Tải bản đầy đủ (.doc) (265 trang)

Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống tòa án ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 265 trang )

Ket-noi.com kho ti liu min phớ

1

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc xây dựng và phát triển đất nớc trong thời kỳ
đổi mới ở nớc ta đã và đang có nhiều triển vọng tốt đẹp
trong mọi lĩnh vực. Bên cạnh đó, những hạn chế, bất cập
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc cũng dần bộc
lộ. Đây là những rào cản lớn trên bớc đờng phát triển của đất
nớc. Bởi vậy, Đảng và Nhà nớc ta đã và đang tiến hành mạnh
mẽ công cuộc cải cách nhằm loại bỏ những khâu bất hợp lý
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nớc, trong đó
có các cơ quan t pháp mà hệ thống Tòa án là một bộ phận
quan trọng.
Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án trong thời gian vừa
qua cho thấy không ít những vụ việc dân sự đã bị giải
quyết kéo dài, gây tâm lý phản cảm, giảm sút niềm tin
trong một bộ phận nhân dân. Một trong những nguyên
nhân quan trọng của tình trạng trên là ở sự bất cập trong
cách thức tổ chức phân cấp thực hiện thẩm quyền giải
quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án. Trên thực
tế, đã có những vụ án dân sự bị xét xử kéo dài hàng chục
năm cha kết thúc và đơng sự vẫn tiếp tục khiếu nại. Có thể
nói, những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết
tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án cha tạo ra một cách
thức phù hợp, hiệu quả, cha đủ khả năng giải quyết các tranh
chấp dân sự, vốn đã phức tạp và ngày càng phức tạp trong



Ket-noi.com kho ti liu min phớ

2

đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật về tố tụng, về tổ chức
Tòa án tuy đã có nhiều sửa đổi những vẫn có những quy
định không phù hợp, mà tập trung nhất là ở vấn đề tổ chức
thực hiện thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự của
Tòa án. Trớc tình hình đó, Đảng ta đã chủ trơng đẩy mạnh
cải cách t pháp cho phù hợp với nền kinh tế thị trờng và quá
trình hội nhập hiện nay. Một trong những nhiệm vụ trọng
tâm là công tác cải cách t pháp.
Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi Ban chỉ đạo
cải cách t pháp của Việt Nam đang xây dựng đề án Chiến lợc cải cách t pháp giai đoạn 2006-2020, mà một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện mô hình tổ chức Tòa án
và thủ tục tố tụng t pháp, xác định "Tòa án là trung tâm của
t pháp, trọng tâm của hoạt động t pháp là hoạt động xét xử
của Tòa án", thì việc nghiên cứu mô hình tổ chức xét xử
dân sự với việc phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp
dân sự theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục
giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm là một vấn đề hết sức cần
thiết về phơng diện lý luận cũng nh về phơng diện thực
tiễn.
Với các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Phân
cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong
hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"
làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chủ trơng của Đảng và Nhà nớc về cải cách

tổ chức, nâng cao chất lợng và hoạt động của các cơ quan t


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

3

pháp, đã có một số công trình khoa học, nhà nghiên cứu lý
luận và thực tiễn, ở những mức độ khác nhau nghiên cứu về
tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân
(TAND). Có thể kể đến Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ:
"Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ
máy nhà nớc qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam" của Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) năm 1996; Đề án: "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của ngành T pháp" của Bộ T pháp năm
1996; Đề tài khoa học cấp Bộ: "Những yêu cầu và giải pháp
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân" của
TANDTC năm 1999; Tiến sĩ Trần Văn Độ: "Đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân" (Tạp chí Nhà nớc và Pháp
luật, số 11/2003)...
Đây là những công trình, bài viết đề cập đến những
nội dung khác nhau, ở một số khía cạnh mang tính riêng lẻ
vấn đề tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án trong
việc thực hiện thẩm quyền xét xử vụ án nói chung hoặc chủ
yếu là các vụ án hình sự. Đề tài "Phân cấp thẩm quyền giải
quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay" là công trình đầu tiên nghiên cứu
kết hợp tất cả những vấn đề về tổ chức, về thẩm quyền về
dân sự của Tòa án và thủ tục tố tụng dân sự, trên cơ sở đó
có cái nhìn tổng quan về hoạt động giải quyết vụ án dân

sự tại hệ thống Tòa án.
3. Mục đích, đối tợng và phạm vi nghiên cứu của
luận án
Trên cơ sở nghiên cứu những quy định về cách thức
tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

