Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp xã theo luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 từ thực tiễn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.6 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ CẨM NANG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP XÃ THEO LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ CẨM NANG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP XÃ THEO LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN GIANG

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Nguyễn Thị Cẩm Nang, xin cam đoan Luận văn này là kết quả của
quá trình tổng hợp và nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương. Những vấn đề về thực trạng
và các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, chính xác và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Người viết cam đoan

Nguyễn Thị Cẩm Nang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ THEO LUẬT
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015 ................................ 8
1.1. Hội đồng nhân dân cấp xã trong cơ cấu bộ máy nhà nước Việt Nam ......... 8
1.2. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 ..................................................................14
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp xã theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ..........................22
Tiểu kết Chương 1 ..............................................................................................27
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ THEO LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015 TẠI TỈNH AN GIANG .......................................29
2.1. Những yếu tố đặc thù của tỉnh An Giang có ảnh hưởng tới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp xã .................................................................29
2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tỉnh An

Giang theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 .........................37
2.3. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
tỉnh An Giang theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ............49
Tiểu kết Chương 2 ..............................................................................................54
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ THEO LUẬT TỔ CHỨC
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN
GIANG ................................................................................................................55
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 từ thực tiễn tỉnh An
Giang.................................................................................................................55


3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 từ thực tiễn tỉnh An
Giang.................................................................................................................58
Tiểu kết Chương 3 ..............................................................................................73
KẾT LUẬN .........................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBMTTQVN

: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


UBND

: Uỷ ban nhân dân

VP

: Văn phòng

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Hình 2.1. Sơ đồ hệ thống chính trị tỉnh An Giang .............................................. 33
Bảng 2.1. Đơn vị hành chính thuộc tỉnh An Giang ............................................. 38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã, phường, thị trấn được gọi chung là cấp xã – là cấp chính quyền địa
phương thấp nhất ở cơ sở trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thì Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan
quyền lực nhà nước tại địa phương, bao gồm các đại biểu do nhân dân trong xã
trực tiếp bầu ra đại diện cho nhân dân toàn xã, có toàn quyền quyết định các vấn
đề kinh tế - xã hội tại địa phương theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm
trước nhân dân trong xã và chính quyền nhà nước cấp trên.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta
chú trọng đến việc xây dựng và củng cố chính quyền địa phương. Chính vì vậy,
tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân được quy định tại Sắc lệnh số

63/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22/11/1945. Đây là văn bản pháp luật
đầu tiên khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Hội đồng nhân dân trong bộ
máy nhà nước, trong đó có quy định về nội dung hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã. Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều Nghị định, Nghị quyết, Hiến pháp
được ban hành nhằm xây dựng, điều chỉnh và củng cố tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương. Và gần đây nhất Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 nhằm điều chỉnh các vấn đề về đơn vị hành
chính, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành
chính, phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương, nhằm không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn về tổ chức
bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương.
Và trong luật này đã cụ thể hóa hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Tỉnh An Giang là tỉnh có dân số đông nhất ở các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long và có tốc độ đô thị hóa cao, tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội khá
lớn. An Giang gồm có 11 huyện, thị xã, thành phố (thành phố Long Xuyên,
thành phố Châu Đốc, thị xã Tân Châu và 08 huyện), 156 đơn vị hành chính cấp
1


xã (21 phường, 16 thị trấn, 119 xã). Trải qua thực tiễn hoạt động, vị trí, vai trò
của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp xã nói riêng trên địa
bàn tỉnh An Giang trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước của tỉnh ngày càng
được khẳng định. Từ sau khi ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015, Hội đồng nhân dân cấp xã của tỉnh An Giang những năm qua đã đạt
được những thành công nhất định như ban hành các cơ chế cải cách hành chính,
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, ban hành những
chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế trên địa bàn xã, quản lý hiệu quả thu,
chi ngân sách nhà nước…
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế của Hội đồng nhân dân cấp xã của tỉnh
An Giang còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra

và yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, hạn chế trong khâu tổ chức và hoạt
động, chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã chưa phản ánh rõ nét
qua các kỳ họp, năng lực trình độ nhận thức của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã chưa xứng tầm với yêu cầu của kinh tế thị trường và nguyện vọng của cử tri,
hoạt động giám sát chưa toàn diện, việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các kết luận
sau giám sát của Hội đồng nhân dân xã chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao;
chất lượng thảo luận của một số đại biểu chưa cao, chất vấn tại các kỳ họp chưa
nhiều…
Với những tồn tại, hạn chế như trên, việc nghiên cứu thực trạng trong công
tác tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã của tỉnh An Giang ngày
càng cần thiết để tìm ra những tồn tại và nguyên nhân tồn tại để có giải pháp thích
hợp nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương cấp
xã mà cụ thể là Hội đồng nhân dân cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang theo quy
định mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả quyết định thực hiện đề tài: “Tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 từ thực tiễn tỉnh An Giang” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây đã có nhiều cuốn sách, luận văn, bài viết và
một số đề tài khoa học đề cập thực trạng và các giải pháp liên quan đến hoạt
động của HĐND nhưng có ít nghiên cứu liên quan đến HĐND cấp xã. Có thể
nêu một số công trình điển hình sau.
- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt
Nam” do PGS, TS. Lê Minh Thông, PGS, TS. Nguyễn Như Phát đồng chủ biên,
Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2012. Trong công trình này, các tác giả đã đề cập
nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn về chính quyền ở Việt Nam trong đó có chương IV
bàn tập trung về tổ chức chính quyền cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay.

- “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Tư pháp Hà Nội,
2014. Trong tác phẩm này tác giả tập trung phân tích và kiến nghị về mô hình tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong đó đặc biệt chú ý đến mô
hình của Hội đồng nhân dân cấp xã.
- “Tìm hiểu quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương” do TS. Nguyễn Hải Long chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia –
Sự thật Hà nội, 2016. Trong tác phẩm này tác giả đề cập những cơ sở pháp lý căn
bản về vị trí và vai trò của chính quyền địa phương, lịch sử hình thành và phát
triển của chính quyền địa phương ở Việt Nam qua các giai đoạn.
- Nghiên cứu của Trần Thị Tiểu Quyên (2012), “Tổ chức và hoạt động
của chính quyền xã từ thực tiễn tỉnh Tây Nguyên”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Học viện Khoa học Xã hội. Trong luận văn này, tác giả đã hệ thống lý luận về
cấp chính quyền xã bao gồm HĐND, UBND. Tác giả cũng đi vào phân tích hiệu
quả bộ máy chính quyền xã tại các tỉnh Tây Nguyên và đưa ra những nguyên
nhân còn tồn tại như trình độ của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã còn yếu,
cách thức hoạt động còn mang nặng tính hình thức, cách thức quản lý còn mang
nặng tính chủ quan, Hội đồng nhân dân chưa thực sự trở thành cơ quan đại diện
3


của nhân dân…Luận văn cũng đưa ra những giải pháp khắc phục như đổi mới
quan điểm nhận thức mới cho các cán bộ cấp chính quyền xã, đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền xã, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường công tác bồi dưỡng cán bộ cấp xã, tăng cường công tác quản lý cán bộ.
- Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc (2015), “Tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã - qua thực tiễn tại tỉnh Kiên Giang”. Luận văn thạc sĩ
ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Luận văn đi sâu phân tích thực
trạng công tác tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tỉnh Kiên
Giang trên tinh thần Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, kết quả phân

tích cho thấy những hạn chế trong công tác tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp xã tỉnh Kiên Giang thông qua phân tích hoạt động các kỳ họp Hội
đồng nhân dân cấp xã, hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã,
hoạt động đại biểu của HĐND cấp xã và hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp xã. Luận văn cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND cấp xã gồm có hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới khâu tổ
chức và nâng cao năng lực làm việc của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trước đây đều liên quan đến bộ
máy tổ chức nhà nước là Hội đồng nhân nhân và có những phân tích thực tế theo
điều kiện từng địa phương và đưa ra giải pháp thiết thực. Tuy nhiên, tất cả các
bài nghiên cứu cũng như các công trình đã được công bố đều dưới dạng công
trình định hướng nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn hoặc ở một vài khía cạnh
liên quan đến tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, chưa có một công
trình nghiên cứu thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
trên địa bàn tỉnh An Giang trước và sau khi có Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015. Vì vậy, tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm phân tích,
đánh giá những bất cập trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
xã tại tỉnh An Giang hiện trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước đây.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề
xuất các giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
xã trên địa bàn tỉnh An Giang trong quá trình triển khai thi hành Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động

