Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển từ thực tiễn huyện hoài nhơn, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG NAM PHÚ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018
1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG NAM PHÚ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. KIỀU THANH NGA



HÀ NỘI, năm 2018
2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới hiện nay, đa phần các vấn đề mang tính toàn cầu liên quan
tới cuộc sống con người đều có liên quan đến biển và đại dương. Việt Nam là
quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa chính trị và địa kinh
tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có, với bờ biển dài trên
3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam. Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về
Luật Biển năm 1982 thì nước ta ngày nay có vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu
km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền. Từ lợi thế về vị trí, địa lý và vài trò của
biển đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), quốc phòng – an
ninh (QP-AN), Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 03-NQ/TW, ngày
06/5/1993 về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển. Trong đó khẳng định
rằng, phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ
quyền và lợi ích quốc gia. Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số
20- CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá (CNH - HĐH). Từ quan điểm chỉ đạo trên, Hội nghị lần thứ tư
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã thông qua Nghị quyết số 09NQ/TW, ngày 9/02/2007về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Nghị
quyết đã xác định quan điểm chỉ đạo, định hướng phát triển kinh tế biển Việt
Nam đến năm 2020, đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các
ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển
nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.Tuy nhiên, nếu chỉ dừng
lại như điều kiện hiện nay, chúng ta sẽ không bắt kịp xu thế chung của thế
giới, sẽ hạn chế trong việc bảo vệ và khai thác lợi thế từ biển, mà lại càng hạn
chế khi mở rộng ra biển quốc tế.


3


Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định ban hành Chương trình hành
động số 16-CTr/TU, ngày 20/8/2007 về thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 (khoá X) về “Chiến lược biển đến năm 2020”.Trong đó xác định, phát
triển nhanh kinh tế biển và vùng ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, gắn với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng – an ninh tuyến biển.
Hoài Nhơn là một huyện đồng bằng ven biển có vị trí chiến lược quan
trọng, là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh phía Bắc của
tỉnh Bình Định.Có lợi thế bờ biển dài trên 23 km giàu tài nguyên, cùng đội
tàu khai thác xa bờ nhiều kinh nghiệm và hùng hậu nhất tỉnh Bình Định. Phát
huy tiềm năng lợi thế sẵn có, trên cơ sở chương trình hành động số 16CTr/TU của Tỉnh ủy Bình Định và các Nghị quyết, Chương trình hành động
của Huyện ủy Hoài Nhơn xác định phát triển kinh tế biển là ngành kinh tế
mũi nhọn và phát triển bền vững trên cả 3 lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế
biến kết hợp với du lịch tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa
phương.Thời gian qua, huyện tập trung mọi nguồn lực ưu tiên đầu tư nâng
cấp, xây dựng hệ thống giao thông, nạo vét cảng biển, đầu tư đóng mới, cải
hoán tàu thuyền, dịch vụ hậu cần ven biển. Nhờ đó, sản lượng đánh bắt thủy
sản ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP của huyện, góp
phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân
dân huyện Hoài Nhơn.
Trên cơ sở các chính sách phát triển kinh tế biển của Trung ương, từ năm
2010 đến nay, huyện Hoài Nhơn đã ban hành và thực hiện các chính sách về
phát triển kinh tế biển như: Chương trình hành động số 18-CTr/HU ngày
04/10/2011 của Ban Thường vụ Huyện ủy về thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ lần thứ XVIII của tỉnh và huyện về khai thác, nuôi trồng gắn với chế
biến và dịch vụ thủy sản, giai đoạn 2011 – 2015; Công văn 161-CV/HU, ngày


