Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

SKKN ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế và tổ chức trò chơi lịch sử trong dạy học chuyên đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 63 trang )

PHỤ LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT..........................................................................3
PHẦN I: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.............................................................4
PHẦN II: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ THIẾT KẾ VÀ
TỔ CHỨC TRÒ CHƠI LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ:
“CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT 1914 - 1918 (TRƯỜNG HỢP
CỤ THỂ ĐỐI VỚI TRÒ CHƠI CỦNG CỐ BÀI HỌC)”......................8
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN........................................................................8
I. Nguyên nhân của chiến tranh chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918)
...................................................................................................................8
1. Nguyên nhân sâu xa...............................................................................8
2. Nguyên nhân trực tiếp............................................................................8
II. Diễn biến chiến tranh Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918).....8
1. Giai đoạn I (1914-1916).........................................................................8
2. Giai đoạn II (1916 – 1918).....................................................................9
III. Kết cục, tính chất và tác động của Chiến tranh thế giới thứ nhất....9
1. Kết cục, tích chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất...............................9
2. Tác động của Chiến tranh thế giới thứ nhất đến tình hình thế giới.........10
2.1. Thế giới...............................................................................................10
2.2. Việt Nam............................................................................................10
B. PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ THIẾT
KẾ VÀ TỔ CHỨC TRÒ CHƠI LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC CHUYÊN
ĐỀ: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT 1914 - 1918 (TRƯỜNG
HỢP CỤ THỂ ĐỐI VỚI TRÒ CHƠI CỦNG CỐ BÀI HỌC)...............12
1. Cơ sở khoa học......................................................................................12
1.1. Xu thế phát triển và yêu cầu đổi mới của nền giáo dục Việt Nam........12
1.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT...................................................14
1.3. Ứng dụng CNTT vào thiết kế trò chơi Lịch sử và những ưu thế vượt trội.
...................................................................................................................
1


15


1.4. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT để thiết kế và tổ chức trò chơi Lịch
sử cho học sinh...........................................................................................21
1.5. Một số nguyên tắc khi thiết kế và tổ chức trò chơi...............................23
1.6. Khái quát về hình thức một số trò chơi phục vụ công tác giảng dạy môn
Lịch sử........................................................................................................24
1.7. Một số phần mềm sử dụng để thiết kế các trò chơi Lịch sử.................26
2. Ứng dụng CNTT để thiết kế, tổ chức trò chơi cho học sinh trong dạy
học chuyên đề: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918)................34
2.1. Khái quát qui trình ứng dụng CNTT để thiết kế, tổ chức trò chơi trong
dạy học.......................................................................................................34
2.1.1. Chuẩn bị, lên ý tưởng và nội dung trò chơi, thiết kế trò chơi............34
2.1.2. Tổ chức trò chơi................................................................................41
2.2. Ứng dụng qua ví dụ 1 giờ dạy cụ thể bài Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914 – 1918), có sử dụng CNTT để thiết kế và tổ chức trò chơi.............41
2.2.1. Công tác chuẩn bị.............................................................................42
2.2.2. Tiến hành tổ trò chơi trong giờ dạy...................................................44
3. Kết luận.................................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................48

DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Kí hiệu
2


Trung học Phổ thông


THPT

Trung học cơ sở

THCS

Dạy học Lịch sử

DHLS

Công nghệ thông tin

CNTT

Kĩ năng

KN

Giáo viên

GV

Học sinh

HS

Sách giáo khoa

SGK


PHẦN I: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Ngày nay, nước ta đang trên con đường đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy,
đối với nước ta, giáo dục được xem là “quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Hội
3


nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII khẳng định: “Giáo dục – đào tạo là sự
nghiệp của Đảng, của nhà nước và của toàn dân”. Giáo dục nước ta đang trong
thập kỉ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi nhanh và phức
tạp, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu,
cách mạng khoa học công nghệ, công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế
tri thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến các nền giáo dục
trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Đứng trước những thay đổi lớn lao của tình hình mới và nhằm đáp ứng
yêu cầu nhận thức của học sinh đòi hỏi phải có những đổi mới trong hệ thống
giáo dục mang tính chiến lược. Vì vậy, ngày 13/6/2012 Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã kí quyết định số 711/QĐ – TTg phê duyệt Chiến lược phát triển giáo
dục giai đoạn 2011 – 2020, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục với mục tiêu
tổng quát: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn
diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, chất
lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kĩ
năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin
học, đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng kinh tế tri thức, đảm bảo công bằng xã
hội và giáo dục suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học
tập” [3; 4]. Để thực hiện mục tiêu trên, Chiến lược giáo dục đặc biệt nhấn
mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, năng lực

tự học của người học” [3; 7]. Từ khi thực hiện đổi mới giáo dục và đào tạo,
chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, cho đến nay giáo
dục và đào tạo vẫn còn yếu kém và còn bất cập trước yêu cầu mới, cần được
tiếp tục đổi mới mạnh dạn và triệt để hơn [4; 1]. Hơn nữa, xuất phát từ thực
trạng dạy và học môn Lịch sử trong những năm gần đây đang trở thành một
vấn đề nhức nhối hơn bao giờ hết, được cả xã hội quan tâm. Vì vậy, các nhà
giáo dục đã ra sức tìm tòi và thử nghiệm nhiều phương dạy học mới “dạy học
4


theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng dạy học”.
Môn Lịch sử đang đứng trước những vấn đề tranh cãi căng thẳng trước
nguy cơ bị mất đi vị trí một môn khoa học cơ bản độc lập. Vì vậy, những nhà
giáo dục của bộ môn này càng cần tăng cường đổi mới, tìm tòi ra những
phương pháp để hiệu quả bài học Lịch sử cũng như chất lượng dạy và học Lịch
sử được nâng cao. Từ đó, vị thế của môn học sẽ được nhìn nhận một cách xác
đáng, không thể tích hợp làm mất đi tính khoa học của bộ môn. Trên thực tế,
trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông những năm gần đây, giáo viên đã cố
gắng sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp dạy học hiện đại và tích cực như:
dạy học vận dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại, dạy học dự án, dạy học theo
nhóm… Tuy nhiên còn chưa khai thác được tối đa hiệu quả của những phương
pháp hiện đại đó, thêm vào đó là kĩ năng tự học môn Lịch sử của học sinh còn
chưa cao.
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào các lĩnh vực trong đời sống không còn xa lạ nữa. Và ngành giáo
dục cũng từng bước tiếp cận với công nghệ hiện đại.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường như một công cụ
lao động giúp Ban giám hiệu nhà trường nâng cao chất lượng quản lí, giúp các
thầy cô giáo nâng cao chất lượng dạy học, trang bị cho học sinh kiến thức về

