Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo bộ luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.8 KB, 79 trang )

Trần

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN NGUYỄN NAM PHƢƠNG

NGƢỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC
VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS BÙI ĐĂNG HIẾU

HÀ NỘI - 2013


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của


riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Nguyễn Nam Phƣơng


MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.

Đặt vấn đề ............................................................................................. 1

2.

Nội dung và phương pháp nghiên cứu ................................................. 6

3.


Kết cấu nội dung của luận văn ............................................................. 7

4.

Tài liệu tham khảo ................................................................................ 7

Chƣơng 1: THỪA KẾ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT
THỪA KẾ Ở VIỆT NAM .................................................................. 8
1.1.

Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế .................................................... 8

1.2.

Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam .............................. 12

1.3.

Khái niệm về di chúc và đặc điểm của di chúc .................................. 21

1.3.1. Khái niệm về di chúc .......................................................................... 21
1.3.2. Đặc điểm của di chúc ......................................................................... 24
1.4.

Năng lực của người lập di chúc.......................................................... 27

Chƣơng 2: NGƢỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI
DUNG DI CHÚC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 ....... 31
2.1.


Vấn đề hạn chế quyền của người lập di chúc ................................. 31

2.2.

Chủ thể và điều kiện hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung
di chúc ................................................................................................ 38

2.3.

Cách xác định kỷ phần bắt buộc của người được hưởng di sản
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc .................................... 41

2.4.

Trình tự thụ hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc ........................................................................................ 47


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Chƣơng 3: MỘT SỐ TRƢỜNG HỢP TRANH CHẤP VỀ DI SẢN
THỪA KẾ VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
THỪA KẾ ......................................................................................... 53
3.1.


Một số trường hợp tranh chấp về di sản thừa kế và cách giải quyết ....... 53

3.1.1. Trường hợp thứ nhất........................................................................... 53
3.1.2. Trường hợp thứ hai............................................................................. 55
3.1.3. Trường hợp thứ ba .............................................................................. 56
3.1.4. Trường hợp thứ bốn ........................................................................... 58
3.1.5. Trường hợp thứ năm........................................................................... 60
3.2.

Những kiến nghị về hướng hoàn thiện các quy định về thừa kế ........ 61

3.2.1. Một số vấn đề còn vướng mắc và giải pháp thực hiện ....................... 61
3.2.2. Kiến nghị ............................................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Một trong những quyền cơ bản của công dân là quyền thừa kế. Quyền
thừa kế gồm quyền của người để lại di sản thừa kế và quyền của người được
hưởng di sản thừa kế. Quyền cơ bản này của công dân đã được ghi nhận trong
nhiều văn bản pháp luật từ thời trước cho đến hôm nay.
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản
của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế;
người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc
theo pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất kỳ chế
độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các

chế định pháp luật nói chung và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất
chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong
quá trình phát triển của một chế độ xã hội nói riêng.
Ở nước ta, lần đầu tiên pháp luật thành văn cũng đã quy định vấn đề
này trong chương “Điền sản” [8] của Bộ Quốc triều hình Luật (hay còn gọi là
Bộ luật Hồng Đức). Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, qua nhiều biến cố lịch
sử vấn đề thừa kế vẫn được ghi nhận và mở rộng hơn qua các văn bản pháp
luật như: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992,
Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm
2005. Pháp luật thừa kế được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với các quan
hệ xã hội xã hội chủ nghĩa, theo đó quyền và lợi ích về tài sản của công dân
được chú ý bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Lịch sử đã cho thấy rằng, quyền thừa kế nói chung và quyền thừa kế
theo di chúc nói riêng của công dân Việt Nam có sự biến đổi theo hướng ngày
càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua

1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

các thời kỳ. Xét riêng về diện thừa kế, thì quyền thừa kế của công dân Việt
Nam được mở rộng tương ứng với quan điểm, cách nhìn nhận đúng đắn hơn
đối với mối quan hệ giữa người có tài sản để lại và những người thừa kế.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều
chủ trương, đường lối nhằm đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần; nhiều hình thức sở hữu được thừa nhận như một quy luật
tất yếu, trong đó hình thức sở hữu tư nhân đã có được vị trí quan trọng. Việc
thực hiện tốt các chủ trương, đường lối đó đã tạo thêm cơ sở cho sự phát triển
quyền thừa kế của công dân Việt Nam.
Các đạo luật cơ bản (Hiến pháp) từ trước đến nay đều thể hiện
nguyên tắc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của
công dân. Pháp luật về thừa kế từ trước đến nay đã nhất quán trên nguyên
tắc cơ bản này và đã điều chỉnh kịp thời các quan hệ trong lĩnh vực thừa kế,
cũng như tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết những tranh chấp
phát sinh từ quan hệ thừa kế.
Về thừa kế theo di chúc: Nguyên tắc cơ bản là tôn trọng quyền tự định
đoạt của người lập di chúc. Bên cạnh đó, cũng cần phải bảo vệ quyền lợi tối
thiều cho những người gần gũi thân thích nhất của người có tài sản để lại sau
khi chết. Chính vì vậy mà pháp luật đã có những quy định người lập di chúc
phải để lại tài sản thừa kế của mình một phần tối thiểu bằng hai phần ba của
một suất thừa kế nếu di sản thừa kế đó được chia theo pháp luật cho cha, mẹ,
vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả
năng lao động. Đây là một vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu sâu để điều
chỉnh các quy định của pháp luật về thừa kế để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của những người thừa kế, góp phần hoàn thiện hơn nữa những quy
phạm pháp luật về thừa kế ở nước ta.

2


1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Việc nghiên cứu đề tài "Ngƣời thừa kế không phụ thuộc vào nội

dung di chúc theo Bộ luật dân sự năm 2005" nhằm làm rõ loại hình thừa kế
di sản không phụ thuộc vào sự định đoạt theo ý chí của người có tài sản để lại,
hạn chế quyền định đoạt chủ quan của người có tài sản để bảo đảm quyền lợi
cho những người thừa kế khác. Đó chính là việc vừa hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình hình thành và phát triển từ
trước đến nay, vừa phân tích và đánh giá hiệu quả điều chỉnh của chế định
pháp luật này qua các thời kỳ phát triển của xã hội Việt Nam, từ đó một mặt
góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với chế định pháp luật quan trọng
này, mặt khác, giải quyết tốt vấn đề lý luận giúp cho việc thi hành, áp dụng
cũng như hoàn thiện các qui định về thừa kế, nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của chúng.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Xây dựng các khái niệm thừa kế, khái niệm quan hệ pháp luật thừa kế,
khái niệm quyền thừa kế và khái niệm thừa kế theo di chúc, thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc ... Phân tích, lập luận để làm rõ quá trình xây dựng
và phát triển những qui định pháp luật thừa kế ở nước ta từ trước đến nay để
đánh giá nội dung những qui định về thừa kế qua từng giai đoạn phát triển.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài: "Ngƣời thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc theo Bộ luật dân sự năm 2005" trong luận văn này có được
những điểm mới sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện các khái niệm như: Thừa kế, quan hệ pháp
luật thừa kế, quyền thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc để làm rõ tính đặc thù của thừa kế, từ đó góp phần vào

3


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho

kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

việc hoàn thiện hơn khoa học luật trong lĩnh vực thừa kế nói riêng và trong
lĩnh vực dân sự nói chung;
- Hệ thống hóa những quy định thừa kế theo di chúc về từng vấn đề lớn
cụ thể qua các giai đoạn lịch sử để phân tích và đưa ra những nhận định làm
sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển pháp luật thừa kế ở nước ta;
- Phân tích, làm sáng tỏ quyền thừa kế của công dân Việt Nam qua các
giai đoạn lịch sử được củng cố, mở rộng và bảo vệ trong mối liên hệ hữu cơ
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta qua mỗi giai đoạn, mỗi thời
kỳ lịch sử nhất định, từ đó xác định được tầm quan trọng của chế định pháp
luật này trong hệ thống pháp luật dân sự nước ta;
- Từ lý luận và phân tích hiệu quả điều chỉnh các quy định thừa kế
trong thực tiễn, có phát hiện những quy định thiếu tính khái quát, tính đồng
bộ, toàn diện đang tồn tại, đưa ra những kiến nghị cụ thể về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều luật và một số vấn đề khác chưa được qui định cần được bổ
sung như: Quyền của các chủ nợ của người để lại di sản và của người thừa kế
di sản...) trong Bộ luật Dân sự cho phù hợp, có hiệu lực cao và lâu dài trong
đời sống xã hội.
- Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các quy phạm pháp luật thừa kế
nhưng vấn đề về thừa kế theo di chúc chưa được đề cập nhiều. Vì vậy tác giả
chọn đề tại: “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ
luật dân sự năm 2005” để nghiên cứu nhằm phát hiện những khó khăn,
vướng mắc trong thực tiến áp dụng pháp luật. Từ đó đưa ra các kiến nghị để
chế định thừa kế theo di chúc ngày càng hoàn thiện hơn.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm
pháp luật Việt Nam về thừa kế từ khi ban hành Bộ luật Hồng Đức, qua các
giai đoạn phát triển của lịch sử đến nay. Do mức độ phức tạp trong lĩnh vực