4


01/8/2012 của Ban Thường vụ Huyện ủy về tuyên truyền giảm thiểu tàu cá,
ngư dân bị nước ngoài bắt giữ; Chương trình hành động số 18-CTr/HU ngày
31/5/2016 của Huyện ủy về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền
biển đảo, giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 8029/QĐ-UBND ngày
23/11/2016 của UBND huyện Hoài Nhơn về Kế hoạch cụ thể về triển khai
thực hiện Chương trình hành động số 18-CTr/HU ngày 31/5/2016 của Huyện
ủy về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo, giai đoạn
2016-2020. Tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị định số 67/2014/QĐ-TTg của
Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản; Thực hiện Quyết định
48/2010/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi
trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa.Bước đầu đạt
được những kết quả đáng ghi nhận, có thể kể đến như huyện có 116/140 hồ sơ
tàu cá được tỉnh Bình Định phê duyệt (67 tàu vỏ thép, 40 tàu vỏ gỗ, 9 tàu vỏ
composite) vay vốn ưu đãi, đóng mới hoàn thành bàn giao 17 tàu vỏ thép,
hàng nghìn lượt tàu cá đánh bắt xa bờ được hỗ trợ theo với tổng số tiền hàng
trăm tỷ đồng.
Mặc dù đã có những chính sách phù hợp, nhưng việc thực hiện chính
sách phát triển kinh tế biển ở Hoài Nhơn vẫn còn nhiều bất cập như: Quản lý
Nhà nước trên một số lĩnh vực phát triển kinh tế biển chưa đồng bộ; Việc
kiểm tra, kiểm soát, quản lý hoạt động tàu cá khai thác, đánh bắt hải sản trên
biển còn nhiều hạn chế, bất cập.Vì thế, kinh tế biển của Hoài Nhơn vẫn còn
những hạn chế như: Chưa đánh thức hết tiềm năng và thế mạnh của kinh tế
biển phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng.
Tình trạng ngư dân xâm phạm lãnh hải nước ngoài bị bắt giữ vẫn còn xảy ra.
Tàu thuyền, ngư dân hành nghề trên biển bị tai nạn và sự cố trên biển xảy ra
nhiều. Phương tiện, lực lượng lao động nghề cá phát triển tự phát, hoạt động

đơn lẻ, phân tán; cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đáp ứng nhu

5


cầu phục vụ đội tàu đánh bắt xa bờ. Khai thác, đánh bắt còn bừa bãi, ô nhiễm
môi trường chưa kịp thời khắc phục; Trình độ của người lao động đối với
kinh tế biển còn thấp. Cửa biển Tam Quan thường xuyên bị bồi lấp; hệ thống
cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền thường xuyên quá tải…
Để tiếp tục quản lý, khai thác hiệu quả tiềm năng thế mạnh của kinh tế
biển, để kinh tế biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, huyện Hoài Nhơn cần
phải đánh giá đúng thực trạngthực hiện chính sách, bên cạnh việc đánh giá kết
quả, cần tìm ra những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện chính sách để tìm
ragiải pháp hiệu quả hơn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế biểntrong thời gian
tới. Với lý do trên, tôi chọn đề tài“Thực hiện chính sách phát triển kinh tế
biển từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” làm luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù là một quốc gia biển, có tiềm năng, lợi thế lớn về kinh tế biển
nhưng trước năm 2007 mô hình quản lý kinh tế biển của Việt Nam chưa thực
sự hình thành. Chỉ tới khi ra đời Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 09 tháng 02
năm 2007 của Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, mô hình quản lý kinh tế
biển của Việt Nam mới được định hình rõ nét.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến kinh tế
biển, có thể kể đến như:
Nguyễn Văn Hiến, “Phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an
ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc và những vấn đề đặt ra”, đăng trên
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 12/2011[19]. Bài viết nghiên cứu vị trí
chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh của các vùng biển, đảo

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng và Nhà nước ta đã sớm
quan tâm tới việc quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giải quyết tranh chấp

6


trên biển và phát triển kinh tế biển.
Lê Thị Thanh Hà về “Phát triển kinh tế biển gắn liền với bảo vệ môi
trường biển, đảo ở Việt Nam hiện nay”, đăng trên Tạp chí cộng sản, ngày
10/11/2016[18]. Nghiên cứu này cho thấy, bước sang thế kỷ XXI, trước sức
ép của gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh và nhu
cầu tăng trưởng kinh tế cao, trong khi các nguồn tài nguyên ở đất liền ngày
càng cạn kiệt, tiến ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển là hướng đi đúng
đắn nhằm khai thác hiệu quả hơn tiềm năng phát triển kinh tế to lớn. Tuy
nhiên, để phát triển bền vững, cần gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ môi
trường biển, đảo.
Nguyễn Thị Hoài Thu với “Phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh”, đăng trên Tạp chí cộng sản, ngày 13/12/2017[25]. Nghiên
cứu chỉ ra rằng, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Việt Nam có ý nghĩa to lớn, nhất là trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới
đều nỗ lực vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi
mặt để khai thác và bảo vệ biển.
Lại Lâm Anh với: “Quản lý kinh tế biển: kinh nghiệm quốc tế và vận
dụngvào Việt Nam”, Luận án tiến sĩViện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
- Học viện Khoa học xã hội (2013)[1]. Luận án đã hệ thống hoá các vấn đề về
quản lý kinh tế biển, từ khái niệm, vai trò, chiến lược, chính sách, mô hình và
thể chế phát triển kinh tế biển. Tiếp cận nghiên cứu thực tiễn quản lý kinh tế
biển của Trung Quốc, Malaysia và Singapore, để tìm ra các vấn đề có tính
quy luật trong quản lý kinh tế biển nói chung. Từ đó, đề tài đưa ra một số đề
xuất, mang tính gợi ý chính sách về quản lý kinh tế biển Việt Nam.