công nghệ thông tin, học sinh sử dụng các thiết bị kĩ thuật số như một công cụ
học tập, góp phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần thiết của người
lao động trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để thực hiện tốt đổi mới
giáo dục phổ thông đạt kết quả, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy và học tập có một vai trò tích cực. Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to
lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy và phương pháp học.
Nằm trong hệ thống các biện pháp, phương pháp dạy học hiện đại và
tích cực, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có vai trò lớn trong việc
phát huy năng lực nhận thức, tư duy độc lập của học sinh, nâng cao hiệu quả
bài học Lịch sử. Đây không phải là một biện pháp mới, nó đã được sử dụng rất
5


phổ biến trong các trường phổ thông ở các thành phố lớn của nước ta, hỗ trợ
đắc lực cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học bộ môn. Tuy
nhiên, trong trường phổ thông Việt Nam nói chung và trong môn Lịch sử nói
riêng, việc ứng dụng công nghệ thông tin đôi khi còn chưa thực sự được khai
thác hiệu quả triệt để với cả giáo viên và học sinh do chúng ta quen học tập
theo lối mòn với phương pháp truyền thống “thầy giảng – trò nghe”, “thầy đọc
– trò chép”… Hơn nữa, để ứng dụng công nghệ thông tin vào thiết kế trò chơi
Lịch sử nhằm củng cố bài học và phát huy tính tích cực, kĩ năng tự học của học
sinh thì còn sơ sài và chưa có tính hiệu quả cao, đây chính là lí do lựa chọn vấn
đề mà chúng tôi rất lưu tâm.
Việc tổ chức trò chơi trong dạy học có sức hấp dẫn kì lạ, không đơn
thuần là phương tiện giải trí bổ ích mà qua đó giúp học sinh dễ hiểu, dễ khắc
sâu kiến thức, nắm được một số kĩ năng quan trọng như KN giao tiếp, KN vận
động nhanh nhẹn, khéo léo, KN hợp tác, KN làm việc nhóm, KN ra quyết định,
điều đặc biệt hơn cả là qua tổ chức trò chơi sẽ kích thích HS học tập, các em
sẽ lĩnh hội tri thức Lịch sử một cách dễ dàng, củng cố kiến thức một cách vững
vàng, tạo niềm say mê, hứng thú hơn trong giờ học Lịch sử.

Chuyên đề Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -1918) là một nội dung
quan trọng nằm trong Lịch sử thế giới hiện đại. Cùng với thắng lợi của cách
mạng tháng 10 Nga năm 1917, chiến tranh thế giới thứ nhất đã mở ra một giai
đoạn mới trong Lịch sử thế giới: Lịch sử thế giới hiện đại. Do ý nghĩa mang
tính bản lề đó, chuyên đề Chiến tranh thế giới thứ nhất đóng vai trò quan trọng
trong nội dung ôn thi THPT Quốc gia phần Lịch sử thế giới. Vì vậy, việc giáo
viên ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế và tổ chức các trò chơi Lịch sử
giúp học sinh có sự hứng thú trong học tập, có cái nhìn tổng quan về kiến thức,
nắm được bản chất của sự kiện hay dữ liệu Lịch sử trong Chuyên đề Chiến
tranh thế giới thứ nhất là vô cùng cần thiết.
Từ thực tế giảng dạy và hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức mới, ôn
tập, chúng tôi đã thu được kết quả nhất định. Vì vậy, Sáng kiến kinh nghiệm
này sẽ tập trung vào vấn đề cụ thể là “Ứng dụng công nghệ thông tin để thiết
6


kế và tổ chức trò chơi Lịch sử trong dạy học chuyên đề: Chiến tranh thế
giới thứ nhất 1914 - 1918 (trường hợp cụ thể đối với trò chơi củng cố bài
học)”. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng Ban
giám khảo và các thầy cô.

PHẦN II: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ THIẾT KẾ VÀ
TỔ CHỨC TRÒ CHƠI LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ:
“CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT 1914 - 1918 (TRƯỜNG HỢP
CỤ THỂ ĐỐI VỚI TRÒ CHƠI CỦNG CỐ BÀI HỌC)”.
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN.
I. Nguyên nhân của chiến tranh chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 –
1918).
7



1. Nguyên nhân sâu xa.
- Kinh tế giữa các nước đế quốc phát triển không đồng đều là do các
nước tiến hành cách mạng công nghiệp sớm hay muộn.
- Sự phân chia thuộc địa giữa các nước đế quốc không tương xứng với
sự phát triển kinh tế, dẫn đến mâu thuẫn về vấn đề thuộc địa.
- Nhận xét về các cuộc chiến tranh tranh giành thuộc địa do các nước đế
quốc gây ra trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX:
+ Chiến tranh Trung – Nhật (1894-1895).
+ Chiến tranh Mĩ- TBN (1898).
+ Chiến tranh Anh- Bôơ (1899-1902).
+ Chiến tranh Nga- Nhật (1904-1905).
+ Các cuộc chiến tranh tranh giành thuộc địa này diễn ra giữa các nước đế
quốc cho thấy nhu cầu về thuộc địa rất gay gắt giữa các nước có nền kinh tế
phát triển. Đây chính là những cuộc chiến tranh báo hiệu Chiến tranh thế giới
thứ nhất đang đến gần.
- Các nước Đức, Áo-Hung và Nhật Bản (phe Liên minh) liên kết với
nhau vì: Sự liên kết này giúp các nước thực hiện được những tham vọng riêng
và mục tiêu chung là phân chia lại thuộc địa, thị trường. Anh, Pháp, Nga (phe
Hiệp ước) để buộc phải bắt tay với nhau để giữ gìn thuộc địa.
2. Nguyên nhân trực tiếp.
- Sự kiện thái tử kế vị ngôi vua Áo-Hung Francois Ferdinand bị ám sát
tại Serbia (6 -1914). Giới quân phiệt Đức, Áo chớp thời cơ để gây chiến tranh.
II. Diễn biến chiến tranh Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918).
1. Giai đoạn I (1914-1916).
- Những sự kiện chính trong tiến trình Đức tấn công châu Âu:
+ Ngày 28/7/1914, Áo-Hung tuyên chiến với Xéc-bi.
+ Ngày 1/8/1914, Đức tuyên chiến với Nga.
+ Ngày 3/8/1914, Đức tuyên chiến với Pháp.
+ Ngày 4/8/1914, Anh tuyên chiến với Đức.

