Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.77 KB, 20 trang )

I. NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ TỘI PHẠM TRONG PHẦN CHUNG
CỦA BLHS NĂM 2015.
Ngày 27-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua
Bộ luật hình sự (BLHS) sửa đổi. Đến ngày 20/06/2017, tại kỳ họp thứ 3,
Quốc hội khóa XIV thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự năm 2015 và Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật hình sự.
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là
BLHS năm 2015),theo đó, Bộ luật gồm 3 phần, 26 chương, 426 điềuso với Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là BLHS
1999),có nhiều điểm mới quan trọng về tội phạm và hình phạt trong phần
chung của BLHS năm 2015, được thể hiện cụ thể như sau.
1. Những điểm mới về khái niệm tội phạm và phân loại tội phạm của
BLHS năm 2015.
- Khái niệm tội phạm, khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “Tội

phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm, so với khái niệm tội phạm của các
Bộ luật Hình sự trước đó thì khái niệm tội phạm trong BLHS năm 2015 đã bổ
sung thêm “quyền con người” vào các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ. Sự bổ sung này là nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013
(Điều 3 và chương II).
Thứ hai, về chủ thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm đã được mở rộng
hơn, bao gồm Con người và pháp nhân thương mại.
Thứ ba, về hậu quả pháp lý của tội phạm: Trong khái niệm tội phạm của


Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định về tính phải bị xử lý hình sự
nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý khi phân tích về tội phạm thì tính phải bị
xử lý hình sự vẫn mặc nhiên được thừa nhận.


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Bởi lẽ, xuất phát từ mỗi quy định về phần các tội phạm trong Bộ luật
Hình sự năm 1999 bao giờ cũng có quy định về hình phạt tương ứng kèm theo
hoặc các biện pháp xử lý hình sự khác. Có nghĩa, chỉ có tội phạm mới “phải
bị xử lý hình sự” hay “phải bị xử lý hình sự” chỉ gắn liền với tội phạm.
Do đó, rõ ràng “phải bị xử lý hình sự” là một dấu hiệu (về hậu quả pháp
lý) của tội phạm và việc Bộ luật Hình sự năm 1999 không khái quát dấu hiệu
này trong khái niệm tội phạm là chưa phản ánh đầy đủ thực tiễn khách quan.
Đây là một điểm hạn chế của Bộ luật Hình sự năm 1999 và khi Bộ luật Hình
sự năm 2015 được ban hành thì các nhà làm luật mới khắc phục hạn chế đó
bằng cách tạo ra cơ sở pháp lý khẳng định tội phạm phải bị xử lý hình sự là
một dấu hiệu của tội phạm nhằm nhấn mạnh tính răn đe, phòng ngừa, giáo
dục, ngăn ngừa tội phạm mới cũng như khẳng định tính tất yếu khách quan
của quy định này.
Đặc điểm này không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như các
đặc điểm trên.Điều 8 BLHS năm 1999 không để cặp dấu hiệu này trong định
nghĩa tội phạm. Hành vi bị coi là tội phạm vi về nội dung, có tỉnh nguy hiểm
cho xã hội và về hình thức, được quy định trong BLHS chứ không phải vì
“phải bị xử lý hình sự”. Ngược lại, hành vi “phải bị xử lý hình sự” vì là tội
phạm. Tuy nhiên, đặc điểm “phải bị xử lý hình sự” cần được coi là dấu hiệu
của tội phạm vì nó được xác định bởi chính những thuộc tính khách quan bên
trong của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới “phải bị xử lý hình sự”;
không có tội phạm thì cũng không có biện pháp “phải bị xử lý hình sự”.
Đây là lý do mà BLHS năm 2015bổ sung đặc điểm “phải bị xử lý hình

sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8.
Nói tội phạm “phải bị xử lý hình sự” có nghĩa là bất cứ ' hành vi phạm
tội nào, do tỉnh nguy hiểm cho xã hội cũng đều bị đe dọa “phải bị xử lý hình
sự”. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc áp dụng và thi hành trong thực tế
hiện pháp xử lý hình sự,_ trong đó có hình phạt và các biện pháp tư pháp có
tính chất bắt buộc tuyệt đối cho mọi trường hợp phạm tội.
Trong thực tế vẫn có trường hợp người phạm tội không phải chịu các
biện pháp này.Đó là những trường hơp được miễn trách nhiệm hình sự, được
miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt... được quy định tại các
điều 29, 59, 62 và 65 của BLHS.
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