Vũ Văn Phái với “Biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam: quá khứ,
hiện tại và tương lai”[22], Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG Hà
Nộinăm 2008. Tác giả nhấn mạnh: Từ thời cổ đại đến nay, con người Việt

7


Nam đã biết khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên của biển phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội với trình độ từ thấp đến cao và bảo vệ an ninh chủ quyền
quốc gia. Hiện nay và trong những năm tới, phát triển kinh tế biển - một trong
những chiến lược quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước, đã và sẽ được thực hiện một cách toàn diện hơn với đầy đủ các lĩnh
vực như nghề cá (đánh bắt, nuôi trồng và chế biến), giao thông - thương mại
(hệ thống cảng biển, đội tàu,….), khai thác khoáng sản, công nghiệp, du lịch
và các dịch vụ khác.
Đối với Hoài Nhơn, là huyện có đội tàu đánh bắt xa bờ lớn nhất tỉnh Bình
Định. Những năm qua có nhiều chủ trương, chính sách và có một số công trình
nghiên cứu có liên quanđến kinh tế biển của huyện Hoài Nhơn như:
Báo Điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 07 tháng 3 năm 2018 có
bài viết “Ngư dân Hoài Nhơn (Bình Định) khai thác xa bờ có trách nhiệm”.
Đó là định hướng của huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định đã đề ra cho mùa
khai thác năm 2018, đảm bảo không có trường hợp ngư dân trong huyện xâm
phạm lãnh hải nước ngoài.
Trang Thông tin điện tử UBKT Trung ương, ngày 16 tháng 8 năm 2016
có bài viết “Hoài Nhơn phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển
đảo”[28]. Sau khi Nghị quyết đại hội và các Chương trình hành động của
Huyện ủy được ban hành, các cấp ủy, chính quyền đã thực hiện tốt việc triển
khai và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết của cấp ủy các cấp bước đầu đi
vào cuộc sống đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Chương trình hành động số18-CTr/HU, ngày 31/5/2016 của Ban Thường

vụ Huyện ủy Hoài Nhơn thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, lần thứ
XIX “Về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo giai đoạn
2016-2020”[3]. Trong thời gian qua, tình hình an ninh trên biển đông diễn biến
khó lường, thời tiết diễn biến phức tạp, nguồn lợi thủy sản giảm sút. Từ những

8


nhu cầu đó, Huyện ủy Hoài Nhơn ban hành Chương trình hành động số18CTr/HU, cùng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị đưa kinh tế biển của
huyện phát triển khá và trở thành ngành kinh tế quan trọng của địa phương.
Quyết định số 8029/QĐ-UBND, ngày 23/11/2016 của UBND huyện
Hoài Nhơn ban hành Kế hoạch cụ thể về triển khai thực hiện Chương trình
hành động số 18-CTr/HU ngày 31/5/2016 của Huyện ủy về phát triển kinh tế
biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo, giai đoạn 2016 – 2020.[29]
Báo cáo Sơ kết thực hiện Chương trình hành động số 18-CTr/HU của
Huyện ủy ngày 31 tháng 5 năm 2016 về “phát triển kinh tế biển gắn với bảo
vệ chủ quyền biển đảo, giai đoạn 2016-2020”[20]. Được sự lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt của Ban Thường vụ Huyện ủy và quyết tâm của cả hệ thống chính
trị, sự đồng thuận của địa phương và người dân, qua 02 năm triển khai thực
hiện Chương trình hành động số 18-Ctr/HU đạt được một số mặt tích cực và
những kết quả bước đầu trên lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản.
Quyết định số 1839/QĐ-UBND, ngày 31/5/2016 của UBND tỉnh Bình
Định về việc phê duyệt Quy hoạch phân khu chức năng tỉ lệ 1/2000 hệ thống
cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, dịch vụ hậu cần nghề cá Tam
Quan (Hoài Nhơn).[30]
Báo Bình Định, ngày 21 tháng 9 năm 2017 có bài viết “Hoài Nhơn, phát
triển kinh tế biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”. Với lợi thế bờ biển dài
trên 23 km giàu tài nguyên cùng đội tàu khai thác xa bờ nhiều kinh nghiệm và
hùng hậu nhất tỉnh Bình Định, những năm qua, Ðảng bộ huyện Hoài Nhơn đã
tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn

của địa phương.
Báo Bình Định, ngày 29 tháng 3 năm 2018 có bài viết “Hoài Nhơn phát
triển kinh tế biển”. Những năm qua, ngư dân Hoài Nhơn đã chủ động đầu tư
nâng cấp tàu cá, cải tiến ngư lưới cụ, khai thác kiêm nghề; thành lập tổ đoàn