 Chiến tranh đế quốc bùng nổ.
- Năm 1914:
+ Ở phía Tây ngay đêm 3-8 Đức tràn vào Bỉ, đánh thọc sang Pháp. Đức
chiếm được Bỉ, một phần nước Pháp uy hiếp thủ đô Pari.
+ Cùng lúc ở phía Đông; Nga tấn công Đông Phổ, cứu nguy cho Pari.
- Năm 1915:
+ Đức, áo - Hung dồn toàn lực tấn công Nga, hai bên ở vào thế cầm cự
trên một mặt trận dài 1200 km.
8


- Năm 1916:
+ Đức chuyển mục tiêu về phía Tây tấn công pháo đài Véc-đoong, Đức
không hạ được.
Véc-đoong, 2 bên thiệt hại nặng.
2.Giai đoạn II (1916 – 1918).
Thời gian
2/1917
2/4/1917

Trong năm 1917
11/1917
3/3/1918
Đầu 1918
7/1918

9/11/1918
1/11/1918

Sự kiện chính

cách mạng dân chủ tư sản ở Nga thành công, chế độ Nga
Hoàng bị lật đổ.
Mĩ tuyên chiến với Đức, tham gia vào chiến tranh cùng
phe Hiệp ước, sự tham chiến của Mĩ có lợi hơn cho phe
Hiệp ước.
chiến sự diễn ra trên cả 2 mặt trận Tây và Đông Âu.
cách mạng tháng Mười Nga thành công, nhà nước Xô
Viết ra đời.
Chính phủ Xô viết kí với Đức Hiệp ước Bơ-rét Li-tốp,
Nga rút khỏi chiến tranh.
Đức tiếp tục tấn công Pháp.
Mĩ đổ bộ vào Châu Âu, chớp thời cơ Anh- Pháp phản
công. Các đồng minh của Đức đầu hàng ( Bungari 29/9,
Thổ Nhĩ Kì 30/10, Áo – Hung 2/11.
cách mạng Đức bùng nổ, nền quân chủ bị lật đổ.
chính phủ Đức đầu hàng, Chiến tranh kết thúc.

III. Kết cục, tính chất và tác động của Chiến tranh thế giới thứ nhất.
1.Kết cục, tích chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất.
- Kết cục của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914 -1918):
+ Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại của phe Liên minh.
+ Gây ra những thảm họa hết sức nặng nề đối với nhân loại: 10 triệu người
chết, 20 triệu người bị thương, tiêu tốn 85 tỉ đô la, nền kinh tế châu Âu bị kiệt
quệ.
- Tính chất: chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc chiến tranh đế quốc
phi nghĩa.
2.Tác động của Chiến tranh thế giới thứ nhất đến tình hình thế giới.
2.1. Thế giới.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm thay đổi tương quan so sánh lực
lượng giữa các nước đế quốc châu Âu và ngoài châu Âu:

9


+ Các nước tư bản châu Âu suy yếu: Đức suy sụp, Anh, Pháp kiệt quệ và đều
trở thành con nợ của Mĩ.
+ Các nước tư bản ngoài châu Âu: Mĩ và Nhật đều giàu lên nhanh chóng sau
chiến tranh.
- Chiến tranh thế giới đã tạo điều kiện khách quan cho sự bùng nổ và
thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga. Nước Nga Xô Viết ra đời đã tạo ra
bước chuyển lớn trong cục diện chính trị thế giới: Chủ nghĩa tư bản không còn
là hệ thống duy nhất trên thế giới.
- Chiến tranh thế giới đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở Á,
Phi, Mĩ Latinh phát triển mạnh mẽ.
2.2. Việt Nam.
- Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, đế quốc Pháp tham chiến.
Toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố: "Nhiệm vụ chủ yếu của Đông Dương là
phải cung cấp cho chính quốc đến mức tối đa nhân lực, vật lực và tài lực (Báo
Dư luận tháng 8/1914)”. Thực hiện chủ trương đó, Pháp ra sức vơ vét tối đa
sức người, sức của ở Đông Dương để gánh đỡ những tổn thất và thiếu hụt của
Pháp trong chiến tranh.
+ Pháp tăng thuế, bắt nhân dân Việt Nam mua công trái, vơ vét lương
thực, nông lâm sản, kim loại… đem về Pháp.
+ Sự cướp bóc của Pháp ảnh hưởng trầm trọng đến kinh tế - xã hội Việt
Nam: chuyển biến kinh tế và xã hội phân hóa….
- Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta diễn ra mạnh mẽ:
Khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên; Khởi nghĩa của Thái Phiên, Trần Cao
Vân; Phong trào Hội Kín Nam Kỳ,…

10



B. PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ THIẾT
KẾ VÀ TỔ CHỨC TRÒ CHƠI LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC CHUYÊN
ĐỀ: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT 1914 - 1918 (TRƯỜNG
HỢP CỤ THỂ ĐỐI VỚI TRÒ CHƠI CỦNG CỐ BÀI HỌC).
1. Cơ sở khoa học.
1.1.Xu thế phát triển và yêu cầu đổi mới của nền giáo dục Việt Nam.
Đứng trước những biến đổi không ngừng của tình hình thế giới và trong
nước, cùng với sự đổi mới nhanh chóng, toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội thì giáo dục cũng đã sớm chuyển mình. Nghị quyết Đại hội
toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
11


Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế,
trong đó đổi mới cơ chế quản lí giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lí giáo dục là khâu then chốt.” và “giáo dục đào tạo có sứ mệnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng
xây dựng đất nước, xây dựng văn hóa và con người Việt Nam” [3; 1].
Việc ứng dụng CNTT vào dạy học Lịch sử là một phương pháp thực
hiện tích cực hóa, hoạt động hóa, đa dạng hóa các hoạt động học tập của học
sinh, rèn luyện óc độc lập suy nghĩ, tinh thần tự chủ, sáng tạo, tính năng động,
phương pháp hoạt động tích cực, có hiệu quả cho học sinh ngay từ khi ngồi
trên ghế nhà trường. “Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc
phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì xét cho cùng
công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức hành động.
Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản
thân (tư duy và thực tiễn)” [11; 15]. Cho nên bồi dưỡng và phát triển tư duy,
năng lực cho người học trên cơ sở ứng dụng CNTT vào dạy học Lịch sử là
nhiệm vụ không thể thiếu được được trong suốt quá trình dạy học.

Theo các nhà lí luận dạy học, phương pháp dạy học là cách thức, là con
đường đi tới nhận thức sự vật hiện tượng khách quan hay là sự tập hợp các
phương tiện để đạt đến mục đích đề ra. Cũng có các ý kiến cho rằng “phương
pháp dạy học là tổ hợp các cách thức phối hợp hoạt động thống nhất của giáo
viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo
của giáo viên nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học”. Như vậy, khi bàn đến
phương pháp dạy học, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau song tất cả đều hướng
đến tính mục tiêu của quá trình dạy học và vai trò của giáo viên và học sinh
trong quá trình dạy học.
Bên cạnh đó, một yếu tố không thể thiếu đảm nhiệm vai trò trung gian
của quá trình dạy học đó chính là phương tiện dạy học. Xét trên phương diện
mục tiêu, chúng ta có thể thấy quá trình dạy học cũng chính là quá trình truyền
thông. Bởi vì truyền thông là sự chuyển tải thông tin từ một hoặc một nhóm
đối tượng này đến một hoặc một nhóm đối tượng khác nhằm cung cấp kiến
12


thức, thay đổi nhận thức và cải biến hành vi của con người. Điểm khác biệt ở
dạy học và các loại hình truyền thông khác là ở chỗ: dạy học là quá trình
truyền thông nhiều chiều trong đó học sinh là đối tượng trung tâm, là chủ thể
và giáo viên đóng vai trò chủ đạo để quá trình truyền thông đạt hiệu quả. Ở
phạm vi hẹp, quá trình dạy học Lịch sử ở trường phổ thông là một quá trình
dạy học mang tính đặc thù. Dạy học Lịch sử là quá trình giúp học sinh tìm hiểu
những gì đã diễn ra ở quá khứ, và mục tiêu của bộ môn Lịch sử chính là việc
giúp học sinh biết quá khứ, hiểu quá khứ đồng thời rút ra những bài học từ quá
khứ để vận dụng vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Hay nói cách khác
đó cũng chính là quá trình giúp học sinh nắm kiến thức và hình thành kĩ năng,
kĩ xảo và vận dụng kiến thức, kĩ năng đó vào giải quyết những vấn đề của cuộc
sống. Vấn đề khó khăn nhất của bộ môn Lịch sử là việc tái hiện những sự kiện,
những hiện tượng và nhân vật Lịch sử. Để biết, hiểu và vận dụng Lịch sử yêu

cầu các em phải tái hiện Lịch sử một cách chính xác, sinh động, tránh hiện
tượng hiện đại hoá Lịch sử. Nhưng làm được điều này cũng không đơn giản,
hiện nay giáo viên chủ yếu chỉ dựa vào thủ pháp trình bày miệng, tường thuật,
tích cực hơn là có sự kết hợp với một số phương tiện tối thiểu như tranh ảnh,
bản đồ (với số lượng không nhiều). Chính vì những lẽ đó cho nên hiệu quả của
các tiết dạy vẫn chưa cao thậm chí học sinh cảm thấy không có hứng thú khi
tìm hiểu bộ môn Lịch sử. Vậy để quá trình dạy học Lịch sử đạt hiệu quả chúng
ta cần có những hướng đi mới, những thủ pháp mới để kích thích khả năng
nhận thức và hứng thú cho học sinh.
1.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT.
Các nhà tâm lý học đã nêu rõ rằng, lứa tuổi học sinh THPT 18 tuổi đang
ở độ tuổi phát triển, có những thay đổi hết sức lớn lao về diễn biến tâm lý. Đây
là thời kì mà có em có khả năng tư duy lí luận và tư duy trừu tượng một cách
độc lập, sáng tạo về những điều đã học ở nhà trường, ngoài xã hội và cả những
điều chưa được học. Khi so sánh tư duy của học sinh khối THCS và học sinh
khối THPT thì có thể thấy rằng: học sinh THCS chủ yếu gắn với nhận thức
cảm tính cụ thể, trực giác thì học sinh THPT có tư duy phát triển ở một trình
13


độ cao hơn, sâu sắc hơn đó là nhận thức lý tính. Đây là một quá trình thống
nhất biện chứng bao gồm các bước đi từ trực quan sinh động tới tư duy trừu
tượng và từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Chính vì thế, phong cách
giảng của người giáo viên nếu theo kiểu giáo điều, máy móc, nhồi nhét kiến
thức cho học sinh, học sinh không động não tư duy mà chỉ tiếp nhận kiến thức
theo một chiều thụ động… thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu học tập và khả
năng tư duy của các em.
Việc ứng dụng CNTT để thiết kế và tổ chức trò chơi trong dạy học Lịch
sử nhằm mục đích không chỉ khắc phục lối dạy học truyền thống, lối tiếp thu
kiến thức thụ động mà còn phát huy, khơi gợi được khả năng tiềm ẩn trong mỗi