4


thừa kế nói chung và vấn đề thực tiễn của nước ta nói riêng, trong bản luận
văn chỉ đề cập đến vấn đề thừa kế theo Bộ luật dân sự năm 2005. Cùng với
việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật, trong bản luận văn cũng đề cập và
phân tích thực tiễn thi hành và áp dụng các quy phạm thừa kế. Ngoài ra, khi
phân tích các quy định cụ thể, cũng đề cập đến một số quy định tương ứng
trong pháp luật một số nước hiện nay để so sánh và đưa ra những kết luận,
kiến nghị có tính tham khảo nhất định.
Thừa kế vừa là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và
phát triển khá phong phú. Chế định thừa kế được qui định trong Bộ luật dân
sự năm 1995 (có hiệu lực từ ngày 01/7/1996) đã hoàn thiện hơn. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu khoa học về thừa kế theo di chúc cũng không
nhiều. Một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trên các báo... mới chỉ
dừng ở mức độ trả lời các câu hỏi về áp dụng pháp luật vào quan hệ thừa kế
cụ thể hoặc mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh như: Về thời điểm mở
thừa kế, thừa kế theo pháp luật, di chúc chung của vợ chồng, ...
Vấn đề thừa kế nói chung còn được nghiên cứu khái quát ở một số sách
chuyên khảo có tính chất phổ thông, như: "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về
thừa kế" của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế" của Tiến sĩ
Đinh Văn Thanh và Luật sư Trần Hữu Biền, .... Ngoài ra, trong thời gian qua
đã có một số công trình nghiên cứu ở bậc sau đại học, các luận văn thạc sĩ của
tác giả: Nguyễn Thị Vĩnh, Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; Chế Mỹ Phương Đài,
Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật, Viện

Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật; Phùng Trung Tập, Thừa kế theo pháp luật
của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Luận án tiến sĩ Luật, Đại học
Luật Hà Nội; Phạm Ánh Tuyết, Thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự
Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Hồng Nam, Các

5


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

điều kiện có hiệu lực của di chúc, Luận văn thạc sĩ Luật, Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội.
Việc chọn đề tài "Ngƣời thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của
di chúc theo Bộ luật dân sự năm 2005” để làm luận văn thạc sĩ luật không
có sự trùng lặp nào đối với các đề tài đã thực hiện.
Nội dung chính của luận văn bao gồm:
- Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế
- Các nguyên tắc pháp luật thừa kế
- Khái niệm về di chúc và đặc điểm của di chúc
- Năng lực của người lập di chúc
- Vấn đề hạn chế quyền cua người lập di chúc
- Chủ thể và điều kiện hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của
di chúc.
- Cách xác định kỷ phần bắt buộc của người được hưởng di sản không

phụ thuộc vào nội dung của di chúc
- Trình tự thụ hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
- Kiến nghị đề nghị sửa đổi những điểm bất cập về người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong Bộ luật dân sự 2005: về tên
gọi của Điều 669 Bộ luật dân sự 2005, về chủ thể được hưởng di sản theo
Điều 669 Bộ luật dân sự, về quyền và nghĩa vụ của người được di tặng.
2. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
Bản Luận văn nghiên cứu các quy định về vấn đề thừa kế trong Bộ luật
Dân sự 2005. Ngoài ra còn nghiên cứu thêm pháp luật thừa kế qua các thời kỳ
lịch sử của đất nước ta và một số quy định về thừa kế của một số nước trên
thế giới để so sánh, phân tích các quy định về thừa kế, từ đó đưa ra các kiến
nghị nhằm hoàn thiện hơn vấn đề thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam để

6


việc áp dụng pháp luật về vấn đề này trong thực tiễn xét xử của tòa án không
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành đã được sử
dụng hợp lý trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, như phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê... để làm sáng tỏ các vấn
đề được đặt ra và giải quyết trong luận văn
3. Kết cấu nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 10 mục.
4. Tài liệu tham khảo
Tài liệu nghiên cứu chủ yếu của bản luận văn là Bộ luật Dân sự 2005.