4

trong hệ thống TAND và thực tiễn giải quyết về dân sự, luận
án có mục đích xây dựng một mô hình tổ chức xử án dân
sự thực sự khoa học, có khả năng nâng cao chất lợng xét xử
về dân sự, phục vụ mục tiêu cải cách t pháp.
Đối tợng nghiên cứu của luận án là sự phân cấp thực
hiện thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự trong hệ thống
Tòa án theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám
đốc thẩm, thủ tục tái thẩm về dân sự. Đó là cách thức tổ
chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự
trong mỗi cấp Tòa án cũng nh giữa các cấp Tòa án trong hệ
thống Tòa án. Luận án cũng đã nghiên cứu những bất cập
trong cách thức tổ chức phân cấp thẩm quyền sơ thẩm,
thẩm quyền phúc thẩm, thẩm quyền giám đốc thẩm, thẩm
quyền tái thẩm khi Tòa án giải quyết một tranh chấp dân sự.
Luận án không nghiên cứu sự phân cấp thẩm quyền giải
quyết việc dân sự trong hệ thống Tòa án.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là những quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa
án theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc

thẩm, thủ tục tái thẩm về dân sự. Những quy định về thẩm
quyền giải quyết việc dân sự không thuộc phạm vi nghiên cứu
của luận án.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận án đợc triển khai trên cơ sở lý luận và phơng pháp
nghiên cứu của triết học Mác - Lênin về Nhà nớc và pháp luật,
những quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về xây dựng Nhà
nớc pháp quyền, về cải cách t pháp và cải cách nền hành
chính quốc gia.


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

5

Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử,
những tổng kết của ngành Tòa án, những số liệu thống kê
về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ của các cơ quan
chức năng, d luận xã hội... làm cho những kiến nghị sửa đổi,
bổ sung pháp luật về sự phân cấp thẩm quyền giải quyết
tranh chấp dân sự không những chỉ dựa trên cơ sở khoa học
mà còn có cơ sở thực tiễn.
Phơng pháp nghiên cứu so sánh những quy định tơng
ứng trong pháp luật của các quốc gia khác cũng nh trong cổ
luật của Việt Nam làm vấn đề đợc nghiên cứu trong tính hệ
thống, từ đó cho phép đa ra những kiến nghị về mô hình
tổ chức sự phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân
sự trong hệ thống Tòa án một cách toàn diện và đầy đủ
hơn.
Những phơng pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền

thống cũng đợc áp dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài
nh phơng pháp tổng hợp, tiếp cận hệ thống, lịch sử, thống
kê v.v...
5. Những điểm mới của luận án
Luận án với đề tài "Phân cấp thẩm quyền giải quyết
tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay" là công trình đầu tiên nghiên cứu một
cách hệ thống cách thức tổ chức thực hiện thẩm quyền giải
quyết một tranh chấp dân sự theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục
phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự của
hệ thống Tòa án. Luận án có những điểm mới sau đây:


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

6

Một là, luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về thẩm quyền về dân sự của Tòa án, thẩm quyền giải
quyết tranh chấp dân sự, xây dựng một hệ thống khái niệm
liên quan đến nội dung luận án xung quanh vấn đề thẩm
quyền về dân sự và thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân
sự của Tòa án. Từ các nội dung này, luận án đã làm rõ khái
niệm, sự cần thiết, ý nghĩa, vai trò của sự phân cấp thực
hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ
thống TAND.
Hai là, luận án đã đi sâu nghiên cứu những quy định
của pháp luật Việt Nam về phân cấp thẩm quyền giải quyết
tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án qua cách thức tổ
chức thực hiện thẩm quyền sơ thẩm, thẩm quyền phúc

thẩm, thẩm quyền giám đốc thẩm, thẩm quyền tái thẩm về
dân sự của mỗi cấp Tòa án cũng nh giữa các cấp Tòa án với
nhau và thẩm quyền quyết định của mỗi Hội đồng xét xử
sơ thẩm, Hội đồng phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm,
Hội đồng tái thẩm. Từ những nghiên cứu này, luận án đã chỉ
ra những bất cập trong tổ chức thực hiện thẩm quyền giải
quyết tranh chấp dân sự, ảnh hởng trực tiếp đến chất lợng
xét xử về dân sự, là nguyên nhân quan trọng đa việc giải
quyết vụ án dân sự rơi vào tình trạng xét xử lòng vòng qua
nhiều cấp, kéo dài nhiều năm, gây bức xúc và mất niềm tin
trong nhân dân.
Ba là, luận án đã đề xuất những giải pháp nhằm đổi
mới sự phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự,
xây dựng mô hình tổ chức phân cấp thẩm quyền làm bảo
đảm về mặt pháp lý cho việc nâng cao chất lợng xét xử về