học sinh, sự hứng thú tìm hiểu sâu sắc hơn những vấn đề được học. Chính điều
đó phát huy được năng lực nhận thức sáng tạo của học sinh, thôi thúc các em
phải tìm tòi, suy nghĩ để linh hoạt, nhạy bén hơn.
Nhìn trong thực tế có thể thấy tư duy của học sinh ở độ tuổi này phát
triển không đồng đều, có em nhận thức nhạy bén và rất nhanh, sâu sắc, nhưng
cũng có em nhận thức còn chậm và nông hơn. Vì thế, khi tổ chức trò chơi trong
quá trình học tập Lịch sử cho học sinh thì giáo viên cũng phải chú ý đến “tính
vừa sức” cho học sinh, phải đảm bảo về mặt bằng kiến thức chung cho học
sinh trong lớp nhưng vẫn có thể thực hiện cá thể hóa, để khích lệ và phát huy
khả năng và trí tuệ của từng học sinh trong quá trình tìm hiểu vấn đề mà giáo
viên đưa ra.
Ngoài ra, ở độ tuổi 16 - 18 các em học sinh thường rất hiếu động, ham
hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá những “bí mật” và muốn khẳng định mình.
Tuy nhiên trong quá trình đó, học sinh cần có người định hướng cho mình cách
làm, hướng đi để tránh rơi vào tình trạng ngộ nhận, chủ quan.
Hơn nữa, trong cuốn “Tâm lý học của thiếu niên. Những đặc điểm về
hoạt động tư duy của thiếu niên”, tác giả V. A. Kruteski và N. X. Lukin đã
khẳng định: “Đối với thiếu niên, sự phát triển tính độc lập và tính phê phán của
tư duy đặc biệt rất rõ rệt và ngay cả tới mức sôi nổi” [12; 9]. Như người ta
thường nói, đó là một phạm vi hoàn toàn mới mẻ về hoạt động tư duy của học
14


sinh THPT đối với các cấp học trên. Nhờ ảnh hưởng của việc học tập ở trường,
của sự phát triển ý thức chung và riêng ở tuổi đó mà kĩ năng, nhu cầu suy nghĩ
độc lập của các em được phát triển. Học sinh THPT khát vọng được hoạt động
và vận động trong tư duy học tập, tham gia và làm chủ tiết học, khi đó, việc tổ
chức các trò chơi Lịch sử mang một ưu thế vượt trội.
Với những đặc điểm nhận thức của học sinh THPT trong quá trình học
tập nói chung và học tập Lịch sử nói riêng, chúng tôi thấy việc ứng dụng

CNTT vào thiết kế và tổ chức trò chơi cho học sinh trong dạy học Lịch sử là
thực sự cần thiết, hoàn toàn phù hợp với lứa tuổi học sinh THPT và với đặc
trưng riêng của bộ môn Lịch sử.
1.3.Ứng dụng CNTT vào thiết kế trò chơi Lịch sử và những ưu thế vượt trội.
-Phương pháp dạy học tích cực:
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì có sẵn trong
thiên nhiên mà còn sản xuất ra những của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại
phát triển của xã hội, sáng tạo nền văn hóa ở mỗi thời đại, chủ động cải biến
môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Tính tích cực của con người biểu hiện
trong hoạt động, đặc biệt là trong hoạt động chủ động của chủ thể. “Tính tích
cực là trạng thái hoạt động của chủ thể, nghĩa là con người hành động” [10;
46].
Hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm
vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng
và góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực là một điều kiện,
đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong qúa trình giáo dục.
A.N.Krưnốp đã từng nói: “Đối với con tàu khoa học, phương pháp vừa
là chiếc la bàn, lại vừa là bánh lái, nó chỉ phương hướng và cách thức hành
động” [9; 20]. Trong làn sóng đổi mới phương pháp dạy học mạnh mẽ nhằm
hướng vào người học, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, khoa
học giáo dục đề cập đến phương pháp dạy học tích cực.

15


Phương pháp tích cực dựa trên cơ sở tâm lí học cho rằng nhân cách của
trẻ được hình thành thông qua các hoạt động chủ động và sáng tạo, thông qua
các hoạt động có ý thức. Phương pháp tích cực là một thuật ngữ rút gọn được
dùng ở nhiều nước, để chỉ những phương pháp giáo dục, phương pháp dạy học

theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích
cực” trong phương pháp tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động.
Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học. Muốn đổi mới cách học thì phải đổi mới cách dạy.
Phương pháp dạy học tích cực là tích hợp gồm nhiều phương pháp cơ
bản: vấn đáp tìm tòi, dạy học nêu vấn đề, dạy học dự án, dạy và học hợp tác
trong nhóm nhỏ, dạy và học theo lý thuyết kiến tạo, trò chơi, sắm vai, mô
phỏng, động não, khám phá, dạy và học có sử dụng các phương pháp dạy học
hiện đại, nghiên cứu, điển hình, thí nghiệm.
Đối với bộ môn Lịch sử, quá trình đổi mới phương pháp dạy học luôn
hướng vào giải quyết một vấn đề: để phát triển tư duy độc lập cho học sinh
trong học tập Lịch sử người giáo viên phải làm gì bên cạnh việc đảm bảo tính
cụ thể, hình ảnh của sự kiện Lịch sử? Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh
những kiến thức cơ bản, chính xác, vấn đề dành thời gian cho học sinh trao
đổi, thảo luận các vấn đề, tổ chức công tác tự lập của học sinh ngày càng được
quan tâm. Giáo viên là người tổ chức, định hướng và điều khiển để thông qua
đó, học sinh có thể tự linh hoạt và nhanh nhạy trong tổng hợp kiến thức và tư
duy. Trong hệ phương pháp dạy học tích cực, ứng dụng CNTT để thiết kế và tổ
chức các trò chơi Lịch sử tỏ rõ khả năng đáp ứng yêu cầu trên nhằm thúc đẩy
hoạt động trí tuệ, kích thích hoạt động lĩnh hội và phát triển tư duy cho học
sinh.
-Thiết kế và tổ chức trò chơi Lịch sử có ưu thế rất lớn trong việc phát
huy tính hứng thú, sự tích cực của học sinh trong học tập. Trong quá trình
dạy- học nói chung và đối với môn Lịch sử nói riêng ở trường phổ thông cơ
sở, việc thiết kế và tổ chức trò chơi cho HS đóng vai trò quan trọng nhưng ít
16