của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015.
- Trình bầy, đánh giá thực trạng, xác định những ưu điểm và hạn chế của
thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh An Giang
trong quá trình triển khai thi hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015.
- Xây dựng các quan điểm và đề xuất một số giải pháp tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh An Giang nói riêng, trên
địa bàn cả nước nói chung nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp
xã ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học về cơ quan dân cử nói chung, về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã nói riêng;
- Pháp luật về chính quyền địa phương và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 ở Việt Nam;
- Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước;

5


- Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại một
số tỉnh, thành phố ở Việt Nam theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp xã.
- Phạm vi không gian: Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
xã trên địa bàn tỉnh An Giang (có chú ý nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh,

thành có điều kiện tương đồng với tính An Giang).
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến nay (có chú ý nghiên cứu thực tiễn
pháp luật và kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã tại
tỉnh An Giang trong thời kỳ đổi mới đất nước).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
quyền lực nhân dân, về dân chủ đại diện, về tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp xã trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp điều tra xã hội học …
Luận văn áp dụng cách tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu đối tượng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp phần sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã. Qua đó, góp phần nhận thức rõ hơn về

6


vị trí, vai trò của dân chủ đại diện tại cơ sở cũng như nhu cầu tiếp tục đổi mới bộ
máy nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn xác định các yêu cầu, quan điểm và một số giải pháp có tính
khả thi, có khả năng ứng dụng trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh An Giang nói riêng, trên địa bàn cả nước nói
chung. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, học tập và thực tiễn liên quan đến tổ chức, hoạt động của

bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phần Phụ
lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tại tỉnh An Giang.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp xã theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 từ
thực tiễn tỉnh An Giang.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
THEO LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015
1.1. Hội đồng nhân dân cấp xã trong cơ cấu bộ máy nhà nước Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Hội đồng nhân dân cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm Hội đồng nhân dân cấp xã
Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, cấp chính quyền địa phương ở cơ sở
góp một vai trò quan trọng, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và nhà nước, trực
tiếp tổ chức thi hành đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, đảm bảo hiệu
quả triển khai nghị quyết của Đảng và những quy định của nhà nước tại địa
phương. Bộ máy nhà nước ở Trung ương muốn vững mạnh thì phải thường
xuyên củng cố và kiện toàn mỗi cấp chính quyền địa phương. Đó cũng là nhiệm

vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của Đảng và nhà nước ta trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước
ta hiện nay.
Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: "Hội đồng
nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát
huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước.
Điều 119 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi tại Điều 113, Hiến pháp năm 2013)
tiếp tục khẳng định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
8


phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do
Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên”. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương
và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Hội
đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu
ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên.”
Trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn hoạt động quản lý, HĐND cấp
xã có thể được nhận diện từ những khía cạnh khác nhau. Nhưng về cơ bản, căn
cứ vào nhận thức chung về HĐND đã được xác định trong Luật Tổ chức chính

quyền địa phương năm 2015 cũng như căn cứ vào tính đặc thù của địa bàn cơ sở,
có thể đưa ra khái niệm HĐND cấp xã như sau:
Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
bao gồm các đại biểu HĐND do cử tri trong xã trực tiếp bầu ra đại diện cho cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân toàn xã, có toàn quyền quyết
định việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
tại địa phương theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân
trong xã và cơ quan nhà nước cấp trên.
1.1.1.2. Đặc điểm Hội đồng nhân dân cấp xã
- HĐND cấp xã là cấp thấp nhất trong tổ chức ba cấp chính quyền địa
phương
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định, HĐND
được tổ chức thành ba cấp: HĐND cấp tỉnh, HĐND cấp huyện và HĐND cấp xã.
HĐND cấp xã là nền tảng, là gốc rễ của hệ thống chính quyền địa phương từ cấp
tỉnh đến cấp xã, là nơi gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và
9


