ, chiến sĩ Công an Nhân dân thông qua TTM trong thời gian tới, như: Cấp
ủy, thủ trưởng đơn vị, địa phương các cấp cần nhận thức đầy đủ về vị trí, ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác TTM, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
công tác TTM đi vào nền nếp và hiệu quả. Tiếp tục đổi mới nội dung TTM



24
theo hướng đa dạng, bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đối tượng
tuyên truyền. Đổi mới phương pháp TTM bằng tăng cường đối thoại giữa
BCV với người nghe, khắc phục thông tin một chiều, đơn điệu, khô cứng.
Xây dựng ĐNBCV chuyên trách, có đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
CTTT trong tình hình mới. Đây là tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài
luận án, đưa ra những giải pháp phù hợp cho hoạt động BCV.
Tác giả Lỳ Mí Lử trong bài viết “Hà Giang nâng cao chất lượng hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên và công tác tuyên truyền miệng”, Tạp chí Tư
tưởng - Văn hóa, số 8/2006, đã bàn trực tiếp về chất lượng hoạt động BCV
của một địa phương. Tác giả đã nêu lên được những ưu điểm và hạn chế của
BCV trên địa bàn, từ đó đề ra các giải pháp, như: các cấp ủy tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo công tác TTM về tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động; tạo
điều kiện cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ cho ĐNBCV; tiếp tục củng cố, kiện
toàn ĐNBCV các cấp trên địa bàn; nâng cao chất lượng và duy trì HNBCV
định kỳ hàng tháng, tổ chức HNBCV luân phiên, hội thi BCV giỏi các cấp, tổ
chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, tham quan thực tế; tăng cường công tác
bồi dưỡng nghiệp vụ cho BCV; kiểm tra hoạt động BCV, gắn với việc sơ kết,
tổng kết; tăng cường phối hợp giữa các binh chủng tuyên truyền và các cơ
quan, ban, ngành trong CTTT.
Bàn về chất lượng CTTT, vận động đồng bào có đạo, tác giả Trần Văn
Toán trong bài báo “Công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo
ở Nam Định”, Tạp chí Tuyên giáo, số 10/2009, đã đưa ra những nội dung và
PPTT, vận động đúng và phù hợp với các tầng lớp nhân dân trong công tác
tôn giáo, như: chu đáo, thiết thực, nội dung phong phú, hình thức, đa dạng…
Bài báo đã nêu lên một số kinh nghiệm trong công tác thông tin, tuyên truyền,
vận động đồng bào tôn giáo ở Nam Định, trong đó có công tác TTM.
Về nguyên nhân và hạn chế trong công tác TTM, hoạt động BCV, tác
giả Phạm Hữu Kiên trong bài báo “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền miệng ở Quảng Ninh”, Tạp chí Tuyên giáo, số 01/2013, đã nêu

ra được những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế chất lượng công tác TTM,


×