khi giáo viên chú ý. “Thiết kế và tổ chức trò chơi trong giờ học Lịch sử cho

học sinh” được sử dụng để củng cố bài học, áp dụng để dạy các dạng bài: bài
ôn tập, sơ kết, tổng kết, bài tập Lịch sử hay tổ chức ngoại khoá và có tác dụng
thiết thực đối với sự nhận thức của học sinh.“Thiết kế và tổ chức trò chơi trong
giờ học Lịch sử cho học sinh” không nhằm mục đích cung cấp kiến thức mới
cho học sinh mà nhằm củng cố kiến thức cũ, hệ thống hóa, khái quát hóa kiến
thức đã học, rèn luyện kỹ năng tư duy, phân tích, tổng hợp….. Dựa vào kiến
thức cơ bản về sự kiện, các mặt hoạt động chính của từng giai đoạn hay quá
trình Lịch sử đã biết, giáo viên thiết kế tổ chức các trò chơi trong dạy - học
Lịch sử giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích nắm vững bản chất nhiều mối
quan hệ, giải thích sâu hơn những khái niệm phức tạp đã được hình thành... Vì
vậy khi tiến hành, giáo viên phải suy nghĩ sâu sắc cẩn thận về nhiệm vụ giáo
dưỡng, giáo dục; về nội dung và cách thức tổ chức tiến hành.
Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử nói riêng cũng như các bộ môn xã
hội và tự nhiên nói chung, thiết kế và tổ chức trò chơi trong dạy học có vai
trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
Giúp các em thay đổi hình thức, phương pháp dạy và học truyền thống
trước đây, làm cho giờ học bớt căng thẳng, nặng nề, tạo cảm giác thoải mái, dễ
chịu, để HS tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, hứng khởi.
Rèn luyện thêm kĩ năng sử dụng bản đồ, vẽ sơ đồ, tường thuật, hình
thành kĩ năng làm việc theo nhóm của HS...
Tạo cho HS sự tìm tòi, sáng tạo, rèn luyện cho học sinh có cơ hội để
hoàn thiện bản thân.
Qua việc thiết kế và tổ chức trò chơi đã kích thích HS vận dụng kiến
thức năng động, rèn luyện trí nhớ, phát triển khả năng phán đoán, suy luận. Từ
đó phát triển tư duy độc lập, học tập cách xử lý thông minh các tình huống
phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng trong cuộc sống để thích nghi với
điều kiện mới của xã hội.

17



Ngoài ra, thông qua trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều
phẩm chất đạo đức như: tính nhanh nhẹn, tình đoàn kết thân ái, sự phối hợp
nhịp nhàng, lòng trung thực và tinh thần trách nhiệm lẫn nhau.
Tổ chức và thiết kế trò chơi trong dạy học Lịch sử là yếu tố quan trọng
để nhằm nâng cao chất lượng kiến thức của học sinh, hình thành cho các em
nhiều hiểu biết khoa học về Lịch sử và tính quy luật của sự phát triển xã hội,
bồi dưỡng và rèn luyện các kỹ năng thông qua việc học môn Lịch sử. Đồng
thời là một ‘’món ăn tinh thần’’ cổ vũ thúc đẩy các em học tập.
- CNTT: Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã
đem lại những thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu
thế hội nhập với thế giới của Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những
tiến bộ trong cách dạy, cách học và phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên
thế giới. Với xu thế thay đổi mô hình giáo dục theo hướng hiện đại thì trường
học phải thay đổi môi trường giáo dục. Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi
trường học cần tập trung vào việc tạo lập một môi trường học tập cởi mở, sáng
tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại sẽ cung cấp tối đa khả
năng tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi giáo viên chỉ
hướng dẫn kĩ năng, phương pháp giải quyết công việc và xử lý thông tin chính
là cốt lõi của phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt lõi
trên, công nghệ thông tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu. Máy vi tính với các
phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng dụng trong mọi
lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như công dụng
của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính toàn
cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ Công nghệ
thông tin &Truyền thông (ICT). Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp
chúng ta đọc báo điện tử, gửi email mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả
thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen
giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa nửa vòng trái đất. Mạng

máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong đó cũng có gần như
18


các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử (ecommerce), giáo dục
điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các diễn đàn (forum),
các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),… Thông
qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ với
nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài
hát, có thể chia sẻ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví
dụ các bậc phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm
sóc con cái. Các giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và
giáo án với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc
giảng dạy của mỗi người. Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để
trao đổi những kiến thức về học tập và thi cử. Trong thời đại ngày nay, sự bùng
nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội
người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học
và Công nghệ thông tin, truyền thông cũng như những yêu cầu đẩy mạnh của
ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức
của nước ta nói riêng - thế giới nói chung.
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công
nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo
dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số
nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn
hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn
chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy,
nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực
CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ

hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình. Hơn nữa, đối với giáo
dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội
dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học
tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
19


triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Chính vì
xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin học vào
trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin học
để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học
những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. Nhưng làm thế nào để ứng dụng
CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào
cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy.
Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật máy tính của Mỹ vào
năm 1993, (tạm dịch) “Con người lưu lại trong bộ nhớ được 20% những gì họ
thấy và 30% những gì họ nghe. Nhưng họ nhớ 50% những gì họ thấy và nghe;
và con số này lên đến 80% nếu họ thấy và nghe sự vật, hiện tượng một cách
đồng thời.”. Trên cơ sở của những số liệu này và quá trình giảng dạy thực tế ở
trường phổ thông chúng ta có thể thấy việc dạy học Lịch sử chỉ với những
phương tiện truyền thống như bảng đen, lời nói của thầy giáo và một ít phương
tiện dạy học mang tính tĩnh (bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ) chắc chắn hiệu quả sẽ
không cao, mức độ ghi nhớ của học sinh sẽ thấp và chóng quên. Trong khi đó
nếu học sinh được xem phim tư liệu, bản đồ, sơ đồ động (được thiết kế theo
logic sự kiện), tranh ảnh với màu sắc sinh động kết hợp với lời nói của giáo
viên thì khả năng ghi nhớ của các em sẽ tăng lên.
Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện
những công việc mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên những
lĩnh vực khác nhau, những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối
với nhau và với người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet … có