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

7

dân sự trong hệ thống Tòa án. Trớc tiên là sự thay đổi việc
tổ chức thẩm quyền tại mỗi Tòa án theo cách thức là có các
Thẩm phán chuyên trách hoặc Tòa chuyên trách thực hiện
thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của cấp Tòa án
đó. Về lâu dài, mỗi cấp Tòa án chỉ nên có một thẩm quyền
giải quyết, theo nguyên tắc mỗi cấp Tòa án tơng ứng với một
cấp xét xử.
Giải pháp thứ hai là việc thay đổi, bổ sung một số quy
định về thủ tục tố tụng, tạo điều kiện cho việc tổ chức

thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự đạt
hiệu quả cao nh quy định thủ tục rút gọn, nguyên tắc tranh
tụng, quyền kháng cáo giám đốc thẩm, kháng cáo tái thẩm
cho các đơng sự.
Giải pháp mang tính đồng bộ là vấn đề tăng cờng và
nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ Tòa án mà trung tâm là các Thẩm phán.
6. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của
luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án là những bổ sung quan
trọng về cơ sở lý luận về tổ chức Tòa án, về thủ tục tố tụng
dân sự liên quan đến sự phân cấp thẩm quyền giải quyết
tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án. Kết quả nghiên
cứu này cho phép tiếp cận với cách nhìn mới, cách đánh giá
mới về những nguyên tắc và cách thức tổ chức Tòa án và
Luật tố tụng dân sự. Đây là những cơ sở lý luận rất quan
trọng để đa ra một cách thức tổ chức phân cấp thẩm


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

8

quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án
có tính mới.
Những giải pháp nhằm hoàn thiện việc phân cấp thẩm
quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án
có thể làm tiền đề cho những công trình nghiên cứu khoa
học, những đề án về hoàn thiện mô hình tổ chức Tòa án,
hoàn thiện hệ thống luật tố tụng và những kế hoạch cụ thể

để nâng cao chất lợng đội ngũ Thẩm phán.
Luận án có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
những nhà nghiên cứu pháp luật và những ngời làm công tác
thực tiễn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chơng, 7 mục.


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

9

Chơng 1 : Một số vấn đề lý luận về phân cấp
thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ
thống Tòa án nhân dân

1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án
nhân dân

1.1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án
1.1.1.1. Một số vấn đề chung về thẩm quyền
Nhà nớc, theo quan điểm của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin, là "sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa đợc" [29, tr. 31]. Đó
là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ
phận chuyên làm nhiệm vụ cỡng chế và thực hiện các chức
năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
những mục đích và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị
trong xã hội. Các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nớc đợc thực

hiện thông qua bộ máy nhà nớc. Bộ máy nhà nớc là hệ thống
cơ quan từ trung ơng tới địa phơng, bao gồm nhiều loại cơ
quan nh cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan t
pháp, cơ quan ngoại giao Thực hiện chức năng, nhiệm vụ
chung của Nhà nớc, nhng mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nớc
có chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn đợc giao. Cơ sở để xác định chức năng, nhiệm vụ và phạm vi
quyền hạn cho mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nớc phụ thuộc
vào các kiểu Nhà nớc và hình thức Nhà nớc.


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

10

Chẳng hạn, trong hình thức Nhà nớc quân chủ, quyền
lực tối cao của Nhà nớc tập trung toàn bộ hoặc phần lớn trong
tay ngời đứng đầu Nhà nớc, thờng đợc gọi là Vua. Cách tổ
chức

này

đã

dẫn

đến

"sự

tùy


tiện



quyền

lực của nhà Vua" hay "quyền lực của Vua là sự tùy tiện" nh
nhận xét của C.Mác [39, tr. 319].
Còn Montesquieu, một nhà xã hội học, một triết gia và
nhà khai sáng ngời Pháp thế kỷ XVIII thì cho rằng, "trong mỗi
quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền
thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi
hành những điều trong luật dân sự" [47, tr. 100]. Theo ông,
thực hiện quyền lực nhà nớc, xét cho cùng là việc tổ chức
thực hiện ba quyền lực trên. Montesquieu đã đánh giá:
Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp
nhập lại trong tay một ngời hay một Viện Nguyên lão,
thì sẽ không còn gì là tự do nữa; vì ngời ta sợ rằng
chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để
thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do
nếu quyền t pháp không tách khỏi quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Nếu quyền t pháp nhập lại với
quyền lập pháp thì ngời ta độc đoán với quyền sống
và quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là ngời
đặt ra luật. Nếu quyền t pháp nhập lại với quyền
hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh đàn
áp. Nếu một ngời hay một tổ chức của quan chức,
hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả
ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết [47, tr.

100-101].