2


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Như vậy, so với BLHS năm 1999, khái niệm tội phạm trong BLHS năm
2015 đã có nhiều điểm mới bổ sung theo hướng chặt chẽ, khoa học và phù
hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta.
- Điểm mới về phân loại Tội phạm.
Điều 9.Phân loại tội phạm.
“ 1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại
sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc
phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy

hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do
Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình.
2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ
vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy
định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được
quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.”.
Cách phân loại tội phạm giống như cách phân loại tội phạm trong BLHS
năm 1999. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 diễn đạt dấu hiệu mức cao nhất của
khung hình phạt cụ thể, rõ ràng hơn qua việc thể hiện cả mức cao nhất tối
thiểu và mức cao nhất tối đa.
Ngoài ra, trong khi phân loại BLHS năm 2015 sử dụng thống nhất đầu
hiệu “nguy hiểm cho xã hội” cho tội phạm nói chung cũng như của từng loại
tội phạm và chỉ bổ sung từ xác định mức độ “nguy hiểm cho xã hội” ở mỗi
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

3


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

loại tội phạm (không lớn; lớn, rất lớn và đặc biệt lớn). Trước đó, BLHS năm
1999 sử dụng dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội ở tội phạm nói chung còn sử
dụng dấu hiệu nguy hại cho xã hộikhi phân loại tội phạm.

Khoản 2 của điều luật là nội dung được bổ sung theo BLHS năm 2015.
Việc bổ sung này xuất phát từ quy định có tội phạm do pháp nhân thương mại
thực hiện nên phải có các quy định cho tội phạm này tương ứng với các quy
định cho tội phạm do cá nhân thực hiện.
Bộ BLHS năm 2015 bổ sung quy định về phân loại tội phạm đối với
pháp nhân thương mại cụ thể là tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện
được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 9 và quy định tương ứng đối
với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của BLHS năm 2015.
Bổ sung quy định này có ý nghĩa quan trọng để xác định thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự, thẩm quyền điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng
đối với pháp nhân thương mại phạm tội; ngoài ra việc sửa đổi, bổ sung quy
định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm
nhiều tội có ý nghĩa rất quan trọng trong xét xử.
2. Thu hẹp độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Khoản 2, Điều 12 quy định như sau:
“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171,
173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và
304”
Theo đó người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy
định tại 28 điều luậttrong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm
tỷ lệ 8,91%) thuộc 04 nhóm tội phạm: (1) Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; (2) Các tội xâm phạm sở hữu; (3) Các
tội phạm về ma túy; (4) Các tội xâm phạm an toàn công cộng.
So với BLHS năm 1999, quy định của BLHS năm 2015 giới hạn phạm vi
phải chịu trách nhiệm hình sự của người trong độ tuổi 14 đến dưới 16 tuổi hẹp
hơn, BLHS năm 1999 chỉ giới hạn theo loại tội phạm còn BLHS năm 2015