9


kết trên biển, nghiệp đoàn nghề cá… đánh bắt đạt hiệu quả, sản lượng và giá
trị khai thác hải sản tăng qua từng năm, góp phần phát triển KT-XH của địa
phương.
Mặc dù, thời gian qua không ít đề tài nghiên cứu về phát triển kinh tế
biển, gắn với đảm bảo chủ quyền biển đảo. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về chính sách phát triển kinh tế biển
từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn. Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài này làm
luận văn thạc sĩ của mình, đề tài luận văn thực hiện có sự kế thừa, phát triển
những kết quả thực hiện trước đó để đánh giá, phân tích, từ đó đề xuất ra các
giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách phát triển
kinh tế biển. Nghiên cứu và đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển kinh
tế biển ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị
trong thực hiện hiệu quả chính sách phát triển kinh tế biển ở huyện Hoài Nhơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển
kinh tế biển.
- Phân tích, đánh giá, thực trạng việc thực hiện chính sách phát triển kinh
tế biển của huyện Hoài Nhơn từ năm 2010 đến nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp thực hiện hiệu quả hơn chính sách

phát triển kinh tế biển Hoài Nhơn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình Định.

10


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển ở
huyện Hoài Nhơn.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến nay và nhiệm vụ, giải pháp trong
thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế
biển. Kế thừa chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung liên
quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu thứ cấp: các Văn
kiện, Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định, Quyết định của Đảng, Nhà nước, của
tỉnh Bình Định và huyện Hoài Nhơn;
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp dự báo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn vềchính sách phát triển kinh tế biển.
- Nghiên cứu thực tiễn của việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế
biển ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá kết quả, những vấn đề còn tồn tại và chỉ ra nguyên nhân trong
triển khai thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển của Hoài Nhơn trong
thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả chính sách
phát triển kinh tế biển của huyện Hoài Nhơn trong thời gian tới.

11


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách phát triển kinh tế
biển.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển tại
huyện Hoài Nhơn
Chương 3: Định hướng và giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách phát
triển kinh tế biển ở huyện Hoài Nhơn.

12


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄNVỀ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.Các khái niệm cơ bản
- Khái niệm kinh tế biển: Cho đến nay, việc xác định khái niệm của kinh
tế biển vẫn là vấn đề chưa thống nhất. Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh

tế biển, tùy theo hướng tiếp cận và cách nhìn riêng phụ thuộc vào giá trị đóng
góp của các ngành kinh tế biển đối với mỗi quốc gia.
Tại Trung Quốc, khái niệm về kinh tế biển được các nhà khoa học phát
triển theo thời gian: Năm 1990, theo các học giả Dương Kim Thâm, Lương
Hải Tân và Hoàng Minh Lỗ: “Kinh tế biển bao gồm ba loại ngành nghề theo
các thời kỳ khác nhau là nghề đánh bắt hải sản, làm muối và vận tải biển là
những nghề biển truyền thống, khai thác dầu khí trên biển, nghề nuôi trồng
hải sản và ngành du lịch biển là nghề biển mới phát triển, nghề khai thác các
nguồn năng lượng có trong biển, các loại tài nguyên khoáng sản ở dưới biển
sâu và lợi dụng nước biển là những nghề biển tương lai”; Quan điểm của ba
học giả Trung Quốc thời điểm đầu những năm 1990 đã khái quát tương đối
đầy đủ các ngành nghề của kinh tế biển. Tuy nhiên, các học giả chưa đề cập
đến một số ngành nghề như chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, cảng
biển. Năm 1995, Xu Zhibin cho rằng: “Nền kinh tế biển được gọi là một sản
phẩm đầu vào và đầu ra, cung và cầu, nguồn tài nguyên biển, không gian
biển, điều kiện môi trường biển trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt
động kinh tế”.
Tại Mỹ, quan điểm của các nhà khoa học về kinh tế biển phụ thuộc vào
sự đóng góp của kinh tế biển vào nền kinh tế quốc dân. Học giả người Mỹ