Ngoài ra bản luận văn này còn tham khảo thêm các quy định pháp luật về
thừa kế của các văn bản khác: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp
1980, Hiến pháp 1992, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật Dân sự 1995 và
các văn bản pháp luật của một số nước trên thế giới với phương pháp tổng
hợp, so sánh, phân tích để kiến nghị sửa đổi những điểm bất cập nhằm hoàn
thiện hơn các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung cũng như các quy
định của pháp luật về thừa kế theo di chúc nói riêng.

7


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Chương 1
THỪA KẾ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT THỪA KẾ
Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
Người có quyền thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam là công
dân, tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về cá nhân được thể hiện theo hai chủ thể
nhất định, đó là chủ thể để lại tài sản (quyền của người để lại di sản) và chủ
thể hưởng thừa kế di sản (quyền của người nhận di sản). Quyền thừa kế thuộc
về tổ chức được thể hiện theo một chủ thể nhất định, đó là chủ thể hưởng thừa
kế di sản (và chỉ trong trường hợp thừa kế theo di chúc).
Khi xem xét về vấn đề thừa kế thì di sản là một trong những vấn đề

được quan tâm trước tiên. Di sản là cơ sở để thiết lập di chúc bên cạnh các
căn cứ khác. Chỉ khi di sản còn tồn tại trên thực tế thì người lập di chúc mới
có “cái” để định đoạt.
Những người được thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ
thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Người có hay không có năng lực hành vi
hoặc người có năng lực hành vi không đầy đủ đều có quyền hưởng di sản thừa
kế. Trong trường hợp này, người giám hộ sẽ thực hiện giúp những người này
các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi di sản họ được hưởng.
Khi nhà nước ra đời, mỗi nhà nước đều sử dụng một công cụ hữu ích
để quản lý xã hội là pháp luật. Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu trong
đời sống xã hội, thừa kế đã được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật dân
sự, một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ về tài sản giữa các chủ thể bình
đẳng về địa vị pháp lý.
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ
thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài
sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác.

8


Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc không nhận di sản
(trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Đối tượng của thừa kế là các tài
sản thuộc quyền của người đã chết để lại (trong một số trường hợp người để
lại tài sản có thể chỉ để lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản. Ví dụ: Ông
Nguyễn Văn A có hợp đồng thuê quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn B
với thời hạn là 10 năm (từ năm 2005 đến năm 2015) để trồng cây ăn quả. Đến
năm 2012 thì ông A qua đời. Các con của ông A là C, D, E được thừa kế hoa
lợi phát sinh từ việc trồng cây ăn quả của ông chứ không được thừa kế quyền
sử dụng đất để trồng cây ăn quả đó).
Nhìn nhận một cách tổng quan nhất thì “thừa kế là việc dịch chuyển

tài sản của người đã chết cho người còn sống” [34]. Về mặt ngữ nghĩa thì
thừa kế là thừa hưởng một cách kế tục. Theo phương diện này, Từ điển
Tiếng Việt đã định nghĩa: “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”
[34]. Về mặt nội dung thì thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản từ người
chết cho người còn sống.
Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống
được hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có Nhà nước và
pháp luật, thì nó được thực hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế.
Khi Nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật, nhà nước tác động đến quá trình dịch
chuyển tài sản nói trên, trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di
sản của các chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp
luật nên từ đó, quá trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế. Nói
cách khác, khái niệm quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý mà nội dung của
nó là xác định phạm vi các quyền, các nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực
thừa kế. Quyền thừa kế chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có giai cấp và
Nhà nước. Bên cạnh nội dung kinh tế, quyền thừa kế còn bao hàm ý chí của
Nhà nước. Nghĩa là, việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn
sống phải hoàn toàn tuân thủ các quy định của pháp luật.

