Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.46 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


tên đề tài: NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA

CỦA VIỆT NAM
Tiểu luận cuối kỳ
(Môn học: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–
Lênin)

BUỔI: CHIỀU THỨ 5

TIẾT: 7 - 11

NHÓM THỰC HIỆN: PYTHAGORAS 2
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC: 2017-2018
GVHD: ThS. Trần Ngọc Chung

TP.HỒ CHÍ MINH – 12/2017


Họ tên SV thực hiện đề tài:
1. Trương Phúc Thạnh (NT)

- 17126056

2. Đỗ Đình Luân

- 17126032



3. Vũ Thị Ngọc Loan

- 17126031

4. Phạm Thị Minh Thi

- 17126059

5. Trần Thị Tươi

- 17126075

6. Lê Thị Trà My

- 17126036

7. Phạm Hoàng Anh

- 17126004

- SĐT: 01674035721

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Ngọc Chung

ĐIỂM:

NHẬN XÉT CỦA GV:

GV ký tên



MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................2
1. SẢN XUẤT HÀNG HÓA.............................................................................3
1.1. KHÁI NIỆM SẢN XUẤT HÀNG HÓA.................................................................3
1.2. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA...........................................5
1.3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA......................6

2. SỰ PHÁT TRIỂN NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM.............7
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ NƯỚC Ở VIỆT NAM...........7
2.2. THÀNH TỰU NỀN KINH TẾ SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM.............9
2.3. HẠN CHẾ................................................................................................................12

KẾT LUẬN .....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................16

Trang 1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kì phát triển nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã có những
chính sách, đường lối chủ trương để phát triển nền kinh tế quốc dân. Để từ một nước
có nền kinh tế tự cung tự cấp có thể vươn dậy vững chắc hòa nhập với các nước thế
giới đó là một bước ngoặc lớn. Cụ thể ở đây, năm 1976 Việt Nam hoàn toàn thống nhất
nước ta từng bước xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Giai đoạn này, nền kinh tế đã đạt được
nhiều thành tựu nhưng đồng thời cũng gặp những khó khăn và thách thức. Tại đại hội
thứ VI, Đảng và Nhà nước đã có quyết định quan trọng trong việc đổi mới nền kinh tế,
thay thế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bằng nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Và từ

đó, nền sản xuất hàng hóa trở thành nền tảng, động lực thúc đẩy công nghiệp hóa hiện
đại hóa và phát triển bền vững đất nước, giúp nền kinh tế nước ta sánh vai với các
nước trong khu vực và thế giới, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Vì vậy, nhóm chúng em chọn đề tài: “Nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam”
nhằm muốn tìm hiểu sâu hơn về sự ra đời, thực trạng và phương thức phát triển nền
sản xuất hàng hóa hiện nay của nước ta. Bằng kiến thức và sự tìm hiểu trên sách, báo
mạng và các nguồn tài liệu khác chúng em hy vọng bài tiểu luận này sẽ mô tả phần
nào nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.
Chúng em xin chân thành cảm ơn

1.

Trang 2


1. SẢN XUẤT HÀNG HÓA
1.1. KHÁI NIỆM SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị MarxLenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra không
phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi mua bán trên thị
trường.
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi và mua bán. Theo chủ nghĩa MarxLenin thì trong lịch sử loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự
cung, tự cấp (tự túc, tự cấp) và sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ
chức sản xuất kinh tế phân biệt với sản xuất tự cung tự cấp ở thời kỳ đầu của lịch sử
loài người. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm của sự
lao động được tạo ra chỉ để phục vụ trực tiếp và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
bản thân người sản xuất ra chúng cũng như sản xuất của người dân trong thời kỳ công
xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong
kiến... Nhưng do sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng
cao làm cho sản xuất tự cung tự cấp dần dần chuyển hóa thành sản xuất hàng hóa. Sản

xuất hàng hóa đã tồn tại từ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, sau đó là
chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa tồn tại trên cơ
sở của sự trao đổi hàng hóa và là nền tảng cho mọi nền kinh tế. Sản xuất hàng hóa là
kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra để bán chứ không phải là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hoá tạo ra sản phẩm để trao đổi, mua bán đáp ứng nhu cầu của xã
hội nên người sản xuất có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được
nâng lên do tích luỹ kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng
được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt
khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải
thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế được chú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động
của các thành phần kinh tế. Việc trao đổi hàng hoá dựa trên nguyên tắc ngang giá
khiến cho người sản xuất luôn tìm cách tiết kiệm giảm đến mức tối đa những chi phí
Trang 3