thể được khai thác để tạo nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi
không thể thiếu để học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác,
tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.
Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình,
kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng
suy luận có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những quy
luật mới. Đây là một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền thông
20


trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng, môi
trường công nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích cực
tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết
học tập mới. Không những thế, nếu có thể vận dụng tối linh hoạt nhiều ưu thế
của CNTT vào thiết kế trò chơi cho học sinh chúng ta sẽ tạo ra được một bầu
không khí học tập sinh động, khơi gợi hứng thú học tập cho các em đồng thời
khắc sâu những kiến thức mà các em tiếp thu được. Rõ ràng, việc kết hợp cùng
một lúc hai hay nhiều phương tiện truyền thông sẽ giúp cho người học tiếp thu
thông tin nhanh, chính xác và nhớ lâu hơn.
1.4. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT để thiết kế và tổ chức trò chơi
Lịch sử cho học sinh.
• Đối với giáo viên:
Sinh thời Bác Hồ từng nói.
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Có thể nói rằng, đó là lời căn dặn và cũng là tâm huyết của Bác Hồ kính
yêu. Người luôn mong muốn thế hệ trẻ không chỉ hiểu Lịch sử mà còn phải
“tường”, có nghĩa là hiểu một cách sâu sắc về truyền thống Lịch sử của cha
ông.
Tuy nhiên việc dạy và học bộ môn Lịch sử hiện nay trong các trường

phổ thông phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của người học, cũng như chưa
làm tròn trách nhiệm của một bộ môn tưởng chừng như đơn giản nhưng lại rất
quan trọng đối với mỗi HS.
Trong quá trình giảng dạy GV chưa mạnh dạn trong việc đổi mới
phương pháp dạy học chính vì vậy mà giờ học thường cứng nhắc, một số GV
luôn có tâm lí dạy làm sao cho hết được bài học, không hướng tới HS làm
trung tâm của việc dạy học. Chưa dám mạnh dạn tổ chức các trò chơi trong tiết
dạy, các tiết làm bài tập Lịch sử. Trong dạy học GV có tổ chức trò chơi thì mới
chỉ mang tính chiếu lệ, hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy mà những năm gần
21


đây chất lượng bộ môn Lịch sử là rất thấp. Theo chúng tôi nguyên nhân của
tình trạng trên có thể xác định được là:
Một là: Trình độ giáo viên chưa đều và thật sự không phải GV nào có
khả năng ứng dụng CNTT một cách nhuần nhuyễn. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình giảng dạy và chất lượng giáo dục nói chung và bộ
môn Lịch sử nói riêng .
Hai là: GV chưa giám mạnh dạn đổi mới phương pháp trong quá trình
giảng dạy.
Ba là: Trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy bộ môn ở các nhà trường
thiếu trầm trọng, không đủ lược đồ, bản đồ, đồ phục chế, nhiều trường ở vùng
sâu vùng xa chưa có các phương tiện dạy học hiện đại như máy chiếu, băng
hình, sa bàn…
Bốn là: Điều kiện kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn do
vậy mà ảnh hưởng rất nhiều tới điều kiện dạy và học.
• Đối với học sinh:
HS ý thức học tập môn sử chưa cao, đa phần các em chưa xác định được
rõ ràng mục tiêu học tập, chưa thực sự cố gắng trong các tiết học, làm bài tập ở
nhà, đang còn khép kín, đối phó, chưa dám mạnh dạn khi GV yêu cầu trả lời

câu hỏi, chỉ bản đồ, lược đồ… Đặc biệt do quan niệm ăn sâu trong tiềm
thức của phụ huynh và học sinh sử chỉ là 1môn học phụ, không quan trọng
HS học môn Lịch sử với thái độ thờ ơ, xem thường. Dẫn đến một thực trạng
đến đau lòng là HS biết Lịch sử thế giới nhiều hơn Lịch sử Việt Nam, hàng
ngàn bài thi môn sử của HS năm học vừa qua bị điểm kém, HS không lựa chọn
học và thi môn Lịch sử. Có thể nhận thấy một số nguyên nhân sau:
- Môn sử có đặc thù riêng : nhiều sự kiện, nên khó học, khó nhớ.
- HS thì luôn có tâm niệm đây là môn phụ, không có sự hướng nghiệp
rõ ràng khi lựa chọn ôn thi, chọn trường, chọn nghề…. Phụ huynh thờ ơ với bộ
môn sử, thường hướng con em học vào các môn khoa học tự nhiên.
- Xuất phát từ GV, đó là chưa có phương pháp giảng dạy một cách hiệu
quả nhất, cho nên không thu hút được các em trong giờ học.
22


1.5.Một số nguyên tắc khi thiết kế và tổ chức trò chơi.
- Chọn trò chơi phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường;
- Xác định phạm vi, mục đích của trò chơi;
- Chọn trò chơi phù hợp với kĩ năng cần rèn luyện cho HS;
- Tổ chức, biên soạn câu hỏi cho trò chơi phải bám vào “Chuẩn kiến thức - kĩ
năng” của bộ môn;
- Tổ chức trò chơi phải xác định được thời gian: Trừ các trò chơi tổ chức ở các
tiết ngoại khoá (1 tiết hoặc nhiều hơn), các tiết làm bài tập Lịch sử (1 tiết) thì
các trò chơi tổ chức trong tiết dạy chỉ dừng ở thời gian là 4 – 6 phút;
- Trò chơi phải có sức hấp dẫn, thu hút được sự tham gia của HS, tạo không khí
thoải mái, hấp dẫn trong học tập;
- Luôn thay đổi trò chơi để thu hút HS, tuy nhiên phải dựa vào dạng bài, kiểu
bài để thực hiện.
- Khi tổ chức trò chơi GV là trọng tài công bằng, chính xác và là cổ động viên
tích cực của HS tham gia trò chơi, cho điểm hoặc ngợi khen các em trước lớp.