9


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


Khi chưa xuất hiện Nhà nước, thừa kế được dịch chuyển theo phong
tục, tập quán của các thị tộc, bộ lạc, thì khi Nhà nước xuất hiện, quá trình dịch
chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống đã có sự tác động
bằng ý chí của Nhà nước. Giai cấp thống trị thông qua quyền lực nhà nước để
áp dụng các phương pháp cưỡng chế nhằm tác động đến các quan hệ xã hội
làm cho các quan hệ đó phát sinh, phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp
mình. Nghĩa là khi có Nhà nước thì mọi quan hệ cũng như mọi sự kiện xảy ra
trong đời sống xã hội đều được pháp luật điều chỉnh. Thừa kế trong xã hội đã
có nhà nước cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật.
Vì thế, có thể nói rằng: khái niệm quyền thừa kế được xuất hiện và chỉ
xuất hiện chừng nào có sự xuất hiện nhà nước và pháp luật.
Khi xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có Nhà nước và pháp luật thì
đã có khái niệm về thừa kế. Nhưng chỉ khi xã hội đã phân chia giai cấp và có
Nhà nước thì khái niệm về quyền thừa kế mới ra đời.
Nhà nước quy định quyền để lại thừa kế và quyền nhận thừa kế của các
chủ thể qua việc ban hành các văn bản pháp luật để quy định trình tự và các điều
kiện dịch chuyển tài sản cũng như quy định các phương thức dịch chuyển tài sản
từ người đã chết cho người còn sống khác. Quyền thừa kế sẽ được quy định các
nhau trong mỗi chế độ xã hội khác nhau. Ở từng giai đoạn khác nhau trong một
chế độ xã hội thì quyền thừa kế cũng được quy định khác nhau. Chế độ thừa kế
phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của một Nhà nước.
Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của chế độ xã hội, pháp
luật cũng có quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế.
Sự thay đổi đó được thể hiện thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật. Các quy phạm này không những phụ thuộc vào sự thay đổi của quan
hệ sở hữu trong các chế độ xã hội khác nhau, mà còn phụ thuộc vào mức độ
phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là quan hệ pháp luật về thừa

10



kế có sự biến đổi. Quan hệ thừa kế thể hiện rõ nét sự phát triển kinh tế - xã hội
của các chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội trong từng giai đoạn
phát triển nhất định. Khi đó quan hệ thừa kế không những là phạm trù pháp
luật, mà còn được hiểu như là một phạm trù lịch sử.
Như những phân tích ở trên, có thể nói rằng, quan hệ thừa kế là một
phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử
phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Pháp luật về thừa kế xác định quyền thừa kế là quyền của cá nhân trong
việc để lại di sản và quyền của những người nhận di sản thừa kế để điều chỉnh
mối quan hệ về thừa kế.
Như đã lập luận ở trên thì quan hệ thừa kế là một loại quan hệ pháp luật
phát sinh từ sự kiện chết của một cá nhân (chủ sở hữu tài sản) và khi có người
thừa kế thực hiện quyền thừa kế của họ, khi đó tài sản và quyền sở hữu tài sản
(di sản) của người chết được chuyển giao cho cá nhân hoặc tổ chức, gọi
chung là người thừa kế.
Thừa kế là quan hệ tài sản có tính đặc thù. Tính đặc thù được thể hiện
như sau: trong các quan hệ dân sự khác, khi xác lập giao dịch các bên chủ thể
đều còn sống và ý chí của các bên được thể hiện đồng thời, còn quan hệ thừa
kế di sản chỉ phát sinh khi bên có tài sản chết hoặc được xác định là đã chết.
Vậy, thừa kế được hiểu là "sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người
còn sống".
Quyền thừa kế cần được hiểu theo hai phương diện: khách quan và
chủ quan:
- Quyền thừa kế được hiểu là tổng hợp các quy định pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chuyển dịch tài sản và quyền sở
hữu tài sản (di sản) của người chết cho người còn sống. Đây là phương diện
khách quan.

11



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

- Quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự cơ bản của công dân
được để lại tài sản của mình cho những người còn sống và quyền của công
dân được nhận di sản theo sự định đoạt của người có tài sản (bằng di chúc)
hoặc theo một trình tự và thủ tục pháp luật nhất định (thừa kế theo pháp
luật). Đây là phương diện chủ quan.
Sự chuyển dịch di sản của người chết cho người còn sống theo mối
quan hệ ràng buộc về huyết thống, gia đình hay thân thuộc giữa người có tài
sản để lại sau khi họ chết và người nhận di sản gọi là thừa kế theo pháp luật.
Nếu họ không thực hiện quyền định đoạt bằng việc lập di chúc hoặc tuy có
lập di chúc, song việc định đoạt đó bị hạn chế bởi pháp luật hay di chúc họ lập
ra không có hiệu lực theo quy định của pháp luật thì việc quy định vấn đề
thừa kế theo pháp luật là để bảo đảm quyền của người có tài sản được để lại
tài sản của họ sau khi chết. Thừa kế theo pháp luật về bản chất là bảo vệ
quyền của những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với
người có tài sản khi người này chết.
Quan hệ thừa kế hay thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản từ một
người đã chết cho người còn. Tương tự như vậy, quyền thừa kế hay quan hệ
pháp luật về thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho
người còn sống khi đã có sự tác động của pháp luật.
Như vậy, thừa kế nói chung là quá trình dịch chuyển di sản từ người đã

chết cho người còn sống. Nếu quá trình dịch chuyển này được thực hiện dựa
trên ý chí của người đã chết thể hiện trong di chúc mà họ để lại sẽ được gọi là:
Thừa kế theo di chúc. Mặt khác, nếu sự dịch chuyển trên được thực hiện
“Theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định” [6,
Điều 674] sẽ được gọi là: Thừa kế theo pháp luật.
1.2. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam
Nguyên tắc pháp luật thừa kế là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo

12


xuyên suốt trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật thừa kế.
Thông qua đó góp phần phản ánh bản chất cũng những đặc trưng cơ bản của
pháp luật ở nước ta. Vì vậy, từ khi hình thành đến nay, những nguyên tắc
pháp luật thừa kế ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với bản chất của nhà nước
ở từng giai đoạn lịch sử.
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam được áp dụng chung
cho cả hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật đã xuất
hiện ngay từ khi có những văn bản pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa.
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế đã thể hiện rõ bản chất và những
đặc trưng pháp luật về thừa kế ở nước ta. Những nguyên tắc pháp luật về thừa
kế ở Việt Nam có thể kể đến cụ thể như sau:
Thứ nhất, nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân:
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được
nhà nước bảo hộ. Quy định này đã được khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp
1992 "... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công
dân" [23, Điều 58]. Trên cơ sở đó, Điều 631 Bộ luật dân sự đã xác định rõ nội
dung của quyền này. Trước hết đảm bảo cho “cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình”[6, Điều 631]; có quyền “để lại tài sản của

mình cho người thừa kế theo pháp luật” [6, Điều 631]; có quyền “hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [6, Điều 631]. Thậm chí là quyền từ
chối nhận di sản thừa kế, được quy định tại khoản 1 Điều 642 Bộ luật dân sự
“Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác”
[6, Khoản 1 Điều 642].
Mặt khác, Nhà nước còn bảo hộ quyền thừa kế, thể hiện trong việc đảm
bảo cho “công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,

13


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác ... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” [23, Điều 58]. Do đó tất cả mọi tài
sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi
người đó chết, được nhà nước tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Đây là một
nội dung quan trọng đánh dấu sự phát triển mới và là bản chất ưu việt của
pháp luật thừa kế ở nước ta.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế
Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần của nguyên tắc cơ bản được
quy định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 "Mọi công dân đều bình đẳng trước

pháp luật" [23, Điều 52] và Điều 5 Bộ luật dân sự “Trong quan hệ dân sự,
các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính,
thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa,
nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau” [6, Điều 5].
Từ sự quy định mang tính khái quát đó, nên trong chế định riêng về
thừa kế (phần thứ 4 Bộ luật dân sự 2005 và Luật Hôn nhân gia đình năm
2000) đã xác định rõ nội dung nguyên tắc này là: "Mọi cá nhân đều bình đẳng
về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo
di chúc hoặc theo pháp luật" [6, Điều 632]. "Vợ, chồng có quyền thừa kế tài
sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế " [26, Khoản 1, Điều 31]
và “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung” [26, Khoản 1 Điều 28].
Do vậy khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ
chồng thì "chia đôi", phần tài sản của người chết được chia theo quy định của
pháp luật. Ngay đối với các con, nhà nước ta không thừa nhận sự phân biệt
đối xử giữa các con, các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình.
Chính vì vậy mà con đẻ, con nuôi, con riêng, con trong giá thú, con ngoài giá

14


thú, con trai hay con gái, có năng lực và hành vi dân sự hay không có năng
lực hành vi dân sự... đều có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều được
hưởng thừa kế bằng nhau nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật.
Tóm lại, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một nguyên tắc
cơ bản trong pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Nó không những phản ánh chế độ
chính trị nói chung mà điều quan trọng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi
công dân trong lĩnh vực về thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt giữa các thành viên
trong gia đình, góp phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững.
Thứ ba, nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm

mở thừa kế
Pháp luật không quy định về độ tuổi và năng lực nhận di sản thừa kế
mà chỉ quy định quyền của cá nhân được hưởng quyền di sản. Do vậy, người
có năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều được nhận di
sản thừa kế theo pháp luật phần ngang nhau nếu họ cùng thuộc hàng thừa kế
được hưởng.
Đối với người đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì chưa có năng lực
pháp luật dân sự. Bởi vì, theo quy định của pháp luật thì năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết,
pháp luật cũng có quy định bảo vệ quyền thừa kế của người con ra đời sau khi
người cha chết mà người con đó còn sống thì được hưởng di sản của cha. Quy
định tại Điều 685 Bộ luật Dân sự phù hợp và thống nhất với Điều 63 Luật
Hôn nhân và Gia đình: “con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ
có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng” [26, Điều 63]. Cũng theo
nguyên tắc trên, tại Điều 685 Bộ luật Dân sự có quy định: “Khi phân chia di
sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì
phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng,
để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra thì được hưởng; nếu chết trước