cá biệt, giảm giá trị hàng hoá cá biệt để có lợi nhuận khi trao đổi. Trên cơ sở phân
công lao động, sản xuất hàng hoá phát triển. Khi sản xuất hàng hoá phát triển sẽ làm
phân công lao động ngày càng cao hơn, sâu hơn. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị
trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng có hiệu quả hơn và từ đó
ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán, tác
phong cũng thay đổi.
So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn. Cụ
thể như sau:
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn
hóa sản xuất chính vì thế, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật
của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Bên cạnh
đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển
của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng tăng, mối

liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Phá vỡ tính tự
cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất
lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác
được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu
và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi
địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội.
Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ
thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và
trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh... buộc
người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải tiến
hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ xuống đáp
ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu
kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho đời sống
Trang 4


vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn,
đa dạng hơn.
Sản xuất hàng hóa tồn tại trên cơ sở của sự trao đồi hàng hóa nên sản xuất hàng
hóa là nền tảng của mọi nền kinh tế.
1.2. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặc căn bản trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội” , xóa bỏ nền kinh tế
tự nhiên,phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của
xã hội.

Sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại dựa trên hai điều kiện:
Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội.
Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
1.2.1. SỰ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG
Là sự phân chia lao động để sản xuất ra một hay nhiều sản phẩm nào đó mà phải
qua nhiều chi tiết, nhiều công đoạn cần nhiều người thực hiện. Có hai loại phân công
lao động, đó là:
- Thứ nhất, phân công lao động cá biệt là chuyên môn hóa từng công đoạn của
quá trình sản xuất trong từng công ty, xí nghiệp, cơ sở.... Ví dụ sản xuất ra cái bàn thì
cần người cưa, người bào, người đục... Sản phẩm của họ làm ra chỉ nhằm thỏa mãn
trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất. Vì vậy, kiểu sản xuất này được gọi là
sản xuất tự cấp tự túc, do đó sản phẩm của họ làm ra không có tính trao đổi hoặc mua
bán trên thị trường nên chưa được gọi là hàng hóa.
- Thứ hai, phân công lao động xã hội là chuyên môn hóa từng ngành nghề trong
xã hội để tạo ra sản phẩm ví dụ như sản xuất một chiếc xe máy, các chi tiết như lốp xe,
sườn, đèn, điện... mỗi chi tiết phải qua từng công ty chuyên sản xuất chi tiết đó cung
cấp, sau đó mới lắp ráp thành chiếc xe máy. Các sản phẩm này không còn giới hạn ở
nhu cầu sử dụng của người sản xuất mà nó được trao đổi, mua bán, được lưu thông
đến người sử dụng trong xã hội, lúc này sản phẩm đó được gọi là hàng hóa.
- Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ
để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. C.Mác viết: “Trong Công xã Ấn Độ thời cổ đại,
lao động đã có sự phân công xã hội, nhưng sản phẩm lao động không trở thành hàng
Trang 5


hóa … Chỉ có sản phẩm của những lao động tự nhân độc lập và không phụ thuộc vào
nhau mới đối diện với nhau như những hàng hóa” .
Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
1.2.2. SỰ TÁCH BIỆT TƯƠNG ĐỐI VỀ MẶT KINH TẾ GIỮA NHỮNG
NGƯỜI SẢN XUẤT

Là những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với
nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua
bán hàng hoá. Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản
xuất quy định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu
của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản
xuất hàng hoá ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ.
Từ sự phân tích trên, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện
nói trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản
phẩm lao động sẽ không mang hình thái hàng hóa.
1.3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA
+ Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.
• Trong lịch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự
cung, tự cấp (tự túc, tự cấp) và sản xuất hàng hóa.
• Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản
xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản
xuất của người dân trong thời kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông
dân gia trưởng dưới chế độ phong kiến... .
• Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra
để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản
xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao
đổi, mua bán.
+ Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính
xã hội.
• Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm
ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội.
Trang 6


• Lao động của người sản xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì

việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người.
Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội.
 Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của
khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.

