Câu hỏi: Phân tích mối quan hệ biện chứng tồn tại xã hội và ý thức xã hội?
Tại sao nói chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
Mác-Ăngghen, Lê nin luôn luôn nhấn mạnh vai trò sản xuất vật chất xã hội
trong quá trình phát triển của nhân loại, đặc biệt là sự phát triển của LLSX, nhưng
không bao giờ xem nhẹ vai trò của tính tích cực của con người và kiến trúc
thượng tầng. Từ tiếp cận hiện thực của mối quan hệ giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần XH , để XH phát triển theo quy luật tự nhiên, cần nhận thức khách
quan khoa học nguồn gốc, động lực của sự phát triển, và nhất thiết phải thủ tiêu
mọi kìm hãm về xã hội, giai cấp, dân tộc để động lực XH trong LLSX luôn phát
triển. Nếu chúng ta thấm nhuần sâu sắc, biện chứng quá trình vận động của từng
HT KT-XH cũng như quá độ của một HT KT-XH này đến một HT KT-XH cao
hơn thì chắn chắn dễ tiếp thu việc phát triển KT nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường, định hướng XHCN. Vì chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh dạy
chúng ta lấy sự phát triển LLSX, nâng cao đời sống với nhân dân lao động làm
mục đích cao nhất, đó là quy luật, động lực phát triển của XH Việt Nam trongf
thời kỳ quá độ.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và
những quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, nhận thức đúng đắn bản chất của ý thức xã hội và sự chuyển hóa từ tư
tưởng thành hiện thực trong đời sống xã hội có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu lịch
sử xã hội loài người. Trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong phương hướng đổi mới đất nước, Đảng
ta đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát triển văn hóa,
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội”.
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trước hết sinh hoạt vật chất của xã
hội phương thức sản xuất (bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Sinh
hoạt vật chất của xã hội còn bao gồm những sinh hoạt vật chất khác như : trao đổi,
tiêu dùng hàng ngày, kế thừa tài sản ... Điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao
gồm : điều kiện tự nhiên xung quanh, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số
… Trong các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương thức SX là nhân tố cơ
bản vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý thức xã hội và nó làm
thay đổi ý nghĩa của hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự phát triển của
xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những
quan điểm tư tưởng lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền
thống … phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội
nhất định.
Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã hội
thông thường và ý thức lý luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa học, trí
tuệ của ý thức thông thường). Nói cách khác, ý thức xã hội biểu hiện qua tâm lý
xã hội và hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất
khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định
nên ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, nghĩa là mỗi giai cấp đều có những quan
điểm, tư tưởng và tâm lý riêng, không có ý thức chung cho mọi giai cấp mà chỉ có
ý thức chung cho một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng thống trị trong mỗi thời đại
là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế. Giai cấp thống trị luôn tìm cách
hạn chế ý thức của giai cấp bị trị và truyền bá ý thức của giai cấp hình thành của
xã hội.
Khi nghiên cứu về ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ý thức xã
hội trong quan hệ với cơ sở vật chất, với cơ sở kinh tế để nghiên cứu và từ đó
khẳng định ý thức xã hội và tồn tại xã hội có quan hệ biện chứng với nhau.
Trong mối quan hệ đó tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định đến nội dung, khuynh
hướng phát triển của ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội,
phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra, nội dung của
nó là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội tác động đến nhận
thức của chủ thể thì hình thành những quan điểm, tư tưởng, nhận định và thái độ
của chủ thể. Sự phản ánh của ý thức xã hội bao giờ cũng xuyên qua một mắt khâu
là lợi ích, trong xã hội có giai cấp đó là lợi ích của giai cấp. Do đó xem xét nội
dung của ý thức xã hội phải gắn chặt chẽ với quan hệ lợi ích. Mặt khác, ý thức xã
hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phải bất cứ tư tưởng nào, một hình
thức ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp các quan hệ kinh tế của
thời đại mà nó có thể là phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp qua khâu trung gian,
nhưng xét đến cùng bằng cách này hay cách khác nó vẫn phản ánh các quan hệ
kinh tế của thời đại. Tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội còn
thể hiện khi tồn tại xã hội - nhất là phương thức sản xuất - biến đổi thì ý thức xã
hội (những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật …) sớm muộn sẽ biến đổi theo. Thực tiễn
lịch sử đã chứng minh các thời đại khác nhau có những tư tưởng khác nhau đều
bắt nguồn từ sự khác nhau của cơ sở kinh tế và sự thay đổi, phát triển của ý thức
xã hội trước hết là xuất phát từ sự thay đổi và phát triển của phương thức sản xuất.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như là một yếu tố thụ động trái
lại còn nhấn mạnh tác động tích cực, sáng tạo của ý thức xã hội đối với đời sống
kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, nghĩa là tuy