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

4


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

không chỉ giới hạn theo tội phạm mà còn giới hạn trong phạm vi một số tội
phạm.
3. Trường hợp chuẩn bị phạm tội (Điều 14)
“1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc
tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia
nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy
định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299
của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109,
110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169,
207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách
nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại
Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.”.
So với BLHS năm 1999, Có ba điểm mới rất quan trọng, đó là
Khái niệm được mở rộng về nội hàm “chuẩn bị phạm tội”, theo đó,
“chuẩn bị phạm tội” bao gồm cả hành vi “thành lập, tham gia nhóm tội
phạm”; đồng thời bổ sung quy định loại trừ đối với các trường hợp mà hành
vi chuẩn bị phạm tội cấu thành một tội phạm cụ thể quy định tại Điều 109 (tội
hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), điểm a khoản 2 Điều 113 (tội
khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân) và điểm a khoản 2 Điều 299
(tội khủng bố) của BLHS.
Thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với người có hành vi chuẩn bị phạm

tội, quy định rõ trong 25 tội danh thuộc 04 nhóm tội phạm (các tội xâm phạm
an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
con người; các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm phạm an toàn công
cộng,người có hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đây là một điểm mới của chế định chuẩn bị phạm tội trong Bộ luật.
Trên cơ sở quy định này, lần đầu tiên, BLHS năm 2015 đã quy định một
khung hình phạt riêng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội ngay trong từng
điều luật quy định về các tội danh cụ thể.
Khoản 3 quy định riêng đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải
trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội đối với 02 tội danh: giết
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

5


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

người và cướp tài sản. (bởi đây là những tội đặc biệt nguy hiểm, có tính bạo
lực cao, xâm hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người, cần được
quy định để phòng ngừa, xử lý, ngăn chặn sớm trước khi có thể xảy ra trên
thực tế.
So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 giới hạn phạm vi các hành vi
chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự hẹp hơn và có sự phân biệt
giữa trường hợp chủ thể từ đủ 16 tuổi trở lên với trường hợp chủ thể từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi.
4. Về đồng phạm.
Khoản 4, Điều 17, BLHS năm 2015 bổ sung quy định xác định trách
nhiệm hình sự cụ thể trong trường hợp vượt quá của người thực hành, quy
định “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt
quá của người thực hành”.

Quy định này thể hiện nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng
thực hiện vụ đồng phạm. Trong vụ đồng phạm, mỗi người đồng phạm tuy
phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm nhưng do trách nhiệm hình sự là
trách nhiệm cá nhân nên việc xác định trách nhiệm hình sự cho từng người
đồng phạm vẫn phải dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi người.
Do đó, mỗi người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi
vượt quá của người đồng phạm khác. Trong đó hành vi vượt quá của người
đồng phạm được hiểu là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người
đồng phạm và hành vi này có thể cấu thành tội phạm khác hoặc thỏa mãn dấu
hiệu định khung hình phạt tăng nặng.
5. Về không tố giác tội phạm
Điều 19. Không tố giác tội phạm
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột,
vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định
tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
3. Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các
tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

6


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang
thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào
chữa”.

Điểm mới đó là mở rộng đối vớingười không tố giác là ông, bà, cha, mẹ,
con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội về phải chịu
trách nhiệm hình sự là là các tội phạm tại chương XIII và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, theo quy định của BLHS năm 1999 thì chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm an ninh quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại Điều 313.
Mở rộng phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người bào chữa về hành
vi không tố giác thân chủ, việc BLHS năm 2017 quy định người bào chữa
phải chịu trách nhiệm hình sự nếu “không tố giác các tội quy định tại Chương
XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính
người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà
người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa”, tức theo quy định này thì
hành vi không tố giác thân chủ của người bào chữa đã mở rộng hơn so
với BLHS 2015, không chỉ còn bó hẹp đối với việc không tố giác những tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 389.
BLHS năm 2017 quy định rõ việc chịu trách nhiệm hình sự của người
bào chữa trong trường hợp không tố giác tội phạm như trên là hoàn toàn phù
hợp, đảm bảo được nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và đáp ứng đầy đủ
hơn, hiệu quả hơn cho công tác đấu tranh, phòng ngừa và chống các tội phạm
xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác.
Bởi thiết nghĩ thì chế định bào chữa trong luật hình sự là nhằm hướng tới
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội, nhưng nếu vì bảo
vệ quyền lợi của người phạm tội mà cố tình không tố giác những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng khác thì hệ quả của nó vô cùng lớn.
5. Về loại trừ trách nhiệm hình sự
Được quy định thành một chương, Chương IV, gồm có 07 điều luật, theo
đó BLHS năm 2017 bổ sung có 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Đây là chương mới được xây dựng tập hợp 4 điều luật đã có trong BLHS năm
1999 và 03 điều luật mới được bổ sung là 03 điều luật có cùng tính chất với
trường hợp phòng vệ chính đáng và trường hợp tình thế cấp thiết.