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

11

Những quan điểm của Montesquieu là nền tảng cho
học thuyết "tam quyền phân lập", một học thuyết có ảnh hởng lớn tới tổ chức bộ máy nhà nớc của các Nhà nớc t sản. Có
thể thấy ảnh hởng của học thuyết tam quyền trong Hiến
pháp Mỹ năm 1787, trong tuyên ngôn của Cộng hòa Pháp về
quyền con ngời và quyền công dân năm 1789. Chẳng hạn,
Điều 16 của Bản tuyên ngôn năm 1789 nêu rõ: một xã hội
trong đó không bảo đảm việc sử dụng các quyền và không
thực hiện sự phân quyền thì không có Hiến pháp [90, tr. 6].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi
xây dựng học thuyết về Nhà nớc kiểu mới, đã kế thừa những
hạt nhân hợp lý của các học thuyết chính trị và trên cơ sở
tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giai cấp để đa ra
quan điểm quyền lực nhà nớc thống nhất, không phân chia
và thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền lực đó cho
ngời đại diện của mình là Quốc hội, đó "không phải là cơ
quan đại nghị mà là một cơ quan hành động, vừa lập pháp,
vừa hành pháp các nghị sĩ tự mình cộng tác, tự mình
thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy
tác dụng của những pháp luật ấy, tự mình phải chịu trách
nhiệm trực tiếp trớc cử tri của mình" [28, tr. 33]. Nhng cơ
quan quyền lực cao nhất của Nhà nớc không trực tiếp làm tất
cả công việc mà phân công cho các cơ quan khác trong bộ
máy nhà nớc, trong đó mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ,

có quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định.
Quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta khi xây dựng Nhà
nớc ta là Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

12

nớc thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Điều 2 Hiến pháp năm 2002 của nớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam [44] đã khẳng định: "Quyền lực nhà nớc là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và t pháp".
Quyền lực nhà nớc thực hiện thông qua những cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trớc nhân dân, đợc tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ có sự
phân công, phân nhiệm trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc
thống nhất quyền lực.
Sự phân công, phân nhiệm không chỉ xác định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cơ quan, mà còn tạo ra
những lĩnh vực hoạt động riêng của cơ quan đó trong bộ
máy nhà nớc. Ví dụ, cùng có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nớc, của tập thể;
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của

công dân, nhng TAND có chức năng xét xử, còn chức năng
của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động t pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật
định. Phạm vi hoạt động riêng của từng cơ quan đã tạo ra
thẩm quyền cho mỗi cơ quan nhà nớc.
Thẩm quyền của cơ quan nhà nớc bao gồm lĩnh vực
mà Nhà nớc giao cho cơ quan đó thực hiện. Với thẩm quyền


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

13

của mình, các cơ quan nhà nớc không thể làm thay chức
năng của nhau, không thể thay thế cơ quan nhà nớc này
bằng cơ quan nhà nớc khác để thực hiện chức năng đã đợc
xác định. Thẩm quyền của cơ quan nhà nớc không chỉ xác
định phạm vi hoạt động của từng cơ quan, mà còn phân
định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nớc trong bộ máy
nhà nớc. Sự xác định và phân định này do pháp luật quy
định.
Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan mà
pháp luật quy định cho mỗi cơ quan có một hoặc nhiều
thẩm quyền. Ví dụ, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất của nớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết
định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nớc,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nớc, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nớc. Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nớc cao nhất của nớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có quyền quản lý và điều
hành xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nớc
Khái niệm thẩm quyền gắn liền với chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nớc. Thẩm quyền trở
thành một thuộc tính tất yếu của quyền lực nhà nớc. Từ điển
Luật học đã định nghĩa thẩm quyền là "tổng hợp các quyền


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

14

và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ
chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nớc do pháp luật quy định"
[93, tr. 459]. Giáo trình Lý luận về nhà nớc và pháp luật của
Trờng Đại học Luật Hà Nội cũng cho rằng:
Các cơ quan nhà nớc hoạt động trong phạm vi
thẩm quyền của mình. Thẩm quyền của cơ quan
nhà nớc là toàn bộ những quyền và nghĩa vụ mà Nhà
nớc quy định cho cơ quan đó, phụ thuộc vào vị trí
của mình trong bộ máy nhà nớc. Các cơ quan nhà nớc
khác nhau thì có thẩm quyền khác nhau [85, tr. 204].
Là thuộc tính của quyền lực nhà nớc, khái niệm thẩm
quyền không chỉ gắn với hoạt động của một cơ quan nhà nớc, mà trong nhiều trờng hợp, thẩm quyền còn là quyền hạn
của một cá nhân đợc thực hiện nhân danh quyền lực nhà nớc

theo quy định của pháp luật. Ví dụ, Chủ tịch nớc là ngời
đứng đầu Nhà nớc, thay mặt nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Thủ tớng Chính phủ là thành
viên của Chính phủ, là ngời chịu trách nhiệm trớc Quốc hội và
báo cáo công tác với Quốc hội, ủy ban Thờng vụ Quốc hội, Chủ
tịch nớc. Bộ trởng các bộ là ngời chịu trách nhiệm quản lý
nhà nớc về lĩnh vực, ngành mình phụ trách. Chánh án
TANDTC chịu trách nhiệm báo cáo công tác của ngành Tòa án
trớc Quốc hội. Thẩm phán là ngời có quyền ra bản án Với các
nhiệm vụ nh vậy, các cá nhân này có những quyền hạn,
thẩm quyền nhất định đợc pháp luật quy định. Ví dụ,
Chánh án TANDTC có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