15


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng” [6, Điều 685]. Pháp
luật còn quy định: trong trường hợp đứa trẻ sinh ra được 24 giờ trở lên rồi sau
đó chết thì đứa trẻ đó vẫn là là được thừa kế.
Người thừa kế là người có khả năng được hưởng di sản theo quy định
của pháp luật và là người phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế để được
hưởng di sản. Nguyên tắc này loại trừ những người có quyền thừa kế di sản
của nhau nhưng đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết
trong cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước
thì họ không được thừa kế di sản của nhau. Những người theo quy định tại
Khoản 1 Điều 643 BLDS: người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để
lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; người
vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; người bị kết
án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; người
có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập
di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản” [6, Điều 643]
cũng không phải là người thừa kế theo pháp luật do đã bị tước quyền thừa kế.
Những người từ chối nhận di sản thừa kế hợp pháp cũng không được hưởng
thừa kế di sản. Người thừa kế theo quy định của Bộ luật Dân sự không thể
nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác, như đã từng quy định tại
Điều 31 Pháp lệnh thừa kế.
Thứ tư, nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người để lại di sản
và người hưởng di sản
Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ
của pháp luật đối với quyền về thừa kế. Mặt khác nó còn thể hiện một cách

16



đầy đủ nhất các quyền dân sự chủ quan của mỗi cá nhân trong việc định đoạt
toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung của nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt được ghi nhận khá
đầy đủ trong Bộ luật dân sự. Trước hết đối với cá nhân người để lại tài sản với tư
cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền
lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Pháp luật
không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe doạ ... người lập di
chúc. Người để lại thừa kế có thể thực hiện quyền định đoạt thông qua hình thức
di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người làm chứng cho việc lập di
chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở của mình để lập di chúc.
Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền:
“chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định
phần di sản cho từng người thừa kế; dành một phần tài sản trong khối di sản để
di tặng, thờ cúng; giao nghĩa vụ cho người thừa kế; chỉ định người giữ di chúc;
người quản lý di sản, người phân chia di sản” [ 6, Điều 648].
Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu cần có sự thay đổi "ý
nguyện" cũng như nội dung, người lập di chúc còn có quyền “sửa đổi, bổ sung,
thay thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào" [6, Khoản 1 Điều 662].
Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những
trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hiện ngay trong
việc họ không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây
cũng là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để
định đoạt tài sản của họ, mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ
cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật.
Quyền từ chối nhận di sản thừa kế được pháp luật cho phép nếu phù
hợp với điều kiện, nguyên tắc, thời hạn theo quy định của pháp luật. Nhưng
nếu người được hưởng thừa kế từ chối hưởng di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ

17



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

về tài sản của bản thân cá nhân họ với người khác thì pháp luật không chấp
nhận. Điều kiện kinh tế của người có quyền hưởng thừa kế trước khi nhận di
sản là không thỏa mãn cho việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản người đó với
người khác nhưng do muốn trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản đó mà
đã thể hiện quyền tự do ý chí của mình bằng việc không nhận di sản thì không
được pháp luật thừa nhận, người thừa kế này buộc phải nhận di sản để thực
hiện nghĩa vụ tài sản với người có quyền.
Từ chối quyền hưởng thừa kế theo di chúc cũng là sự thể hiện ý chí của
người được chỉ định thừa kế theo di chúc đã không nhận thừa kế theo sự định
đoạt của người để lại di sản.
Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc đồng thời là người thuộc
hàng thừa kế theo pháp luật được hưởng di sản thì việc thực hiện ý chí của
người đó có thể xảy ra các trường hợp sau:
- Từ chối hưởng thừa kế theo di chúc mà không từ chối quyền hưởng
thừa kế theo pháp luật, nếu di sản chia theo pháp luật, người này vẫn thể hiện
ý chí nhận kỷ phần di sản được thừa kế theo pháp luật;
- Chỉ từ chối hưởng thừa kế pháp luật mà không từ chối quyền hưởng
thừa kế theo di chúc;
- Từ chối cả quyền hưởng thừa kế theo di chúc và từ chối quyền hưởng
thừa kế theo pháp luật.