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

7


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

- “Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà
không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại
cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần
thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Lần đầu tiên pháp luật hình sự nước ta ghi nhận về hành vi gây thiệt hại
trong khi bắt giữ người phạm tội là trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình
sự. Việc ghi nhận này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xét xử, thể hiện tính
nhân đạo của pháp luật hình sự.
Việc bắt người phạm tội với mục đích bắt là để chuyển giao các đối
tượng này cho cơ quan có thẩm quyền xử lý, đồng thời để người đó không
tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc bỏ trốn sự truy nã của cơ quan tiến hành tố
tụng. Việc thực hiện hành vi gây thiệt hại là biện pháp bất đắc dĩ, cuối cùng,
duy nhất, không còn cách nào khác ngoài việc dùng vũ lực gây thiệt hại cho
người bị bắt giữ.
Nếu không tiến hành ngay tức khắc, người đó sẽ chống trả, bỏ trốn hoặc
tiếp tục gây thiệt hại nghiêm trọng. Người thực hiện hành vi trong khi bắt
người phạm tội với trạng thái tâm lý là lỗi cố ý, nhằm mục đích ngăn ngừa
việc tiếp tục phạm tội hoặc tẩu thoát.
Việc thực hiện hành vi bắt người phải là hành vi hợp pháp, có căn cứ
pháp lý như: Người bị bắt giữ đang thực hiện hành vi phạm tội quả tang, đang
trốn tránh sự truy nã của cơ quan điều tra, có dấu hiệu thực tế chống trả… và

người bắt giữ đã tiến hành các biện pháp khác, nhưng không còn cách nào
khác là dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt.
- Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ (Điều 25).
“Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử
nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân
thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì
không phải là tội phạm.

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

8


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy
đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình
sự”.
Lần đầu tiên pháp luật hình sự nước ta ghi nhận về hành vi gây thiệt hại
do rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ: Người gây ra thiệt hại trong việc thực hiện hành vi khi thực hiện
việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp
phòng ngừa, cân nhắc cẩn thận, so sánh ý nghĩa, mục đích đặt ra với hậu quả
rủi ro, không mong muốn xảy ra, hậu quả xảy ra phải nhỏ hơn, không đáng kể
với mục đích nghiên cứu đạt được, nghiên cứu, thử nghiệm đó phải đem lại
lợi ích lớn cho xã hội, cộng đồng thì không phải là tội phạm.
Người nào không tuân thủ các quy trình, biện pháp phòng ngừa, gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự thì phải chịu TNHS.

Cơ sở cho phép trong trường hợp này phải có một trong các hoạt động
sau: Nghiên cứu; Thử nghiệm; Áp dung tiến bộ khoa học, kĩ thuật, công nghệ
Mục đích của các hoạt động trên đây là nhằm đem lại lợi ích chung cho
xã hội. Hành vi gây thiệt hại về tài sản, về kinh tế hoặc cũng có thể về thể
chất khi thực hiện hoạt động trên được coi không phải là tội phạm khi:
Các quy trình, quy phạm có liên quan đến hoạt động đã được tiến hành
được tuân thủ đúng và các biện pháp phòng ngừa trong điều kiện chung cho
phép được áp dụng đầy đủ. Chủ thể đã cố gắng hạn chế thấp nhất những thiệt
hại hoặc rủi ro mà có thể lường thấy được, đã tiến hành các biện pháp cần
thiết nhất để ngăn ngừa thiệt hại có thể xảy ra và thiệt hại, rủi ro xảy ra nằm
ngoài mong muốn của chủ thể.
Hai điều kiện trên đây thể hiện tính tuân thủ pháp luật cũng như sự thận
trong của chủ thê trong việc cân nhắc các khả năng có thể xảy ra, lường trước
các khả năng xâu để chuẩn bị các hiện pháp phòng ngừa cũng như hiện pháp
xử lý khi xảy ra
Hành vi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học,
kỹ thuật và công nghệ phải nhằm đạt được mục đích duy nhất là đem lại lợi
ích cho xã hội và mục đích này đã không thể đạt được, gây ra sự rủi ro với