2. SỰ PHÁT TRIỂN NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng
sản xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên nền sản xuất hàng
hoá của ta không giống với nền sản xuất hàng hoá của các nước khác trên thế giới với
những đặc trưng tiêu biểu:
Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh
tế hàng hoá kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh tế hàng hoá
phát triển từ thấp đến cao.
Xuất phát từ thực trạng có thể nói là rất tiêu điều của nền kinh tế nước ta: Kết cấu
hạ tầng vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh
nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như không có, đội ngũ nhà doanh nghiệp tầm
cỡ thiếu trầm trọng, bên cạnh đó thì thu nhập của người làm công ăn lương cũng như
của nông dân thấp kém khiến dung lượng hàng hoá trên thị trường có sự thay đổi rất
chậm chạp, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thấp. Từ sự thật không
mấy sáng sủa này, buộc ta phải có chiến lược phát triển để vượt qua thực trạng của nền
kinh tế, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng và nâng cao
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Thứ hai: Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần. Từ thực trạng nền kinh tế hàng hoá kém phát triển do nhiều nhân tố song nhân tố
gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến nôn nóng xoá bỏ
nhanh các thành phần kinh tế, thực chất là xoá bỏ điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế
hàng hoá, làm mất khả năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng
đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu ngành theo hướng phát triển

kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh tế hàng hoá thu hút một số
Trang 7


lượng lớn lao động. Từ đó cơ cấu công - nông nghiệp và dịch vụ sớm hình thành theo
định hướng chuyển dịch kinh tế mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra. Nó đảm bảo cho mọi
người, mọi doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nó còn
làm cho các chủ thể kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và
bình đẳng trước pháp luật.
Thứ ba: Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các
nước trên thế giới.
Trước kia với cơ cấu kinh tế “khép kín” , với tình trạng “bế quan toả cảng” , luẩn
quẩn sau luỹ tre làng nên kinh tế nước ta lâm vào bế tắc, kém phát triển có thể nói là
lạc hậu nhất thế giới. Vì vậy sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã
làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế giới. Do sự
phân bố phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa
các nước từ quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế, đời sống mang tính quốc
tế hoá … dẫn đến nhu cầu khách quan là mở cửa nền kinh tế hàng hoá để đạt được
hiệu quả cao và phát triển với tốc độ nhanh nền kinh tế.
Thứ tư: Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong các
thành phần kinh tế thì kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo do bản chất vốn có và lại
nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên đảm bảo cho các thành phần
kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên vai trò của nó chỉ
được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế
khác, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả
để đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các thành
phần kinh tế.
Nền kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực là làm thay đổi bộ mặt của đất nước

không tránh khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như: phá sản, khủng hoảng,
áp bức bất công, tàn phá môi trường, phân hoá giàu nghèo... Chính vì vậy cần phải có
sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu,
bao cấp nên những công cụ để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế hàng hoá như :
Trang 8


hệ thống ngân hàng, tín dụng … còn thấp kém. Nước ta đang xây dựng pháp luật về
kinh tế nhưng lại chưa đồng bộ, xã hội chưa quen với việc chấp hành luật pháp trong
kinh doanh. Trình độ hiểu biết của Nhà nước về cơ chế thị trường còn nhiều hạn chế,
thiếu tính khoa học, thực tế còn lúng túng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện
đó xu hướng vận động khách quan của nước ta trước mắt và lâu dài là phấn đấu nâng
cao năng lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao trình độ quản lý vĩ mô của
Nhà nước. Từ định hướng đó Đảng đã kiên định chiến lược phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Mà Nhà nước là của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định nhất đảm bảo tính định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Sau hơn mười năm đổi
mới ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể làm vai trò quản lý của Nhà nước được
tăng cường. Bằng các công cụ rất riêng: pháp luật kế hoạch, thiết chế về tài chính, tiền
tệ và những phương tiện vật chất khác. Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích, phát huy
những mặt tích cực của kinh tế hàng hoá, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các
khuyết tật của cơ chế thị trường.
Nhận xét:
Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hoá ở trên có quan hệ mật thiết với nhau
phản ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng vận động nội tại của quá
trình hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay và tương lai.
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế nền kinh tế
hàng hoá (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông

tiền tệ) bắt nguồn từ vai trò định hướng của kinh tế Nhà nước và vai trò quản lý của
Nhà nước ở nước ta. Nhà nước là của dân và vì dân quyết định.
2.2. THÀNH TỰU NỀN KINH TẾ SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
Với những chủ trương chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước đang phát
triển nước ta thành nước kinh tế quốc dân. Từ một đất nước có nền kinh tế tự cung tự
cấp , trải qua bao lần chiến tranh khiến nền kinh tế trở nên chậm phát triển hơn so với
các nước khác. Vì vậy việc quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước vững mạnh
đó là phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa ở Việt Nam. Bắt tay vào xây dựng sản
xuất hàng hóa từ những năm sau chiến tranh từ năm 1975 đến nay, nền kinh tế sản xuất
Trang 9


hàng hóa đã có những thay đổi đáng kể. Về nhiều mặt đạt được những thành tựu lớn
đáng tự hào.
2.2.1. TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC
TRONG KHU VỰC

So sánh quy mô kinh tế (GDP-PPP) trong nền kinh tế toàn cầu giữa Việt Nam và
một số quốc gia và vùng lãnh thổ khu vực Đông Á và Đông Nam Á, giai đoạn 19802014.(1)
2.2.2. TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ SẢN XUẤT HÀNG
HÓA Ở VIỆT NAM
Trong hơn 20 năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng liên tục. Nếu như trong
giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), GDP chỉ tăng trưởng bình quân 3,9%/năm, thì
trong 5 năm tiếp theo (1991-1995) đã nâng lên đạt mức tăng bình quân 8,2%. Trong
giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập
niên 1990 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2001 đến
nay, tốc độ tăng GDP của Việt Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Năm 2003 tăng
Trang 10



7,3% ; 2004 : 7,7% ; 2005 : 8,4% ; 2006 : 8,2% ; 2007 : 8,5% và năm 2008, trong bối
cảnh khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh
tế là 6,2%. Cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế trong nước
của Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2007, tỷ trọng của khu vực
nông-lâm nghiệp thủy sản đã giảm từ 38,7% xuống dưới 20% GDP, nhường chỗ cho
sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,7%, còn
khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và
38,3% năm 2007. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong
cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng, chất lượng sản
phẩm ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, du lịch… .
Nền kinh tế tăng lên chúng ta tin rằng: “đã vượt qua những khó khăn, đang phục
hồi và tiến tới tốc dộ tăng trưởng cao hơn” thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu
tại diễn đàn đối tac phát triển Việt Nam (VDPF) 2013 tổ chức sáng ngày 5/12 ở Hà
Nội
Sơ bộ

Năm

1995

1997

2000

2001

2002


2003

2004

2005

2007

GDP

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100


27,18

25,77

24,53

23,24

23,03

22,54

221,8

20,9

20,9

20,7

28,76

32,08

36,73

38,13

38,49


39,47

40,2

41,0

41,58

40,7

44,06

42,15

38,73

38,63

38,48

37,99

38

38,1

37,53

39,23


2008

Nônglâm-thủy
sản
Công
nghiệp
và xây
dựng
Dịnh vụ

Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có nhiều
bước tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và vùng lãnh thổ, góp
phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất
Trang 11


nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm (xem
bảng). Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi
tăng từ 19,3% (năm 2000) lên đến 21,6% (năm 2004) và 27,4% (năm 2008); còn tỷ
trọng trong trồng trọt lại giảm từ 78,2% (năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003),
nhưng tăng nhẹ tới 76,3% (năm 2004) và 70,5% (năm 2008). Điều đó thể hiện, nông
nghiệp của nước ta đã từng bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt
diện tích trồng lúa giảm dần để tăng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao
hơn (như cây công nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu tương..., cây công nghiệp lâu
năm: chè, cao su, hạt tiêu, cây ăn quả...), song vẫn bảo đảm được an ninh lương thực
quốc gia và tăng xuất khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu cây
trồng trong nông nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và có hiệu
quả hơn. Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà
nước, những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng lúa có năng
suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông

Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân. Cơ cấu công nghiệp có sự
chuyển dịch khá, nhất là giai đoạn từ năm 1998 đến nay. Tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng tăng từ 32,08% GDP (năm 1997) lên tới 36,73% (năm 2000) và 30,0% (năm
2008). Trong ngành công nghiệp sự tăng nhanh của tỷ trọng ngành công nghiệp chế
biến (từ 78,7% năm 2000 lên tới 81,23% năm 2004 tính theo giá thực tế) và sự giảm tỷ
trọng của công nghiệp khai thác mỏ (từ 15,7% xuống còn 12,8%), tăng tỷ trọng của
công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước (từ 5,6% lên 5,9%) trong thời kỳ
tương ứng đã phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu đúng hướng. Nếu xét theo tiêu thức
công nghệ, càng thấy rõ hơn xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp
những năm qua là tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phù hợp với
điều kiện thực tế của nước ta. Bởi, các ngành công nghiệp có công nghệ cao ngày càng
được mở rộng và phát triển nhanh, tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có giá trị cao, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một nâng lên ở trong nước và tham gia xuất khẩu, như ôtô, sản phẩm điện tử, tàu thủy ... .
2.3. HẠN CHẾ

Trang 12


2.3.1. SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO GIỮA NHỮNG NGƯỜI SẢN XUẤT
HÀNG HÓA
Trong nền sản xuất hàng hóa, điều kiện sản xuất của từng người không hoàn toàn
giống nhau; khả năng đổi mới kĩ thuật, công nghệ và hợp lý hóa sản xuất khác nhau;
tính năng động và khả năng nắm bắt nhu cầu của thị trường khác nhau, nên giá trị cá
biệt của từng người khác nhau, nhưng quy luật giá trị lại đối xử như nhau, nghĩa là
không có ngoại lệ đối với họ.
Vì vậy không tránh khỏi tình trạng một số người có giá trị hàng hóa cá biệt thấp
hoặc bằng so với giá trị xã hội của hàng hóa nên có lãi, mua sắm thêm tư liệu sản xuất,
đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất. Ngược lại, nhiều người sản xuất khác, do điều kiện
sản xuất không thuận lợi, năng lực quản lí sản xuất, kinh doanh kém, gặp rủi ro nên họ
bị thua lỗ, dẫn đến phá sản. Hiện tượng này dẫn đến sự phân hóa giàu – nghèo.

2.3.2. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng đến môi trường. Nếu chúng ta
đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường thì
chắc chắn không có bất kỳ hoạt động kinh tế nào xảy ra.
Ở Việt Nam, việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường của nước
ta còn nhiều lỏng lẻo, các doanh nghiệp cá nhân còn chưa ý thức được mối quan hệ
giữa sản xuất hàng hóa và vấn đề môi trường. Ví dụ vụ gây ô nhiễm môi trường biển
do công ty Formosa “lộ ra” từ hiện tượng cá chết ngày 6/4/2016 trên vùng biển cảng
Vũng Áng thuộc địa phận thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Hiện tượng thủy sản chết lan trên
diện rộng, bắt đầu từ vùng ven biển Hà Tĩnh, lan tiếp dọc ven biển các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Sự cố này đã gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, xã
hội và môi trưởng, trong đó chịu ảnh hưởng nặng nhất là ngành thủy sản, tiếp đến là
hoạt động kinh doanh, dịch vụ, du lịch và đời sống sinh hoạt của ngư dân. Vì vậy
chúng ta cần làm rõ mối quan hệ này nhằm phần nào góp phần thay đổi nhận thức của
doanh nghiệp, vì chỉ có thay đổi được nhận thức thì mới thay đổi được hành động của
chính bản thân mình.
Trước hết, đây là mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Hoạt động của
doanh nghiệp có những tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề môi trường và ngược
lại môi trường cũng góp phần tạo nên những thuận lợi hay khó khăn trong việc sản
Trang 13


xuất. Đồng thời, chúng ta cũng phải khẳng định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
đều ảnh hưởng đến môi trường. Nếu đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn
không ảnh hưởng đến môi trường thì chắc chắn sẽ không có bất kỳ một hoạt động kinh
tế nào xảy ra. Vấn đề cần quan tâm ở đây là mức độ tác động như thế nào:
- Nguy cơ gây hủy hoại.
- Tàn phá môi trường.
- Khả năng hồi phục của môi trường.
- Sự ảnh hưởng bất lợi so với hiệu quả đem lại.