15

hiệu lực pháp luật của TAND các cấp. Thẩm phán có quyền
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi ra bản án.
Giáo trình Luật tố tụng hành chính của Trờng Đại học
Luật Hà Nội cũng cho rằng: "Thẩm quyền là quyền hạn theo
pháp luật quy định, của cơ quan công quyền và công chức
giữ chức vụ nhà nớc nhất định" [84, tr. 29]. Từ điển Tiếng
Việt cũng định nghĩa: thẩm quyền là "quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật" [91, tr.
922].
Từ những phân tích trên, chúng tôi đa ra khái niệm về
thẩm quyền nh sau: Thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà

pháp luật quy định cho một cơ quan, tổ chức hoặc một
công chức đợc xem xét giải quyết những công việc cụ thể
trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức
năng của bộ máy nhà nớc.
1.1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án
Bộ máy nhà nớc ta đợc tổ chức theo nguyên tắc quyền
lực nhà nớc thống nhất, không phân chia, nhng có sự phân
công giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và t pháp. Quyền t
pháp, hiểu theo nghĩa rộng, là toàn bộ các hoạt động bảo vệ
cho hệ thống pháp luật đợc thực thi, bao gồm quyền điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Là một bộ phận của bộ
máy nhà nớc, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền
t pháp của Nhà nớc, với chức năng xét xử. Điều 127 Hiến pháp
2002 khẳng định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án
nhân dân địa phơng, các Tòa án quân sự và các Tòa án


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

16

khác do luật định là những cơ quan xét xử của nớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức TAND
năm 2002 [33] đã quy định cụ thể nhiệm vụ của Tòa án,
trong phạm vi chức năng của mình là bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo vệ
tài sản của Nhà nớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Từ chức năng,
nhiệm vụ của TAND, thẩm quyền của Tòa án đợc xác định

trong phạm vi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết
những việc khác theo quy định của pháp luật. Xét xử là
thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét những hành vi vi
phạm pháp luật, tùy theo mức độ của sự vi phạm, căn cứ vào
quy định của pháp luật để đa ra quyết định nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nớc, của cá nhân, của các
tổ chức và các lợi ích cộng cộng khác. Các quyết định này
có thể là về hình phạt tơng ứng với mức độ vi phạm của ngời
thực hiện trong các vụ án hình sự; có thể là các quyết định
về quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong các vụ án dân sự,
vụ án kinh tế, tranh chấp lao động và vụ án hành chính.
Quyết định của Tòa án thờng thể hiện dới hình thức
bản án. Một số trờng hợp đợc thể hiện dới hình thức quyết
định nh quyết định công nhận sự thỏa thuận của đơng sự,
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án Chỉ có Tòa án mới có quyền ra
bản án hoặc các quyết định này. Bản án, quyết định của
Tòa án là nhân danh Nhà nớc; mọi cơ quan nhà nớc, tổ chức


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

17

xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn
trọng, những ngời và những tổ chức liên quan phải nghiêm
chỉnh thi hành; đợc bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cỡng
chế của Nhà nớc thông qua một hệ thống cơ quan nhà nớc có
chức năng thi hành án là hệ thống cơ quan thi hành án dân

sự.
Thẩm quyền của Tòa án không chỉ xác định phạm vi
công việc của Tòa án mà còn giới hạn phạm vi những công việc
giữa Tòa án với những có quan nhà nớc khác. Ví dụ, giải quyết
những tranh chấp quyền sử dụng đất, theo quy định của
Luật Đất đai năm 2003 [31], nếu có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hoặc có một trong những giấy tờ đợc pháp luật quy
định, tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án; nếu không
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có những giấy tờ
mà pháp luật quy định, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết của ủy ban nhân dân (Điều 136 Luật Đất đai). Trong
trờng hợp này, thẩm quyền của Tòa án cho phép xác định
một vụ việc Tòa án xét xử, giải quyết là có cơ sở pháp lý để
công nhận tính hợp pháp hay không. Nếu Tòa án xét xử, giải
quyết một vụ án không đúng thẩm quyền, thì dù vụ án đợc
giải quyết đúng về nội dung, phán quyết của Tòa án cũng
không đợc công nhận và bị hủy bỏ.
Không chỉ phân định sự khác nhau về giới hạn hoạt
động của Tòa án với cơ quan nhà nớc khác, thẩm quyền của
Tòa án còn định ra giới hạn thẩm quyền cho các Tòa án trong
cùng hệ thống Tòa án. Có thẩm quyền của Tòa án các cấp để
phân định các loại việc thuộc thẩm quyền xét xử theo thủ
tục sơ thẩm; thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ để phân