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

9


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

chính việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ.
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. (Điều 26)
“Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của

người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo
cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành
mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này
người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này”.
Là chế định mới thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự
Việt Nam: Hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự có dấu hiệu nào đó bị
pháp luật hình sự cấm trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc
của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh
nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình
sự.Hành vi gây thiệt hại trong việc chấp hành chỉ thị là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, bị pháp luật hình sự cấm, do chủ thể thi hành mệnh lệnh của người chỉ
huy hoặc của cấp trên gây ra.
Người thi hành mệnh lệnh gây thiệt hại với lỗi cố ý, do bắt buộc phải thi
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên.Người này đã làm hết
trách nhiệm, quy trình báo cáo, nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp
hành mệnh lệnh đó. Đây là mối quan hệ ràng buộc của người ra chỉ thị với
người thực hành chỉ thị. Người thi hành mệnh lệnh chỉ thị của cấp trên không
phải chịu trách nhiệm hình sự, mà người ra chỉ thị, mệnh lệnh sẽ phải chịu
trách nhiệm hình sự về việc ra mệnh lệnh.
6.Bổ sung đối với trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự.

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015


10


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Khoản 4, Điều 28, BLHS năm 2015 bổ sung với Tội tham ô tài sản thuộc
trường hợp quy định tại khoản 4 điều 353 của Bộ luật hình sự; tội nhận hối lộ
thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 điều 354 BLHS.
Tham nhũng ở Việt Nam hiện nay ngày càng có xu hướng lan rộng,
nghiêm trọng và phức tạp gây hậu quả và tác hại vô cùng lớn đối với xã hội.
Việc BLHS năm 2015 đưa tội tham ô và nhận hối lộ vào trường hợp không
được hưởng áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là cần thiết, thể
hiện sự quyết tâm cao của Nhà nước trong đấu tranh không khoan nhượng đối
với loại tội phạm này.
7. Điểm mới về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (TNHS).
Cơ sở của miễn TNHS cũng xuất phát từ cơ sở của TNHS, tức là hành vi
phạm tội của người phạm tội, song do có những điều kiện mà luật định để có
thể được miễn TNHS nên người phạm tội trong trường hợp đó được miễn
TNHS. Như vậy, miễn TNHS chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội.
Không thể miễn TNHS đối với người không phạm tội hoặc không đủ căn cứ
để xác định được hành vi của người đó là hành vi phạm tội, tại Điều 29 BLHS
năm 2015, các căn cứ miễn TNHS được quy định như sau:
“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong
những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính
sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một
trong các căn cứ sau đây

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình
mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm
nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả
của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và
xã hội thừa nhận.
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

11


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm
trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc
tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người
bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể
được miễn trách nhiệm hình sự.”
So với BLHS năm 1999, thì căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy
định của BLHS năm 2015 có những điểm mới như sau.
Thứ nhất, đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự: Người phạm tội được
miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ: Khi tiến hành điều
tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành
vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội; Khi có quyết định đại xá.
Thứ hai, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi thỏa
mãn một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 29 BLHS 2015: Khi tiến
hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử,

người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy
hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu
quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được
Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Ngoài ra, BLHS 2015 đã bổ sung thêm một căn cứ mới để có thể được
miễn trách nhiệm hình sự, nếu người phạm tội đáp ứng đầy đủ các điều kiện
tại khoản 3 Điều 29: “…Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội
phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại
diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình
sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”
Qua thực tiễn áp dụng, chế định miễn TNHS đã được sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện hơn. Trong BLHS 1999, chế định miễn TNHS được ghi nhận tại
các Điều 19, 25, 69, 80, 289, 290 và 314. Theo đó, quy định về miễn trách
nhiệm hình bao gồm hai loại: quy định có tính chất bắt buộc, tức là dứt khoát
“được miễn TNHS” và quy định có tính chất tuỳ nghi, tức là “có thể được
miễn TNHS”.
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