yêu cầu của nhân dân, nắm vững những đặc điểm của địa phương, là nơi trực
tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên và Nghị quyết của HĐND cấp xã. Chính nhờ đặc điểm này, nhằm giúp
cho Quốc hội và các cơ quan nhà nước cấp trên ngày càng hoàn thiện hệ thống
pháp luật để những quy định của pháp luật trực tiếp đi vào cuộc sống.
- HĐND cấp xã là cơ quan dân cử đại diện cho nhân dân trên địa bàn xã,
phường, thị trấn
HĐND cấp xã được thành lập thông qua chế độ bầu cử, do cử tri trên địa
bàn xã, phường, thị trấn trực tiếp bầu ra đại biểu HĐND cấp xã theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. HĐND cấp xã thay mặt nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước, thay mặt nhân dân quyết định các công việc

liên quan đến đời sống, kinh tế - xã hội của địa phương và chịu trách nhiệm
trước nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân địa phương, do đó mọi
quyết định của HĐND xã sát hợp với nguyện vọng của nhân dân. Những quyết
định này phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân địa phương, đồng thời phù hợp
với lợi ích toàn dân, văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương.
- Bộ máy tổ chức của HĐND cấp xã gồm có đại biểu HĐND, Thường trực
HĐND và các Ban của HĐND
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định, HĐND
cấp xã gồm các đại biểu HĐND do cử tri trong xã, phường, thị trấn trực tiếp bầu
ra. Thường trực HĐND cấp xã gồm Chủ tịch HĐND và Phó Chủ tịch HĐND.
HĐND cấp xã được thành lập Ban Pháp chế và Ban Kinh tế - Xã hội. Đây là
điểm mới trong cơ cấu tổ chức của HĐND cấp xã, góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động HĐND cấp xã thực sự có hiệu lực và hiệu quả.
Tuy nhiên, bộ máy của HĐND cấp xã duy nhất chỉ có Phó Chủ tịch
HĐND là đại biểu HĐND chuyên trách, đa số đại biểu HĐND là hoạt động kiêm
nhiệm. Do đó, các đại biểu chủ yếu tập trung cho nhiệm vụ chuyên môn của
10


mình, dành rất ít thời gian cho nhiệm vụ đại biểu HĐND. Từ đó, hoạt động của
HĐND cấp xã trong thời gian qua vẫn còn mang tính hình thức.
- HĐND cấp xã làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số
Hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND cấp xã là thông qua kỳ họp.
HĐND cấp xã họp mỗi năm ít nhất hai kỳ. Mọi quyết định của HĐND cấp xã
đều thông qua kỳ họp HĐND, tức là Nghị quyết của HĐND cấp xã phải được
thông qua kỳ họp HĐND và phải được đại biểu HĐND cấp xã biểu quyết tán
thành. Nghị quyết của HĐND cấp xã được thông qua khi có quá nửa tổng số đại
biểu HĐND cấp xã biểu quyết tán thành, riêng Nghị quyết bãi nhiệm đại biểu
HĐND cấp xã được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu HĐND
cấp xã biểu quyết tán thành.

- HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước ở địa
phương
HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp xã. HĐND cấp xã
được nhân dân địa phương giao quyền thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, những nhiệm
vụ, quyền hạn do cấp trên giao.
HĐND cấp xã có tính độc lập tương đối, thực hiện hai chức năng cơ bản
là “quyết định” và “giám sát” cụ thể: Quyết định các vấn đề quan trọng của địa
phương do luật định và giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa
phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND cấp xã; giám sát hoạt động của
Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp mình; giám sát văn
bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp (Điều 33 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015).
HĐND cấp xã là cơ quan trực tiếp thiếp lập nên bộ máy nhà nước ở cấp
xã, thực hiện việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Uỷ

11


viên UBND cấp xã; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của
UBND, Chủ tịch UBND cấp xã.
Quyết định của Hội đồng nhân dân cấp xã có tính bắt buộc chung đối với
các cơ quan, tổ chức và công dân trên địa bàn cấp xã. UBND cấp xã do HĐND
cấp xã bầu là cơ quan chấp hành của HĐND cấp xã, là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND cấp xã và cơ quan nhà nước
cấp trên.
Như vậy, HĐND cấp xã vừa mang tính quyền lực nhà nước, vừa có tính
đại diện quần chúng, quản lý xã hội trên địa bàn cấp xã. Trong hoạt động của
mình, HĐND cấp xã phải thể hiện đầy đủ hai tính chất đó. Nếu quá thiên về tính