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

18

định thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm giữa các

Tòa án trong cùng một cấp; thẩm quyền xét xử theo sự lựa
chọn của nguyên đơn để xác định Tòa án có thẩm quyền
sơ thẩm vụ án. Lại có thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ
tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm xác
định quy trình giải quyết một vụ án dân sự qua các cấp và
các Tòa án có thẩm quyền. Đây cũng là loại thẩm quyền của
Tòa án thuộc phạm vi nghiên cứu chính của đề tài luận án.
Trớc khi Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) đợc ban hành,
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Pháp lệnh
TTGQCVADS) [59], Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế [60], Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động [61]
quy định thủ tục giải quyết vụ án dân sự, vụ án kinh tế và
các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Căn cứ vào những Pháp lệnh
này, thẩm quyền của Tòa án còn đợc xác định theo thủ tục
tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục tố
tụng kinh tế hay thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng
lao động. Đây cũng là một loại quy định về thẩm quyền của
Tòa án.
Nghiên cứu để đa ra một khái niệm khoa học về thẩm
quyền của Tòa án có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định phạm vi, cách thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Tòa án. Có quan điểm cho rằng thẩm quyền của Tòa án là
quyền xét xử, bao gồm nhiều mặt, nhiều khía cạnh, mang
tính lịch sử cụ thể quy định quyền xét xử của Tòa án. Nội
dung của nó do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và
các điều kiện khác quyết định [100, tr. 92]. Nếu hiểu nh
vậy thì khái niệm thẩm quyền của Tòa án mới chỉ mang


Ket-noi.com kho ti liu min phớ


19

tính xã hội, cha thể hiện đợc tính quyền lực nhà nớc. Trong
khi đó, thẩm quyền của cơ quan nhà nớc nói chung, có thẩm
quyền của Tòa án nói riêng tồn tại trên cơ sở quyền lực nhà nớc. Thẩm quyền là thuật ngữ đợc gắn với cơ quan công
quyền, là thuộc tính của quyền lực nhà nớc.
Khái niệm thẩm quyền cũng đợc nghiên cứu, đề cập
đến trong pháp luật của nhiều nớc trên thế giới. Tuy có nhiều
cách hiểu và lý giải khác nhau, nhng nhìn chung thẩm quyền
của Tòa án đều đợc thừa nhận là quyền xét xử và quyền
quyết định của Tòa án. Đó cũng là quyền đợc làm những
việc và quyền đợc quyết định về những vấn đề trong
phạm vi pháp luật cho phép của Tòa án. Theo Từ điển pháp
luật của tác giả Lemeunier thì thẩm quyền của Tòa án đợc
hiểu là "khả năng của một Tòa án xem xét một vụ việc trong
phạm vi pháp luật cho phép" [100, tr. 74]. Trong tiếng Anh,
thuật ngữ Jurisdition đợc dùng để chỉ thẩm quyền hoặc
quyền tài phán của Tòa án [99, p.297]. Theo các quan điểm
này, khái niệm thẩm quyền không chỉ đợc phân tích về
bản chất, mà còn chỉ rõ phạm vi thẩm quyền theo diện rộng.
Theo tiến sĩ Wolf Ruecliger, thì "thẩm quyền của Tòa án cần
phân biệt sự khác nhau giữa thẩm quyền theo vụ việc, địa
điểm và thẩm quyền phân cấp" [22, tr. 227].
Từ những phân tích trên, chúng tôi đa ra khái niệm
thẩm quyền của Tòa án nh sau: Thẩm quyền của Tòa án là
toàn bộ những quyền do pháp luật quy định theo đó Tòa án
đợc tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể
theo quy định của pháp luật. Hoặc cũng có thể định
nghĩa, thẩm quyền của Tòa án là quyền xét xử những vụ án



Ket-noi.com kho ti liu min phớ

20

hình sự, giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu về dân sự;
hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thơng mại; lao động;
giải quyết các vụ án hành chính và giải quyết các vụ việc
khác trên cơ sở quyền lực nhà nớc và đợc quy định bởi pháp
luật.
Thẩm quyền của Tòa án có nhiều nội dung, đợc xem
xét dới nhiều góc độ nh thẩm quyền về hình sự, thẩm
quyền về dân sự, thẩm quyền quyết định Mỗi loại thẩm
quyền tạo ra những giới hạn khác nhau cho phạm vi hoạt động
của Tòa án. Ví dụ, một trong những thẩm quyền về dân sự
của Tòa án là loại thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định
của cơ quan nhà nớc khác. Trên cơ sở thực hiện quyền lực t
pháp của Nhà nớc, với t cách là cơ quan xét xử, phán quyết
của Tòa án là nhân danh Nhà nớc, Tòa án có quyền công
nhận hay không công nhận tính hợp pháp của một quyết
định của cơ quan, tổ chức khác. Điều 12 Pháp lệnh
TTGQCVADS quy định: Khi xét xử vụ án dân sự, Tòa án có
quyền hủy quyết định rõ ràng là trái pháp luật của cơ quan,
tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các đơng sự
trong vụ án mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
Hiện nay BLTTDS không quy định thẩm quyền của Tòa
án đối với quyết định của cơ quan, tổ chức khác. Tuy vậy,
theo chúng tôi điều đó không có nghĩa là Tòa án không có
quyền hạn đối với các quyết định của cơ quan, tổ chức

khác, nếu quyết định đó rõ ràng là trái pháp luật, làm ảnh
hởng đến quyền và lợi ích của đơng sự trong vụ án Tòa án
đang giải quyết. Với chức năng là cơ quan xét xử của Nhà n-