12


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Với quy định có tính chất bắt buộc thì khi gặp những trường hợp phù
hợp với nội dung của điều luật, cơ quan có thẩm quyền phải miễn TNHS cho
người phạm tội.
Với quy định có tính chất tuỳ nghi thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào
từng trường hợp cụ thể mà đánh giá tính chất, mức độ của sự việc và đi đến

quyết định miễn TNHS hoặc không miễn TNHS cho người phạm tội.Miễn
trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 2015 mở rộng phạm vi miễn TNHS để
hạn chế đến mức thấp nhất việc xử lý bằng biện pháp hình sự đối với người
phạm tội, đồng thời thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật nước ta.
7. Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Trong thời gian qua, bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu đạt
được thì sự vận động nội tại của kinh tế thị trường đã phát sinh những mặt
trái, trong đó là tình hình và tỷ lệ tội phạm gia tăng cả về số lượng lẫn mức
độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nổi lên là một số
loại tội phạm do pháp nhân thực hiện như tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, tội
phạm môi trường... để lại những hậu quả xấu, gây thiệt hại rất nghiệm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng cho môi trường sống của người dân nói riêng và sự
phát triển ổn định trật tự - an ninh của đất nước nói chung nhưng chưa được
quy định trong BLHS như là một tội phạm.
Trong nền kinh tế thị trường không ít tổ chức kinh tế - pháp nhân thương
mại, vì chạy theo lợi nhuận cục bộ đã có sự thông đồng thực hiện nhiều hành
vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế như
trốn thuế, kinh doanh trái phép, đầu cơ, buôn lậu hoặc vì lợi ích cục bộ đã
không thực hiện các biện pháp mà pháp luật đòi hỏi để bảo vệ môi trường,
gây hậu quả nghiêm trọng. Việc núp bóng dưới danh nghĩa pháp nhân để
phạm tội ngày càng tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao.
Các hành vi vi phạm pháp luật mang tính chất tội phạm do pháp nhân
thương mại thực hiện trong thời gian qua diễn ra ngày càng tăng như buôn
lậu, gian lận thương mại, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; tội phạm
trong các lĩnh vực chứng khoán, môi trường, tài nguyên,… Đa số những
trường hợp trên là do cơ quan lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân thương
mại thực hiện vì lợi ích của pháp nhân đó hoặc trong khuôn khổ hoạt động
của pháp nhân thương mại với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt,
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015