13


Charles S. Colgan cho rằng: “Kinh tế biển là những hoạt động có nguồn gốc
từ biển. Cụ thể gồm hoạt động liên quan đến biển như khai thác biển, hải sản
và ngành vận tải biển”[33]. Theo Brian Roach, Jonathan Rubin và Charles
Moris của trường Đại học Maine: “Kinh tế biển là các hoạt động kinh tế diễn
ra trên biển hoặc ven biển bao gồm một số hoạt động như hoạt động khai thác
hải sản và vận tải biển, những hoạt động phụ thuộc vào biển”[34]. Như vậy,
các hoạt động liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến biển đều được coi là các

ngành nghề thuộc kinh tế biển.
Ở Việt Nam, có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế biển. Theo PGS,
TS Bùi Tất Thắng và PGS, TS Chu Đức Dũng trong các nghiên cứu của mình
đều có chung quan điểm về nội hàm kinh tế biển như sau: “Kinh tế biển hiểu
theo nghĩa hẹp là toàn bộ hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm:
Kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); Hải sản (đánh bắt và
nuôi trồng hải sản); Khai thác dầu khí ngoài khơi; Du lịch biển; Làm muối;
Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; Kinh tế đảo”[23]. Kinh tế biển hiểu theo
nghĩa rộng là các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy
không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này lại nhờ vào
yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền
ven biển, bao gồm: Đóng và sửa chữa tàu biển; Công nghiệp chế biến dầu khí;
Công nghiệp chế biến thủy, hải sản; Cung cấp dịch vụ biển; Thông tin liên lạc
(biển); Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ quản
lý kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển. Do đó, kinh tế
biển không thể tách vùng biển với vùng ven biển và ngược lại.
Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Đầu tư phát triển các ngành kinh tế
biển, là đầu tư khai thác dầu khí, vận tải biển, cảng biển, đóng và sửa chữa tàu
biển, du lịch biển, nuôi trồng thuỷ sản; phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá và
đẩy mạnh khai thác xa bờ; Gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền

14


biển, đảo”.
Với nội dung xác định của Đảng ta cùng với những nghiên cứu của các
học giả trong và ngoài nước về kinh tế biển, từ đó có thể đưa ra khái niệm
kinh tế biển như sau: “Kinh tế biển là hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, hoặc
có liên quan đến biển như: khai thác, chế biến các sản phẩm có liên quan đến
biển, du lịch biển, đảo, khai thác dầu khí, vận tải biển, để phục vụ đời sống

con người và mang lại lợi ích cho nền kinh tế và bảo vệ chủ quyền quốc
gia”.[7]
- Khái niệm về phát triển kinh tế biển:
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ
cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã
hội. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng, nếu tăng trưởng
được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả
về lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá
trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát
triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng
tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự
biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy
dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế,
nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng
trong xã hội…).
Phát triển kinh tế biển là phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với
bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng
biển, đảo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành
khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải
biển; khai thác và chế biến hải sản, các dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển,

15


đảo. Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất
ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng biển, đảo. Đẩy nhanh điều
tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển, đảo. Tăng cường nghiên cứu, ứng
dụng khoa học, công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc khai thác

hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên biển. Xây dựng các cơ sở hậu cần
nghề cá, tránh trú bão, hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản xa bờ và hoạt động dài
ngày trên biển. Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người dân định cư
lâu dài trên các đảo. Tăng cường công tác cứu hộ, cứu nạn và bảo đảm an
ninh, an toàn trên biển, đảo.[7]
Từ đó, có thể rút ra khái niệm phát triển kinh tế biển: Là sự biến đổi kinh
tế biển theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng, chất
lượng các yếu tố cấu thành của nền kinh tế biển. Nó bao gồm sự tăng trưởng
về mọi mặt của các ngành nghề, lĩnh vực liên quan đến kinh tế biển. Đó là
một quá trình, bao gồm sự thay đổi về số lượng và chất lượng kinh tế - xã hội
liên quan đến kinh tế biển tương đối ổn định và dần đi vào hiệu quả thể hiện
qua cơ sở hạ tầng kinh tế biển, số lượng và chất lượng sản phẩm kinh tế biển,
nguồn nhân lực biển.
- Khái niệm chính sách phát triển kinh tế biển:
Khái niệm chính sách:
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Chính sách là tập hợp các chủ trương và
hành động về phương diện nào đó của chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà
chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những
mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn
hóa – xã hội – môi trường…[35]
Theo James Anderson thì: “Chính sách là một quá trình hành động có
mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn

16


đề mà họ quan tâm”.
Như vậy có thể hiểu: “Chính sách là tập hợp các hoạt động liên quan với
nhau, được lựa chọn và quyết định để thực hiện, nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định.

Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác
nhau: Phạm vi toàn cầu (như chính sách của Liên hiệp quốc), phạm vi một
quốc gia (như chính sách của Trung ương), phạm vi một địa phương (như
chính sách của tiểu bang trong nhà nước liên bang, tỉnh), phạm vi một tổ
chức, thậm chí có thể là chính sách của một cá nhân.
Khái niệm chính sách công:
William Jenkins đưa ra định nghĩa: “Chính sách công là một tập hợp các
quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà
chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được
các mục tiêu đó”. Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau: (i) Chính sách
công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một tập hợp các
quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài;
(ii) Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành.
Nói cách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công;
(iii) Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn
của nhà nước, bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa chọn.
B. Guy Peter thì cho rằng: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động
của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi
công dân”. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính
sách công là nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công
đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng.
Trong các tác giả Việt Nam, đáng chú ý là định nghĩa của PGS.TS. Lê
Chi Mai: “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định

17


hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong
đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định”. Đồng thời tác giả Lê Chi
Mai cũng nhấn những đặc trưng cơ bản của chính sách công như sau: Thứ

nhất, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước; Thứ hai, các quyết định
trong chính sách công này là những quyết định hành động, có nghĩa là chúng
bao gồm cả những hành vi thực tiễn; Thứ ba, chính sách công được ban hành
nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo
những mục tiêu xác định; Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có
liên quan lẫn nhau.[21]
Như vậy có thể hiểu: “Chính sách công là chính sách do cơ quan nhà
nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội của
cộng đồng”. Cũng chính vì vậy mà cho đến nay ở Việt Nam chúng ta thường
dùng khái niệm “chính sách của nhà nước” với nội hàm tương đồng với khái
niệm “chính sách công” (public policy) gần đây mới được sử dụng.
Dựa vào các phân tích trên, chính sách công ở Việt Nam được hiểu như
sau: Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà
nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định.[13]
Từ khái niệm chính sách, chính sách công và những phân tích của các tác
giả trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm cơ bản về chính sách phát triển kinh
tế biển như sau: Chính sách phát triển kinh tế biển là tổng thể các quyết định và
phương pháp hành động của Nhà nước nhằm tác động lên các hoạt động của
kinh tế biểnnhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
1.1.2.Chính sách phát triển kinh tế biển và các yếu tố tác động đến
việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
- Mục đích, yêu cầu của chính sách phát triển kinh tế biển
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội song song với nhiệm vụ bảo vệ

18


quốc phòng - an ninh. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm

2020 với mục tiêu đưa Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong
phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao.[2]
Yêu cầu đặt ra với chính sách phát triển kinh tế biển ở Việt Nam là
phảikiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, gắn lợi ích quốc
gia trên biển. Giải quyết những khác biệt và tranh chấp giữa các nước trên
biển bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và các Tuyên bố về ứng xử các bên ở
Biển Đông (DOC).
Phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên biển cho phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng góp khoảng 53- 55%
GDP và 60% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Hoàn thiện thể chế chính sách,
pháp luật về biển và hải đảo; triển khai thực hiện tốt Luật tài nguyên, môi
trưởng biển và hải đảo; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường biển và hải đảo.[2]
Huy động, thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế biển. Thực hiện
hiệu quả các chính sách, giải pháp cụ thể, phù hợp để bảo đảm sinh kế, nâng
cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo; tạo thuận lợi cho người dân bám biển,
phát triển kinh tế biển và làm giàu từ biển.
Bảo vệ môi trường biển là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, thường xuyên,
lâu dài. Tăng cường công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là vùng biển ven bờ;
ứng phó kịp thời với các sự cố môi trường.
Chủ động phòng tránh thiên tai, nâng cao hiệu quả công tác dự báo khí
tượng thủy văn biển; dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biển đổi khí hậu…
Tăng cường hợp tác quốc tế về biển và hải đảo một cách thiết thực, hiệu