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

21

ớc, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ nền công lý. Mọi hành vi vi
phạm pháp luật, cho dù hành vi đó là của cá nhân hay của cơ
quan, tổ chức đều phải chịu sự phán xét của Tòa án. Đó
cũng là một nội dung của thẩm quyền của Tòa án. Việc giải
quyết này có thể đợc thực hiện theo thủ tục tố tụng hành
chính hoặc có thể đợc Tòa án quyết định trong phạm vi
quyền hạn của mình.
Hoặc quy định về thẩm quyền quyết định của Tòa án
xác định phạm vi quyền hạn đối với việc giải quyết vụ án.
Quyền quyết định hay còn gọi là quyền hạn của Tòa án là bộ
phận không thể thiếu của thẩm quyền của Tòa án. Nếu Tòa
án có thẩm quyền xét xử mà không có quyền quyết định,
không ra đợc bản án hay quyết định thì không thể hoàn
thành đợc thẩm quyền của mình. Trong Từ điển tiếng Việt,
quyền hạn là "quyền đợc xác định về nội dung, phạm vi, mức
độ" [91, tr. 815]. Từ điển Luật học cũng định nghĩa: quyền
hạn là "quyền đợc xác định trong không gian, thời gian, lĩnh
vực hoạt động" [65, tr. 402]. Các định nghĩa này cho phép
xác định quyền hạn của Tòa án là quyền quyết định trong
phạm vi pháp luật quy định. ở các cấp, các thủ tục xét xử
khác nhau, quyền hạn của Tòa án khác nhau. Ví dụ, quyền

hạn của Tòa án cấp sơ thẩm, quyền hạn của Tòa án cấp phúc
thẩm, quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.1.2. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án nhân
dân


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

22

1.1.2.1. Khái niệm thẩm quyền về dân sự của
Tòa án
ở các loại việc khác nhau, các thủ tục xét xử khác nhau,
mức độ quyền hạn của Tòa án là khác nhau. Sự khác nhau về
thẩm quyền của Tòa án ở cấp độ này tạo ra phạm vi xét xử
và giới hạn xét xử. Từ điển tiếng Việt định nghĩa, giới hạn là
"phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không đợc
phép vợt qua" [91, tr. 405], còn phạm vi là "khoảng đợc giới
hạn của một hành động, một vấn đề hay một cái gì" [91, tr.
764]. Giới hạn thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án là quyền
xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự; hôn
nhân và gia đình; kinh doanh, thơng mại; lao động; giải
quyết các vụ án hành chính và quyền giải quyết những vụ
việc khác theo quy định của pháp luật. Giới hạn thẩm quyền
theo vụ việc tạo ra phạm vi thẩm quyền về dân sự, về hôn
nhân và gia đình, thẩm quyền về hình sự, thẩm quyền về
kinh doanh, thơng mại, thẩm quyền về lao động, thẩm
quyền về hành chính cho Tòa án.
Thẩm quyền về dân sự của Tòa án là một loại thẩm
quyền của Tòa án. Xét theo mối quan hệ giữa Tòa án với cơ

quan nhà nớc khác, thẩm quyền về dân sự của Tòa án xác
định phạm vi những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án, phân định với những vụ việc về dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà nớc khác. Xét
theo mối quan hệ giữa các Tòa án với nhau thì thẩm quyền
về dân sự của Tòa án trớc hết xác định phạm vi giải quyết
các vụ việc dân sự so với phạm vi xét xử về hình sự và phạm