13


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

có tổ chức cao và có những trường hợp mang tính quốc tế, gây thiệt hại
nghiêm trọng cho kinh tế - xã hội và cho đời sống của người dân, đòi hỏi cần
phải có giải pháp mạnh để phòng ngừa và đấu tranh.
Thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian qua đã cho thấy, cơ chế xử phạt vi
phạm hành chính và bồi thường thiệt hại áp dụng đối với pháp nhân thương
mại vi phạm tỏ ra bất cập, kém hiệu quả. Mặc dù quy trình xử phạt vi phạm
hành chính có ưu điểm là nhanh, kịp thời nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp,
minh bạch và không giải quyết được triệt để quyền lợi của người dân bị thiệt
hại mà họ phải tự chứng minh thiệt hại để yêu cầu bồi thường. Hơn nữa, cơ
quan có thẩm quyền xử phạt hành chính không có đội ngũ cán bộ chuyên
trách để điều tra, chứng minh vi phạm cũng như hậu quả của vi phạm.
Mặt khác, trong điều kiện chúng ta đang triển khai thi hành Hiến pháp
năm 2013 và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua năm
2014 đã có nhiều đổi mới theo hướng mở rộng quyền cho các doanh nghiệp,
mà theo đó, nhiều quyết định quan trọng của pháp nhân thương mại do tập thể
Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị hoặc Đại hội cổ đông thông qua. Vì
vậy, nếu trong trường hợp này chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá
nhân thì sẽ không công bằng.
Mặt khác, Việt Nam đã ký kết Công ước Liên Hiệp Quốc về phòng,
chống tội phạm xuyên quốc gia, theo Công ước này, yêu cầu tất cả quốc gia
thành viên áp dụng những biện pháp cần thiết để xác định trách nhiệm pháp lý
của pháp nhân trong việc tham gia vào các nhóm tội phạm nghiêm trọng…
gồm hành vi tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức, rửa tiền, cản trở công
lý. Trách nhiệm pháp lý ở đây có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hay hành

chính. Tuy nhiên, hầu hết các hành vi mà Công ước yêu cầu lại không được
coi là vi phạm hành chính theo pháp luật Việt Nam nên không thể buộc tổ
chức chịu trách nhiệm hành chính đối với hầu hết tội phạm nà.
Do vậy, Nhà nước ta đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại
Chương XI BLHS năm 2015. Tuy nhiên, việc quy định trách nhiệm hình sự
của pháp nhân mới chỉ tập chung vào pháp nhân thương mại và đối với hai
nhóm tội là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về môi
trường.
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

14


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

*. Về Hình phạt: Đối với pháp nhân thương mại phạm tội có hình phạt
chính và hình phạt bổ sung.
Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một
số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là
hình phạt chính.
- Về nguyên tắc áp dụng hình phạt: đối với mỗi tội phạm mà người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể
bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
*. Về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự: pháp nhân thương mại chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: Hành vi phạm tội
được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; Hành vi phạm tội được thực
hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;Hành vi phạm tội được thực hiện có
sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; Chưa hết

thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều
27 của Bộ luật hình sự.
Khi truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân cần chú ý quy định tại
khoản 2 Điều 75 Bộ luật hình sự "Việc pháp nhân thương mại chịu trách
nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân".
*. Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự: Điều 76 quy định pháp nhân
thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội phạm, trong đó có 22
tội thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và 09 tội thuộc nhóm
các tội phạm về môi trường.
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế quy định tại:
Điều 188 (tội buôn lậu);
Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới);
Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm);
Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả);
Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ
gia thực phẩm);

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

15


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc
phòng bệnh);
Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi);
Điều 196 (tội đầu cơ);

Điều 200 (tội trốn thuế);
Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ);
Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin
trong hoạt động chứng khoán);
Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán);
Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận
trong kinh doanh bảo hiểm);
Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động);
Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh);
Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp);
Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác
tài nguyên);
Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng);
Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã);
Các tội phạm về môi trường quy định tại:
Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường);
Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi
trường);
Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê
điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông);
Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam);
Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản);
Điều 243 (tội huỷ hoại rừng);
Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp,
quý, hiếm);
Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên);
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015


16


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại).
II. NHỮNG ĐIỂM MỚI QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TRONG
BLHS NĂM 2015
1. Bổ sung khái niệm, mục đích hình phạt.
“Điều 30. Khái niệm hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
của người, pháp nhân thương mại đó”.
Điều 31. Mục đích của hình phạt
“Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại
phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương
mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
So với BLHS năm 1999, khái niệm, mục đích của hình phạt có bổ sung
thêm đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, bổ sung này nhằm
cụ thể hóa quy định về pháp nhân thương mại phạm tội đã được quy định
trong BLHS năm 2015.
2. Mở rộng phạm vi phạt tiền là hình phạt chính
So với BLHS năm 1999, quy định về phạt tiền là hình phạt chính tại điều
35, BLHS năm 2015 quy định đối với các tội phạm cụ thể được mở rất rộng
không chỉ đối với tội ít nghiêm trọng mà còn đối với tội phạm nghiêm trọng
và không có sự giới hạn phạm vi các nhóm tội có thể áp dụng hình phạt tiền là
hình phạt chính.
“ Điều 35. Phạt tiền

1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau
đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật
này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do
Bộ luật này quy định”.