đại diện mà không thể hiện tính quyền lực nhà nước thì HĐND cấp xã không
phát huy vị trí pháp lý là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nếu chỉ
thiên về tính quyền lực nhà nước, không chú ý đến tính đại diện thì HĐND cấp
xã trở thành tổ chức chính quyền địa phương quan liêu, xa rời nhân dân. Chỉ khi
nào HĐND cấp xã kết hợp nhuần nhuyễn hai đặc điểm nói trên trong tổ chức và
hoạt động của mình thì HĐND cấp xã mới thực sự là tổ chức chính quyền địa
phương của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Vị trí của Hội đồng nhân dân cấp xã trong cơ cấu bộ máy nhà nước
Việt Nam
- Hội đồng nhân dân cấp xã là một bộ phận cấu thành nên cấp chính
quyền cơ sở trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
quy định chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có
HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo,
đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định. Theo Điều 2 Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 quy định các đơn vị hành chính của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung
12


ương (gọi chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp huyện); xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã); đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (do
Quốc hội thành lập). Như vậy, chính quyền địa phương cấp xã là một cấp - cấp
cơ sở - trong hệ thống hành chính của bộ máy nhà nước ta hiện nay.
Chính quyền địa phương cấp xã là tổ chức nhà nước gần dân nhất nên
không chỉ là nơi đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện đầy đủ mà
còn tạo điều kiện thiết thực phát huy quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân
tại cơ sở, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mọi công dân, đồng thời tạo điều kiện

cho người dân ổn định đời sống vật chất và tinh thần trong phạm vi xã, phường,
thị trấn. Như vậy, có thể nói Hội đồng nhân dân cấp xã là cấp chính quyền gần
dân nhất và sâu sát tình hình thực tế tại địa phương để làm cơ sở cho HĐND
quyết định các vấn đề của địa phương nhằm cải thiện đời sống người dân cũng
như phát triển kinh tế địa phương.
- Hội đồng nhân dân cấp xã cùng với UBND cấp xã là hai bộ phận cấu thành
cấp chính quyền địa phương giúp điều hành hoạt động của địa phương
Xét về mặt cấu trúc tổ chức, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 quy định chính quyền địa phương ở cấp xã là cấp chính quyền địa phương gồm
có HĐND và UBND. HĐND cấp xã gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở xã, phường,
thị trấn bầu ra, HĐND cấp xã quyết định các vấn đề của địa phương do luật định,
UBND cấp xã do HĐND cấp xã bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành
chính cấp xã, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên. UBND cấp xã tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, tổ
chức thực hiện nghị quyết của HĐND cấp xã và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan
nhà nước cấp trên giao.
- HĐND cấp xã là thiết chế trực tiếp thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
tại địa bàn cơ sở

13


HĐND cấp xã là do cử tri ở địa phương cấp xã trực tiếp bầu ra theo hình thức
phổ thông đầu phiếu, là cơ quan đại diện cho nhân dân, trực tiếp thể hiện quyền làm
chủ của nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý các công việc của địa phương và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
thông qua HĐND và đại biểu HĐND cấp xã. HĐND cấp xã là nơi trực tiếp giải
quyết những vấn đề của đời sống xã hội nảy sinh tại cơ sở, là nơi tổ chức thực
hiện các chính sách, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
HĐND cấp xã có vị trí, vai trò quan trọng là do xuất phát từ tầm quan