19


quả trong khai thác bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo,

cứu hộ, cứu nạn trên biển, xử lý ô nhiễm môi trường biển xuyên biển giới,
biến đổi khí hậu và nước biển dâng…
- Vai trò thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Thứ nhất, thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển là một trong những
chính sách quan trọng của nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy kinh tế đất
nước phát triển. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
X) ban hành Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 09/02/2007 về Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh
về biển, làm giàu từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ
cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả
cao. Mặt khác, kinh tế biển cũng góp phần giới thiệu hình ảnh đất nước, con
người Việt Nam với bạn bè quốc tế qua hoạt động giao thương, vận tải, du
lịch biển...[2]
Thứ hai, phát triển kinh tế biển đóng góp vào việc cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân vùng ven biển. Trên quan điểm kinh tế, việc thực
hiện các chính sách phát triển kinh tế biển sẽ tạo cơ hội, điều kiện cho doanh
nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hậu cần nghề biển;
tạo điều kiện nhân dân vùng ven biển tiếp cận với các ngành nghề kinh tế biển
vàmở cơ hội làm việc của người dân trong vùng; từ đó, góp phần tăng thu
nhập, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ ba, phát triển kinh tế biển góp phần bảo đảm an ninh – quốc phòng,
giữ vững chủ quyền quốc gia biển, đảo của Tổ quốc. Phát triển kinh tế biển và
bảo vệ chủ quyền quốc gia là một trong những những chiến lược được ưu tiên
hàng đầu của các quốc gia có biển. Ở nước ta, kết hợp phát triển kinh tế gắn
với bảo vệ chủ quyền còn là sự tiếp nối truyền thống lịch sử dân tộc “dựng
nước đi đôi với giữ nước”; Ðó cũng là chiến lược xuyên suốt của đất nướcta

20



qua các thời kỳ.
- Nội dung thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Năm 1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh
phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những
nội dung cơ bản là xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, phát
triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu
bảo vệ đất nước. Tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI,
Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã thông qua
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020”. Nghị quyết đã xác định mục tiêu về chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020:
Mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc
gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh.
Mục tiêu cụ thể: Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; phấn
đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55%
tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước
đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình quân đầu
người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước[2]. Cùng
với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một
số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển;
xây dựng cơ quan quản lý tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả,
mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.
Trên cơ sở các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể Nghị quyết 09NQ/TW ngày 9/2/2007 cũng xác định rõ những nội dung cụ thể của chính

21



sách kinh tế biển như:
Thứ nhất, đẩy mạnh đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, giao thông, cảng
biển.
Thứ hai, chú trọng hỗ trợ tiếp cận về đất đai khu vực ven biển.
Thứ ba, chính sách tín dụng, tài chính, thị trường hỗ trợ kinh tế biển.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo lao động ven biển.
Thứ năm, phát triển nguồn lực khoa học và công nghệ kinh tế biển.
Thứ sáu, phát triển du lịch biển và ven biển, hải đảo.
- Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Việt Nam
Các yếu tố khách quan:
+ Vị trí địa lý: Vùng biển Việt Nam có diện tích rộng, gấp hơn 3 lần diện
tích đất liền, đường bờ biển dài trên 3.260 km, bên cạnh những thuận lợi cũng
có những bất lợi như: Biến đổi khí hậu đang ngày càng gia tăng; các thiên tai
lớn thường xuất hiện ở biển và vùng ven biển; ranh giới trên biển chưa được
thống nhất; tranh chấp biển, đảo giữa các quốc gia diễn ra liên tục gây ảnh
hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế biểnvà các vấn đề an
ninh quốc phòng.
+ Kinh tế - xã hội: Kinh tế tăng trưởng cao sẽ có nhiều nguồn tài chính
để thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển; Chính phủ và chính quyền địa
phương sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện các giải pháp, tác động mạnh hơn
để giải quyết các vấn đề chính sách. Đối với vấn đề xã hội: Xã hội càng văn
minh, hiện đại, nhận thức của con người càng tiến bộ, trình độ dân trí càng
cao thì càng thuận lợi việc thực hiện chính sách và pháp luật nói chung, thực
hiện chính sách chính sách phát triển kinh tế biển nói riêng.
+ Yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế: Cùng với xu hướng hội nhập và toàn
cầu hóa, các biến động kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực cũng như trên