bị tồn tại xã hội quy định nhưng ý thức xã hội lại vừa có tính quy luật, lôgíc phát
triển riêng. Sự thống nhất giữa chức năng phản ánh và chức năng sáng tạo tích
cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội biểu hiện ở chổ ý thức xã hội vừa vượt
trước vừa lạc hậu so với sự phát triển của tồn tại xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội thường xảy ra khi ý thức xã hội không phản
ánh kịp thời sự vận động, phát triển của đời sống xã hội bởi vì ý thức xã hội chí là
cái phản ánh được sinh ra từ tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội thì gắn trực tiếp với
hoạt động thực tiễn nên thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu của ý thức xã hội
còn thể hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của xã hội của xã hội cũ còn
rơi rớt lại vẫn tồn tại dai dẳng sau khi tồn tại xã hội đã thay đổi, bởi vì những tư
tưởng, tâm lý một khi đã ăn sâu vào đời sống xã hội và trở thành lối sống, nếp
nghĩ phong tục, tập quán, thói quen thì nó có tính ổn định tương đối và tồn tại lâu
hơn, không dễ mất đi ngay. Mặt khác, các giai cấp lỗi thời, phản động cũng tìm
cách duy trì những tư tưởng cũa nhằm phục vụ lợi ích của chúng, như lối sống ăn
bám, chây lười lao động, tệ nạn tham nhũng … Lê nin nói rằng: “Một người bệnh
chết đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh nhưng một xã hội mất đi ta không
thể đem chôn cùng những căn bệnh của nó được mà những căn bệnh này rữa ra
xâm nhập vào những con người đang sống”
Những hiện tượng ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi dễ dàng cho nên sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng xây
dựng ý thức xã hội mới (cách mạng tư tưởng) đấu tranh chống lại những âm mưu
và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xóa
bỏ những tàn dư ý thức cũ đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng
tốt đẹp.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết
học Mác đồng thời cũng thừa nhận rằng trong những điều kiện vật chất nhất định,
tư tưởng của con người đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội, phản ánh đúng quy luật vận động và phát
triển của tồn tại xã hội. Từ đó nó đưa ra các dự báo tương lai một cách khoa học,
giúp con người xác định được mục tiêu và lựa chọn những giải pháp, định hướng
cho việc tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người để đạt được mục tiêu
đó. Tuy nhiên khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự kiến
được quá trình khách quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa là trong
trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư
tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh chính xác, sâu
sắc mối quan hệ tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội của một thời đại bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất của
thời đại đó, đồng thời là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế hệ
trước đó tích lũy được. Quan hệ kế thừa nói lên sự phát triển liên tục về tư duy
giữa các thế hệ, tuy nhiên nó không phải là việc sử dụng kế thừa máy móc mà trên
cơ sở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là biện chứng của sự phát triển của ý thức xã
hội, nội dung kế thừa hoặc lọc bỏ xuất phát từ quan hệ về lợi ích và nhu cầu của
giai cấp chi phối. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác
nhau của các thời đại trước. Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh
vực ý thức thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ
của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra
những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử và phải kế thừa, phát huy những
giá trị tinh thần tiến bộ của dân tộc và nhân loại. Tuy nhiên, xét đến cùng thì tồn
tại xã hội vẫn quyết định nội dung và khuynh hướng của sự kế thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái ý thức xã hội đều phản
ánh tồn tại xã hội với những đặc trưng riêng và giữ chức năng xã hội khác nhau,
không thể thay thế cho nhau nhưng lại tồn tại trong sự liên hệ tác động xâm nhập
vào nhau, làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất bị
ảnh hưởng bởi hình thái khác. Trong sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau đó thì tuỳ
điều kiện cụ thể mà một hình thái nào đó có ảnh hưởng lớn hơn nhưng ở xã hội
hiện đại thì ý thức chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Do đó trong quá trình xây
dựng ý thức xã hội mới phải phát triển hài hòa và đồng bộ tất cả các hình thái ý
thức xã hội tránh mâu thuẩn đối lập nhau.
Ý thức xã hội là do tồn tại xã hội quyết định nhưng lại tác động trở lại tồn tại
xã hội. Sự tác động này vừa thể hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vừa
nói lên vai trò của ý thức xã hội. Sự tác động ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
diễn ra hai khuynh hướng khác nhau. Những tư tưởng khoa học và tiến bộ góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại những tư tưởng lạc hậu, phản động thì
cản trở sự phát triển của xã hội. Tính chất và hiệu quả tác động trở lại của ý thức
xã hội phụ thuộc vào các yếu tố : vai trò lịch sử của giai cấp chủ thể của tư tưởng,
trình độ phù hợp của ý thức đối với hiện thực và mức độ truyền bá và xâm nhập
của tư tưởng cả bề rộng lẫn bề sâu trong quần chúng nhân dân. Sự tác động của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội không phải là trực tiếp biến đổi tồn tại xã hội mà
nó tác động thông qua hoạt động của con người ở chỗ ý thức xã hội vạch ra nội
dung vận động và phát triển của tồn tại xã hội, từ đó xác định đúng đắn các mục
tiêu và lựa chọn các biện pháp tối ưu đồng thời hướng dẫn hoạt động cải tạo .