Các hoạt động của sản xuất hàng hóa đem lại hậu quả:
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh phát triển làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguyên, nhiên, vật liệu
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên
để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra
những ảnh hưởng bất lợi cho môi trường. Bên cạnh đó, với các hệ thống dây chuyền
công nghệ cũ thì việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một
hệ quả tất yếu.
Thứ hai, hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển cũng làm phát sinh nhiều yếu
tố ảnh hưởng tới môi trường, nhất là vấn đề chất thải. Lượng chất thải công nghiệp này
dễ gây suy thoái, ô nhiễm môi trường xung quanh như môi trường đất, môi trường
nước, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của con người.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh trong hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm phát sinh
những vấn đề môi trường thông qua hoạt động nhập khẩu những sản phẩm hàng hóa
không thân thiện với môi trường vào Việt Nam, trong đó có thể là những chất thải độc
hại.

Trang 14


KẾT LUẬN
Theo tiến trình lịch sử, chúng ta thấy trao đổi sản phẩm với tư cách là hàng hóa
xuất hiện trước sản xuất hàng hóa Lê nin đã từng nhấn mạnh, trao đồi hàng hóa phải
có trước sản xuất hàng hóa và là một trong những điều kiện để sản xuất ra hàng hóa.
Trao đổi hàng hóa ban đầu chỉ mang tính ngẫu nhiên, tạm thời nhưng dần về sau trao
đổi đã trở thành mục đích sản xuất và nền sản xuất hàng hóa ra đời. Sản xuất hàng hóa
thay thế cho sản xuất tự cung, tự cấp, năng suất lao động được tăng lên, cải tạo ra,
trình độ lao động cũng dần tăng và đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng
ngày càng cao hơn. Với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, thì sự giao lưu kinh tế
giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước… cũng càng được mở rộng không chỉ

làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
Việt Nam hiện nay trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội đó là một thời kỳ
phức tạp và đầy biến động, một thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng chủ nghĩa xã
hội để hoàn thành cách mạng dân dân chủ. Với điểm xuất phát thấp, điều kiện kinh tế
khó khăn và có nhiều trở ngại. Muốn phát triển kinh tế bền vững ta thực hiện nền kinh
tế hàng hoá là một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là
một tất yếu và cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần đã xuất hiện nhiều khó khăn, phức tạp và đã tác động đến mặt xã hội
nói chung cho nên việc xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa ở nước ta là một
quá trình vừa có tính cấp bách lại vừa có tính chiến lược lâu dài. Trong từng bước đi
của quá trình vừa có những khó khăn do sự xuất phát thấp của nền kinh tế nhưng lại có
những thuận lợi nhất định cần được khai thác: đó là nguồn lao động dồi dào, môi
trường và con người Việt Nam năng động, có khả năng tiếp cận cơ chế thị trường
nhân, ta lại nằm trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương; vùng trung tâm của nền văn
minh loài người đang được di chuyển đến, vùng kinh tế năng động nhất hiện nay.
Chính vì thế ngay từ buổi đầu của chính sách đổi mới kinh tế ta đã xác định ngay việc
đổi mới phải theo hướng có lợi cho sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa.

---HẾT--Trang 15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lênin (tái bản), Hội đồng Trung ương
chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005.
2. Kinh tế Chính trị Mác – Lênin (in lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Vũ Anh
Tuấn, Phạm Quang Phân, Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp, thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2007.
3. 100 câu hỏi và bài tập kinh tế chính trị Mác – Lênin (tái bản lần thứ 5), An

Như Hải, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2008.
4. Chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Chủ biên: Lê Thế Lạng, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004 (tái bản có bổ sung, sửa chữa).
5. Đặc điểm nền kinh tế hiện nay,
< .
6. Cơ cấu kinh tế Việt Nam, Bảng cơ cấu GDP theo ngành kinh tế qua các năm
(1995-sơ bộ 2008). < cau-nganh- kinhte- viet-nam.htm> .
7. Việt Nam lần đầu tiên tổ chức Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam,
< />%20Information/Economic/Trang/Vietnam-was- first-organized-forum- DevelopmentPartners- Vietnam.aspx> .

Trang 16



×