1.6. Khái quát về hình thức một số trò chơi phục vụ công tác giảng dạy môn
Lịch sử.
a. Một số hình thức trò chơi:
Với đặc trưng của bộ môn, ở mỗi khối lớp các thầy cô giáo có thể xây
dựng được một hệ thống trò chơi phong phú, đa dạng với nhiều tên gọi khác
nhau, mục đích khác nhau. Sau đây một số trò chơi mang tính khái quát chung
nhất, quan trọng hơn cả là các trò chơi này đều có thể áp dụng được rộng rãi ở
tất cả các khối lớp và trên tất cả các địa bàn. Hình thức tổ chức “Trò chơi” này
có thể vận dụng cho 1 tiết chuyên đề, bài tập Lịch sử, ngoại khoá, câu lạc bộ,
hoặc áp dụng để GV có thể củng cố bài học. Trong quá trình giảng dạy mỗi
thầy, cô giáo có sự sáng tạo thêm nhiều trò chơi khác nhau, bổ sung làm cho
trò chơi Lịch sử trở thành một hệ thống ngày càng sinh động hơn, phong phú
hơn và được sử dụng nhiều hơn nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác dạy – học
đối với bộ môn Lịch sử. Sau đây là một số trò chơi có thể vận dụng:
* Trò chơi “Điền sơ đồ trống”.
23


Đây là trò chơi mà GV đã chuẩn bị trước sơ đồ trống để cho HS điền
nội dung, với trò chơi này GV dễ dàng áp dụng đối với các bài có liên quan tới
tổ chức bộ máy nhà nước.
* Trò chơi “Điền lược đồ trống”.
Với trò chơi này thì GV chuẩn bị lược đồ, sơ đồ trống trước hoặc nhà
trường có sơ đồ không màu để HS điền kí hiệu của một chiến dịch, một cuộc
khởi nghĩa.
*Trò chơi “ô chữ bí mật”.
Ở trò chơi này GV chuẩn bị hệ thống các ô trống theo chủ đề (nhân vật,
cụm từ tiêu biểu….). HS tìm các chữ cái thích hợp để điền vào ô trống đã cho
theo yêu cầu.
Đây là dạng trò chơi mà GV thường hay sử dụng nhất trong quá trình

dạy học, vì hiệu quả của trò chơi này mang lại là rất cao. Ở trò chơi này có 2
dạng chủ yếu:
- Dạng thứ nhất: Ô chữ có một hàng ngang.
- Dạng thứ hai: Ô chữ có nhiều hàng ngang và có từ chìa khoá bí mật (mô
phỏng trò chơi Đường lên đỉnh Olympia).
* Trò chơi “Lần giở Lịch sử”.
Trò chơi này, GV chuẩn bị những dữ kiện cốt lõi, để trả lời được dữ
kiện cốt lõi sẽ có các gợi ý lần lượt đưa ra theo thời gian, trả lời đúng càng
nhanh và cần ít gợi ý sẽ càng được điểm cao.
* Trò chơi “Ai là người nhớ sự kiện, nhân vật Lịch sử nhiều nhất”.
GV có thể áp dụng đối với các tiết làm bài tập Lịch sử, các tiết ngoại
khoá, phạm vi áp dụng được ở tất cả các khối lớp, tuy nhiên GV nên tổ chức
trò chơi này sau khi học xong một giai đoạn Lịch sử, một triều đại phong kiến,
một hình thái cách mạng… Ở trò chơi này có thể đưa ra hình ảnh và sự kiện để
học sinh trả lời nhanh.
* Trò chơi “Hiểu ý đồng đội”.
GV đưa ra các từ khóa, học sinh trong thời gian nhanh nhất đưa ra gợi ý
để bạn mình nói đúng từ chìa khóa mà giáo viên đã đưa ra.
24


*Trò chơi “Giải thích khái niệm, thuật ngữ”.
GV lồng ghép vào các tiết Làm bài tập Lịch sử để tổ chức trò chơi.
* Trò chơi “Ai là người nhớ nhiều địa danh Lịch sử nhất”.
GV tổ chức các tiết ngoại khoá, hay lồng ghép đối với các tiết làm bài
tập lịch hoặc sử dụng trong tiết học Lịch sử địa phương sẽ dễ tổ chức và dễ
thực hiện.
* Trò chơi “Nhìn hình đoán ý”.
Ở trò chơi này có 2 dạng, tương tự như cuộc thi Đuổi hình bắt chữ:
Dạng 1: Giáo viên chuẩn bị các hình ảnh, trong thời gian quy định học

sinh phải trả lời nhanh chóng được từ khóa mà hình ảnh biểu đạt.
Dạng 2: GV chuẩn bị các từ chìa khóa, HS lên diễn đạt lại từ chìa khóa
bằng hành động mà không dùng lời nói, các HS còn lại đoán từ chìa khóa qua
hành động của bạn mình diễn đạt.
*Trò chơi “Hái hoa - trả lời câu hỏi Lịch sử”.
Áp dụng đối với các tiết ngoại khóa, làm bài tập Lịch sử. GV chuẩn bị
một cây hoa (trong thiên nhiên hoặc hoa giả), trên nhánh hoa có ghi các chủ đề
câu hỏi để học sinh lựa chọn (chủ đề nhân vật; chủ đề sự kiện; chủ đề chiến
tranh; chủ đề văn hoá…) trong mỗi chủ đề có hệ thống câu hỏi để HS trả lời…
b. Các bước tổ chức trò chơi.
Để tổ chức thành công trò chơi, GV phải xác định được các yêu cầu sau đây:
1. Xác định được phạm vi áp dụng của trò chơi.
2. Xác định mục đích áp dụng của trò chơi.
3. Sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh về trò chơi.
4. Tiến hành trò chơi trên lớp. Gồm 05 bước chủ yếu
Bước 1: Giới thiệu tên trò chơi.
Bước 2: Lựa chọn đội chơi.
Bước 3: Quy định thời gian, phổ biến luật chơi.
Bước 4: Tổ chức trò chơi.
Bước 5: Tổng kết (Đánh giá) trò chơi.
25


×