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

17


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Không có quy định tại khoản 4, điều 30, BLHS năm 1999 “Tiền phạt có
thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án quyết định
trong bản án.” Là để đảm bảo thi hành án.
3. Điểm mới về hình phạt cải tạo không giam giữ.
Khoản 4, Điều 36, BLHS năm 2015 quy định:
“Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm
hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực
hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo
không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày
và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ
có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh
hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ

quy định tại Luật Thi hành án hình sự”.
Đây là nội dung mới so với BLHS năm 1999, người bị kết án phải thực
hiện công việc 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần,
quy định này là cần thiết đẻ đảm bảo cho người bị áp dụng hình phạt này thể
hiện việc tự cải tạo qua sự lao động của chính mình, tuy nhiên vì lý do nhân
đạoáp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm
nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
4. Thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù
Khoản 2, Điều 38 quy định “Không áp dụng hình phạt tù có hạn đối với
người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng”
Như vậy xác định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.
Trong trường hợp 02 điều kiện trên đây đều thỏa mãn, Tòa án thông được áp
dụng hình phạt tù có thời hạn cho người phạm tội mà phải áp dụng hình phạt
khác nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

18


Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

Đây là nội dung mới so với BLHS năm 1999 là sự cụ thể hóa chính sách
hình sự theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Trước khi BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, có một số
trường hợp là tội vô ý và thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng nhưng khung
hình phạt được quy định chỉ có hình phạt tù có thời hạn như trường hợp được

quy định tại khoản 2 các điều 138, 139, 180 BLHS. Trong trường hợp như
vậy Tòa án sẽ quyết định áp dụng một hình phạt không mang tính giam giữ
đối với người phạm tội (cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ).
5. Thu hẹp phạm đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình.
- Thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình.
Khoản 1, Điều 40 quy định
“Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một
số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.”
Quy định này thu hẹp so với BLHS năm 1999, theo đó BLHS năm 1999
quy định hình phạt tử hình áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng. BLHS năm 2015 hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với 05 nhóm tội
phạm, đó là:
(1) các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
(2) các tội xâm phạm tính mạng con người;
(3) các tội phạm về ma túy;
(4) các tội phạm tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
khác do Bộ luật hình sự quy định (như các tội: sản xuất, buôn bán hàng giả là
thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; khủng bố; phá hoại hòa bình, gây chiến
tranh xâm lược; chống loài người; tội phạm chiến tranh...).
- Mở rộng đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình.
Khoản 2, Điều 40, BLHS năm 2015 quy định các trường hợp không áp
dụng hình phạt tử hình là
“Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm
tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ
75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

19



Hoàng Đình Duyên, Cao học HS và TTHS – Khóa 23

3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau
khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối
lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra,
xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”.
Như vậy mở rộng đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình so với
BLHS năm 1999, theo đó BLHS năm 1999 chỉ có đối tượng là người chưa
thành niên phạm tội; phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi.
BLHS năm 2015 bổ sung quy định không áp dụng hình phạt tử hình và
không thi hành án tử hình đối với người đủ 75 tuổi trở lên. Trường hợp không
thi hành án tử hình thì hình phạt tử hình sẽ được chuyển thành tù chung thân.
Bổ sung quy định không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử
hình về tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ nếu sau khi bị kết án, người đó
đã chủ động giao nộp lại cho Nhà nước ít nhất là 3/4 số tiền, tài sản tham ô,
nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện,
điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (Điểm c khoản 3). Trong trường
hợp này, hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân./.

Những điểm mới về tội phạm và hình phạt trong Phần chung BLHS năm 2015

20




×