22



thế giới ngày càng có tác động đáng kể đến việc thực hiện chính sách phát
triển kinh tế biển. Một số lĩnh vực kinh tế biển bị tác động từ bên ngoài có thể
dẫn đến sự thành hay bại của chính sách phát triển kinh tế biển.
Các yếu tố chủ quan:
+ Bộ máy thực hiện chính sách: Thành công của chính sách phát triển
kinh tế biển phụ thuộc rất nhiều vào năng lực hoạt động của các cơ quan và
cán bộ tổ chức thực thi chính sách. Bộ máy quan liêu, hoạt động kém hiệu lực
và hiệu quả; cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, năng lực yếu kém trong
thực thi công vụ thì sẽ gây khó khăn cho thực hiện chính sách, ngăn cản
không cho chính sách phát huy tác dụng, bóp méo các mục tiêu của chính
sáchhoặc làm ngược lại hoàn toàn ý đồ của chính sách.
+ Kinh phí thực hiện chính sách: Nguồn kinh phí để thực thi chính sách
chính sách phát triển kinh tế biển thường do NSNN cấp, do các tổ chức xã hội
và tư nhân đóng góp, huy động trong nhân dân hoặc do nước ngoài tài trợ.
Nếu chính quyền các cấp không có hoặc không đủ kinh phí thực thi chính
sách thì không thể thực hiện thành công chính sách. Do đó, ngay từ khi xây
dựng cần phải dự trù trước nguồn kinh phí khi đầu tư thực hiện.
+ Sự thành công của chính sách phát triển kinh tế biển đòi hỏi sự cương
quyết, quyết tâm và đồng lòng của các nhà lãnh đạo, những cán bộ, lãnh đạo
trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện chính sách để đưa chính sách đạt kết
quả như mong muốn. Các nhà lãnh đạo phải linh hoạt, sáng tạo sao cho có thể
tận dụng được tốt nhất những thế mạnh của đất nước, từng địa phương vào
quá trình tổ chức thực thi chính sách.
1.1.3. Quy trình thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển
Thực hiện chính sách đóng vai trò vô cùng quan trọng trong qui trình
chính sách công. Nếu hoạch định chính sách công đã làm tốt thì việc tiếp theo
là phải làm tốt thực thi chính sách mới góp phần làm cho chính sách đạt kết

23



quả. Việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển gồm các bước sau đây:
1.1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Tất cả các chủ thể, cơ quan chủ trì và phối hợp xây dựng kế hoạch thực
hiện về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, những dự kiến về cơ chế
trách nhiệm của cán bộ quản lý và công chức; các nguồn lực; về thời gian
thực hiện; kiểm tra đôn đốc thực thi chính sách phát triển kinh tế biển. Trên
cơ sở Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm
2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc
gia trên biển, đảo góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh. Xây dựng và phát triển toàn diện các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công nghệ, tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh, làm cho đất nước giàu mạnh từ biển, bảo vệ môi trường biển.
Và tiếp tục thực hiện chủ trương phát triển kinh tế biển được xác định trong
các văn kiện trước đây của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10
năm (2011-2020), được Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) thông qua, nhấn
mạnh: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển
của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo
vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công
nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng
tàu, xi-măng, chế biến thủy sản chất lượng cao, ...[6]
1.1.3.2. Tuyên truyền, phổ biển chính sách
Các cơ quan truyền thông tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông về
các chủtrương của Đảng, chính sách của nhà nước đối với việc thực hiện
chính sách phát triển kinh tế biển nâng cao nhận thức, xây dựng năng lực
truyền thông cho đội ngũ phóng viên, báo chí, trong đó tập trung đi sâu vào
năng lực truyền thông về các cơ chế chính sách việc thực hiện chính sách cho


24


ngư dân và nhân dân. Bên cạnh đó, cần chú ý đến những chương trình, chiến
dịch truyền thông mang tính dài hạn, đồng thời chú trọng nêu gương tốt, xây
dựng các gương điển hình trong công việc, là người lãnh đạo giỏi có đóng
góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và quốc gia. Qua đó giúp
cán bộ, lãnh đạo quản lý nhận thức được vai trò, vị trí quan trọng của chiến
lược phát triển kinh tế biển hiểu rõ hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước
hiện nay. Phát triển kinh tế biển, đảo gắn chặt với bảo đảm quốc phòng, an
ninh nhằm hướng tới khai thác, quản lý, giữ gìn và bảo vệ biển, đảo một cách
bền vững nhằm góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là
trách nhiệm của cả hệ thốngchính trị từ Trung ương đến địa phương.
1.1.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Phân công phối hợp các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách
công theo kế hoạch được phê duyệt. Số lượng tham gia bao gồm các đối
tượng tác động của chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ chức thực thi
của nhà nước. Không chỉ có vậy, các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách
công diễn ra cũng hết sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian,
chúng đan xen nhau, thúc đẩy hay kìm hãm nhau theo quy luật... Bởi vậy,
muốn tổ chức thực thi chính sách có hiệu quả cần phải tiến hành phân công,
phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương,
các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực
hiện mục tiêu chính sách. Trong thực tế người ta thường hay phân công cơ
quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào đó.
Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả
tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác
nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý. Hoạt động phân
công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách công một cách chủ
động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao


25


×