trọng của đơn vị cơ sở, là cấp cơ sở gần dân nhất, hiểu rõ và nắm vững tình hình
đặc điểm sinh hoạt của cộng đồng dân cư, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống. Do đó, mọi quyết định của HĐND cấp xã về phát triển kinh tế xã hội, văn hoá, an ninh quốc phòng… xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân địa phương và đảm bảo theo luật định.
Như vậy, HĐND cấp xã ở Việt Nam là một hình thức tổ chức quản lý xã
hội theo kiểu mới, là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực của nhân dân địa
phương. Hội đồng nhân dân cấp xã do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho
nhân dân địa phương, đồng thời đại diện cho chính quyền nhà nước cấp trên. Có
thể nói, HĐND xã, phường, thị trấn là bộ phận cấu thành không thể tách rời của
chính quyền địa phương cấp cơ sở ở nước ta hiện nay.
1.2. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
1.2.1. Khái quát pháp luật và thực tiễn tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp xã trong giai đoạn trước khi ban hành Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015
Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, Đảng và nhà nước ta đã chú trọng đến việc xây dựng và củng cố
chính quyền địa phương.
14


Văn bản pháp luật đầu tiên về tổ chức chính quyền địa phương là Sắc lệnh
số 63/SL ngày 22/11/1945 về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban hành chính. Theo Sắc lệnh này thì HĐND cấp xã được quy định như sau:
Về tổ chức: Mỗi xã sẽ đặt một HĐND gồm có từ 15-25 hội viên chính
thức và từ 5-7 hội viên dự khuyết.
Về quyền hạn: HĐND cấp xã có quyền quyết nghị về tất cả các vấn đề
thuộc phạm vi xã mình và không được trái với chỉ thị cấp trên.
Về cách thức hoạt động: HĐND xã họp mỗi tháng một kỳ do Uỷ ban hành

chính triệu tập, HĐND xã có thể họp bất thường trong trường hợp theo mệnh
lệnh của Ủy ban hành chính huyện, khi hai phần ba hội viên đề nghị thì Uỷ ban
hành chính triệu tập.
Hiến pháp năm 1946 tiếp tục kế thừa mô hình tổ chức chính quyền địa
phương đã được quy định tại Sắc lệnh số 63/SL.
Như vậy, trong giai đoạn này vị trí, vai trò và thẩm quyền của Uỷ ban
hành chính các cấp được tăng cường, đề cao hơn HĐND, thậm chí HĐND còn
đặt dưới sự giám sát tương đối chặt chẽ của các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên [12, tr.13].
Theo Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức HĐND và Ủy ban hành chính
các cấp năm 1962 quy định, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương, HĐND bầu ra Uỷ ban hành chính, Uỷ ban hành chính các cấp là cơ
quan chấp hành HĐND địa phương, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương.
Về nhiệm vụ và quyền hạn: HĐND xã quyết định kế hoạch phát triển kinh
tế, văn hoá và những sự nghiệp lợi ích công cộng của xã; xét duyệt dự toán và
phê chuẩn quyết toán ngân sách của xã; ra những quy định về trật tự trị an, về vệ
sinh chung của xã, những quy định này, trước khi thi hành, phải được Uỷ ban
hành chính cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
15


Về tổ chức và hoạt động: HĐND xã hoạt động theo chế độ hội nghị, các
nghị quyết của HĐND phải được quá một phần hai tổng số đại biểu Hội đồng
nhân dân biểu quyết tán thành.
Điểm mới của Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức HĐND và Ủy ban
hành chính các cấp năm 1962 là lần đầu tiên HĐND cấp xã được xác định là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương và được sử dụng chính thức trong pháp
luật nước ta. Nhiệm vụ của HĐND cấp xã được quy định rõ hơn về các nhiệm vụ

phát triển kinh tế, xã hội, nhất là phát triển nông thôn Việt Nam.
Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983 cũng
như Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989 đều đề cao vị trí, vai trò của
HĐND các cấp (trong đó có HĐND cấp xã), nhấn mạnh tính quyền lực nhà nước
của HĐND thể hiện ở việc mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND trong việc
“quyết định các chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng và phát triển địa phương
về mọi mặt”. UBND các cấp về nguyên tắc nằm trong mối quan hệ “song trùng
trực thuộc”, nhưng thực tế thiên về mối quan hệ theo chiều ngang, tức là với
HĐND cùng cấp [12, tr.15].
Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy
định, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
HĐND các cấp thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND cùng cấp và giám sát việc thực hiện Nghị quyết của HĐND.
Điểm mới Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp nói chung
và HĐND cấp xã nói riêng, đã tạo lập nên một chính quyền năng động hơn, phù
hợp với thời kỳ đổi mới đất nước. Theo quy định pháp luật này đã tạo lập nên
HĐND các cấp nói chung và HĐND cấp xã nói riêng, từng bước có trách nhiệm
và có năng lực hơn trong việc đưa ra các quyết định về chủ trương phát triển
16