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

23

vi giải quyết những vụ việc khác thuộc thẩm quyền xét xử,
giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật.
Phạm vi giải quyết các vụ việc dân sự và phạm vi xét
xử về hình sự hình thành trên cơ sở những đặc thù của loại
vụ án hình sự và loại vụ việc dân sự. Đặc thù của vụ án hình
sự là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nớc và kẻ phạm tội,
trong đó, hành vi vi phạm pháp luật mà kẻ phạm tội thực hiện
không chỉ làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, đến tài sản của cá nhân ngời bị hại mà còn bị
coi là nguy hiểm đối với xã hội. Tính chất "công" đợc coi nh
đặc trng của mối quan hệ này. Vì lẽ đó, thủ tục tố tụng
hình sự là một hoạt động đợc tiến hành bởi nhiều cơ quan
tiến hành tố tụng nh cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ
quan Tòa án, trong đó, cơ quan điều tra có chức năng điều
tra vụ án, cơ quan kiểm sát thực hiện việc truy tố và trên cơ
sở đó, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự.
Đối với vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh

doanh, thơng mại, lao động, hành chính, mối quan hệ cần
giải quyết là lợi ích giữa các cá nhân hoặc tổ chức với nhau.
Tính chất "t", "cá nhân" đợc coi là đặc trng trong các mối
quan hệ này. Các tranh chấp này cần sự phán xử của một cơ
quan là Tòa án. Thủ tục tố tụng dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính bắt đầu từ việc Tòa án thụ lý vụ án hoặc thụ lý
yêu cầu về dân sự. Toàn bộ hoạt động chuẩn bị xét xử cũng
nh việc xác minh, xây dựng hồ sơ vụ án và quyết định đa
vụ án ra xét xử đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. Mặt khác, do tính chất dân sự, riêng t của những quan
hệ, nên các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

24

doanh thơng mại, lao động, hành chính không phải lúc nào
cũng phải mở phiên tòa xét xử. Nhiều vụ việc, với sự giải
quyết của Tòa án, đã kết thúc bằng việc hòa giải giữa các đơng sự hoặc bằng việc rút đơn kiện của nguyên đơn.
Thẩm quyền xét xử vụ án hình sự của Tòa án xác
định phạm vi thẩm quyền của Tòa án trong việc ra bản án,
quyết định tại phiên tòa, còn thẩm quyền giải quyết vụ việc
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thơng mại, lao
động, hành chính xác định thẩm quyền của Tòa án trong
việc thụ lý, chuẩn bị xét xử, ra bản án, quyết định về vụ
việc. Thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án có giới
hạn phạm vi rộng hơn so với thẩm quyền xét xử về hình sự.
Thẩm quyền về hình sự của Tòa án là quyền xét xử
của Tòa án giới hạn chính trong phần phiên tòa. Thẩm quyền

về dân sự của Tòa án là quyền quyết định của Tòa án đối
với toàn bộ quá trình tố tụng mà xét xử tại phiên tòa chỉ là
một giai đoạn. Hiến pháp cũng nh Luật Tổ chức TAND xác
định Tòa án là cơ quan xét xử các vụ án hình sự, các vụ án
dân sự và các loại việc khác theo quy định của pháp luật.
Các vụ án này thuộc "thẩm quyền xét xử" của Tòa án. Trong
thực tế cũng nh trong nhiều văn bản, nhiều trờng hợp thờng
sử dụng thuật ngữ "xét xử hình sự" và "giải quyết vụ án
dân sự" hoặc "thẩm quyền xét xử hình sự" và "thẩm
quyền giải quyết dân sự" để chỉ thẩm quyền của Tòa án
trong lĩnh vực hình sự và trong lĩnh vực dân sự. Trong
chừng mực nhất định, "thẩm quyền giải quyết" có phạm vi
rộng hơn "thẩm quyền xét xử" và cũng phù hợp hơn với vai trò


Ket-noi.com kho ti liu min phớ

25

của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, kinh tế, lao
động, hành chính.
Trớc khi có BLTTDS, thủ tục giải quyết các loại vụ án dân
sự, kinh tế, lao động đợc quy định trong các pháp lệnh:
"Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự", "Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế", "Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động". Đối với các vụ án hành chính
thì thủ tục đợc quy định trong "Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính".
Thẩm quyền về hình sự của Tòa án đợc xác định
trong phạm vi "xét xử", thẩm quyền về dân sự của Tòa án

ngoài phạm vi "xét xử" còn bao gồm phạm vi "giải quyết".
Nếu thẩm quyền về hình sự của Tòa án xác định thẩm
quyền xét xử, thì thẩm quyền về dân sự của Tòa án không
chỉ xác định thẩm quyền xét xử, mà còn xác định thẩm
quyền giải quyết của Tòa án. Thẩm quyền xét xử về dân sự
và thẩm quyền giải quyết dân sự là những thuật ngữ đợc sử
dụng để chỉ phạm vi quyền hạn của Tòa án đối với các vụ
việc về dân sự. Vì vậy, trong luận án, ngoài việc sử dụng
thuật ngữ "Thẩm quyền giải quyết về dân sự", một đôi chỗ
vẫn sử dụng thuật ngữ "Thẩm quyền xét xử về dân sự" theo
một số các văn bản pháp luật hiện hành.
Thẩm quyền về dân sự của Tòa án là toàn bộ những
quy định về quyền của Tòa án tiến hành giải quyết vụ việc
dân sự gồm các vụ án dân sự và các việc dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những chủ thể
khác trong phạm vi do pháp luật quy định.


×