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã hội
và Ý thức xã hội, ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là khi xem xét, giải quyết các
hiện tượng thuộc ý thức xã hội trước hết phải xuất phát từ cơ sở vật chất, cơ sở
kinh tế đã sinh ra nó, đồng thời phải xem xét tính độc lập tương đối. Từ đó khẳng
định được vai trò động lực của những tư tưởng khoa học, tiến bộ.
Từ cơ sở lý luận trên, trong công cuộc cải cách đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Tăng trưởng kinh
tế đi lên gắn liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường xã hội”
Đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội này của Đảng xuất phát từ
nhận thức rõ vai trò quyết định của kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con đường
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế bằng con
đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để thực hiện được
nhiệm vụ này và bảo đảm sự phát triển toàn diện của xã hội thì đi đôi với tăng
trưởng kinh tế phải phát triển văn hóa và giáo dục nhằm phát huy mọi nguồn lực
tinh thần của người Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ: phải kết hợp
hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề
để thực hiện tốt chính sách xã hội, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Như
vậy, với vai trò là nguồn gốc sản sinh ra ý thức xã hội, nền kinh tế phát triển mạnh
tạo điều kiện và là tiền đề cho việc lành mạnh hóa các QHSX, bảo vệ truyền
thống tốt đẹp của từng gia đình và của cả dân tộc.
Đại hội IX của Đảng cũng đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước ta
là “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân”. Nó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư
tưởng cũ vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và
trong nhân dân hiện nay vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã
và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nguyên tố quan trọng tạo
nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích cực năng động sáng tạo của
các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh vực xã hội, được phát huy tinh
thần đoàn kết tương thân tương ái lòng yêu nước ý thức tự hào tự tôn dân tộc
truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp tục giữ gìn và phát
huy. Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế
thị trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần nhưng mặt khác nó lại vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần của xã hội đặc biệt là về tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó
những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận thức và tình trạng suy thoái về đạo đức
lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức
và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa được ngăn
chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng sa sút phẩm chất đạo đức tệ quan
liêu tham nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có chiều
hướng phát triển. Những mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của
Đảng, của chế độ.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao tính
chất đạo đức cách mạng và mục tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng
cần đạt được là xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Để thực
hiện hai nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là : nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là
làm cho chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ cấp bách về văn hóa là xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc : “Hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc
xây dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo
đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan
dung, trọng tình nghĩa, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong giáo dục,
cộng đồng và xã hội” và nêu cao tinh thần trách nhiệm của gia đình trong việc
xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống văn hóa làm cho gia đình thật
sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; ngăn chặn việc phục hồi
các thủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong xã
hội“(VK 9 trang 114-116). Mặt khác, trong công cuộc tiến hành cách mạng tư
tưởng văn hóa, xây dựng con người mới và nền văn hóa mới, ta phải biết chọn
lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn minh, những di sản quý giá do loài
người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại đồng thời
cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai cấp trong việc
kế thừa di sản để lại
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả
kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội
cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã
hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc
làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề
xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do đó, trong
đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo
vệ và khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa, giáo
dục đào tạo, chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ
vào sản xuất, chống tư tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một
mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc thực hiện phân phối công bằng theo lao
động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức
khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực
hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào đoàn
kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương thân
tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa chống tham nhũng, bất công xã
hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái
làm việc đủ sống và nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết
định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã hội
tốt đẹp trong khi kinh tế nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh
tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, Đảng đã xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công
bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là
điều kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới . Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta
mắt bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc
xây dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế
;về việc sử dụng các thành phần kinh tế ….
Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó là lực lượng sản
xuất còn nhỏ bé , chưa phát triển , còn chủ yếu là sản xuất nhỏ , lạc hậu , kinh tế
hàng hoá chưa phát triển . Chúng ta chỉ muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính đến điều kiện thực tế của
đất nước.
Trong bố trí cơ cấu kinh tế ,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư , thường
chỉ xuất phát từ mong muốn đi nhanh , không tính đến điều kiện và khả năng
thực tế đề ra những chỉ tiêu kế hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát triển
sản xuất .
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có hiện
tượng nóng vọi muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa ,
nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là
phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng bước đi thích
hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát triển
lực lượng sản xuất .
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu ,yếu
kém về lý luận ,do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ
quan liêu bao cấp .
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài
học :”Đảng ta luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan . Năng lực nhận thức và hành động theo qui luật là điều kiên đảm bảo
sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng ” (VKĐH 6, trang 30 ).
Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng ,phải thừa nhận và tôn
trọng tính khách quan của vật chất , của các qui luật tự nhiên và xã hội , không
được xuất phát từ ý muốn chủ quan .