kinh tế - xã hội ở địa phương, giám sát có hiệu quả hơn đối với hoạt động của cơ
quan hành chính cùng cấp và hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác trên địa
bàn [4, tr.345]. Đồng thời, HĐND cấp xã được thành lập thường trực HĐND
gồm Chủ tịch HĐND và một Phó Chủ tịch HĐND. Phó Chủ tịch HĐND xã là
đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách.
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2005

tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật hiện hành có bổ sung thêm những
điểm mới về tổ chức chính quyền địa phương theo hướng: “Chính quyền địa
phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù
hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt
do luật định” (Điều 111 Hiến pháp năm 2013). Đối với Thường trực HĐND
được thành lập ở cả ba cấp chính quyền địa phương: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp
xã. HĐND cấp xã được thành lập Ban pháp chế và Ban Kinh tế - xã hội gồm có
Trưởng ban và Phó Trưởng ban của HĐND hoạt động kiêm nhiệm.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ của Hội đồng nhân dân cấp xã
theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
1.2.2.1. Cơ cấu tổ chức của HĐND cấp xã
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định, cấp xã
gồm có xã, phường, thị trấn. Theo đó, HĐND cấp xã được tổ chức theo từng đơn
vị hành chính gồm: HĐND xã, HĐND phường và HĐND thị trấn.
Về cơ cấu tổ chức: HĐND xã, phường, thị trấn có cơ cấu tổ chức cơ bản
giống nhau đều có Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND
do cử tri ở xã, phường, thị trấn bầu ra. Thường trực HĐND xã, phường, thị trấn
gồm Chủ tịch HĐND, một Phó Chủ tịch HĐND. Phó Chủ tịch HĐND xã,
phường, thị trấn là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. HĐND xã, phường,
thị trấn thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội. Ban của HĐND xã,
17


phường, thị trấn gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số
lượng Ủy viên của các Ban của HĐND xã, phường, thị trấn do HĐND xã,
phường, thị trấn quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của
các Ban của HĐND xã, phường, thị trấn hoạt động kiêm nhiệm.
Về số lượng đại biểu HĐND cấp xã: HĐND xã, thị trấn được bầu từ mười

lăm đến ba mươi lăm đại biểu. Riêng HĐND phường được bầu từ hai mươi lăm
đến ba mươi lăm đại biểu.
Tóm lại, HĐND cấp xã được tổ chức theo từng đơn vị hành chính nhằm
mục đích xây dựng tổ chức bộ máy của HĐND cấp xã phù hợp với quy mô dân
số, đặc điểm ở địa phương và các yếu tố đặc thù của từng loại đơn vị hành chính
ở nông thôn và đô thị, góp phần phát huy tốt hơn hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của HĐND xã thuộc khu vực nông thôn và HĐND phường, thị trấn thuộc khu
vực đô thị.
1.2.2.2. Các mối liên hệ của HĐND cấp xã
Xét về mối liên hệ với đại biểu HĐND cấp xã: HĐND cấp xã phải thường
xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với đại biểu HĐND cấp xã. Đại biểu HĐND cấp
xã là một thiết chế cấu thành nên HĐND cấp xã. Đại biểu HĐND cấp xã là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, vận động nhân dân thực
hiện Hiến pháp và pháp luật cũng như Nghị quyết của HĐND cấp xã và vận
động nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Đại biểu HĐND cấp xã là người
trung gian giữa Nhân dân với HĐND cấp xã. Qua đó, phát huy vai trò của
HĐND cấp xã là cơ quan đại diện nhân dân, thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm
trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước vào cuộc
sống.
Xét về mối liên hệ với UBND cấp xã: Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 quy định, HĐND cấp xã lập ra UBND cấp xã, UBND cấp xã
là cơ quan chấp hành của HĐND cấp xã để tổ chức thực hiện, triển khai nghị

18


×