Đối với cá nhân có quyền hưởng di sản, pháp luật nước ta quy định
người thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của người
để lại di sản phù hợp với những điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật
đã quy định:
"1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc
từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với
người khác.

18


2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối
phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phải chia
di sản, công chứng nhà nước, UBND xã, phường nơi có địa điểm mở thừa kế
về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời điểm từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế
... đồng ý nhận thừa kế" [6, Điều 642].
Nội dung các nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của người để lại
di sản và người hưởng di sản ngày càng được bảo đảm, mở rộng cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, nguyên tắc người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ về tài sản
do người chết để lại
Người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản. Theo quy
định trên, việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thuộc về
người hưởng di sản. Nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại mà người hưởng
di sản thực hiện được hiểu là người thừa kế quyền tài sản đồng thời phải thực
hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại trong phạm vi kế quyền đó.
Nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại không phải là di sản thừa kế.
Di sản thừa kế chỉ là những tài sản do người chết để lại được đem chia thừa

kế. Sự thanh toán về nghĩa vụ tài sản do người chết để lại chính là xác định
di sản để chia thừa kế hoặc không còn di sản để chia. Di sản thừa kế là
những tài sản của người chết để lại được chia cho những người có quyền
hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên những quyền tài sản và
nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân người chết thì không phải là di
sản thừa kế, vì nghĩa vụ gắn liền với nhân thân người chết chấm dứt cùng
thời điểm mở thừa kế. Người hưởng di sản theo quy định của pháp luật chỉ
phải thanh toán nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại trong phạm vi di

19


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

sản của người đó. Nguyên tắc này cũng đã được quy định: “Khi nhận thừa
kế thì các chủ nợ của người chết cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản
để lại”. Và: “Người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản
do người chết để lại”.
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định di sản thừa kế của người
chết để lại. Có quan điểm cho rằng di sản thừa kế là toàn bộ tài sản và nghĩa
vụ về tài sản do người chết để lại được chuyển cho người thừa kế. Vì người
thừa kế phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại trong
phạm vi di sản nhận được nên nghĩa vụ về tài sản của người chết nằm trong
phạm vi di sản của người đó. Quan điểm khác cho rằng di sản thừa kế là tài

sản do người chết để lại để chia thừa kế, còn nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại đối với người khác không phải là di sản thừa kế của người đó mà
chỉ đơn thuần là nghĩa vụ chưa được thực hiện. Nó sẽ được thực hiện bởi
những người thừa kế nhưng phải bằng tài sản của người để lại nghĩa vụ đó
người đã chết.
Người thừa kế được xác định có quyền hưởng di sản thừa kế của người
chết nhưng nếu di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ về tài
sản của chính người đó thì quyền hưởng di sản thừa kế của người được thừa
kế cũng không phát sinh. Người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại bằng chính tài sản của người chết đó và trong phạm vi giá trị
của tài sản đã nhận được. Người thừa kế không phải là người thứ ba thực hiện
nghĩa vụ, mà là người thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài
sản của người chết đó.
Theo quy định tại Điều 293 Bộ luật dân sự 2005: “Thực hiện nghĩa vụ
dân sự thông qua người thứ ba.
Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể uỷ quyền cho
người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng vẫn phải chịu trách

20


nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ dân sự.” [6, Điều 293]
Và Ðiều 361 Bộ luật dân sự: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây
gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được
bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên
bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình.” [6, Điều 361]

Người thừa kế không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại nếu người đó chối từ quyền hưởng di sản theo đúng quy định của pháp luật.
1.3. Khái niệm về di chúc và đặc điểm của di chúc
1.3.1. Khái niệm về di chúc
Theo quy định tại Điều 646 Bộ luật dân sự: "Di chúc là sự thể hiện ý
chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết"
[6, Điều 646]. Di chúc chính là phương tiện để phản ánh ý chí của người có
tài sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho người khác hưởng sau khi
người lập di chúc chết. Một người có thể có nhiều bản di chúc định đoạt một
loại tài sản và những di chúc này đều thể hiện ý chí tự nguyện của họ, phù
hợp với những quy định của pháp luật nhưng không phải tất cả các di chúc
trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp luật là di chúc thể
hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định. Theo
quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự 2005, di chúc được thể hiện dưới hai hình
thức: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Pháp luật chỉ cho phép người lập
di chúc miệng trong những trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 651 Bộ
luật dân sự. Về chữ viết trong di chúc cũng được pháp luật quy định: “Người

21


×