Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích một số điểm mới của luật hợp tác xã 2012 so với luật hợp tác xã năm 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.19 KB, 14 trang )

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
LỜI NÓI ĐẦU
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012
và ban hành Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13 (Luật Hợp tác xã 2012) có hiệu lực
thi hành từ 01 tháng 7 năm 2013, thay thế Luật Hợp tác xã số 18/2003/QH12 (Luật
Hợp tác xã 2003). Với mục tiêu nhằm khuyến khích và phát triển mô hình Hợp tác
xã kiểu mới, đồng thời định hướng phát triển các Hợp tác xã hiện có hoạt động
theo đúng bản chất Hợp tác xã. Hoạt động nhằm mục đích tập trung mang lại lợi
ích cho thành viên thông qua việc cam kết cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ,
việc làm theo nhu cầu của thành viên. So với luật Hợp tác xã 2003 thì Luật hợp tác
xã 2012 có rất nhiều điểm mới tiến bộ. Do đó em xin tìm hiểu về đề tài “Phân tích
một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so với luật Hợp tác xã năm 2003”.
NỘI DUNG
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2012
SO VỚI LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2003
I.
Về định nghĩa hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Theo định nghĩa được quy định tại Khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật Hợp tác xã
thì “1. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân,
do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong
2
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của
thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong
quản lý hợp tác xã.
2. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã
thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong


quản lý liên hiệp hợp tác xã.”
Trong khi đó, tại Điều 1 Luật Hợp tác xã 2003 có quy định : “…Hợp tác xã
hoạt động như một loại hình doanh nghiệp…”, Quy định này không chặt chẽ về
pháp luật, không làm rõ được địa vị pháp lý của hợp tác xã trong cơ chế thị trường;
không làm rõ được sự khác biệt giữa hợp tác xã và doanh nghiệp, dễ gây hiểu
nhầm coi hợp tác xã như doanh nghiệp. Điều này cũng gay mâu thuẫn giữa các văn
bản pháp luật có liên quan. Hơn nữa, đối với doanh nghiệp thì mục tiêu chủ yếu là
lợi nhuận còn đối với hợp tác xã thì mục tiêu chủ yếu là tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau về kinh tế, văn hóa, xã hội, đồng thời cũng đặt ra yếu tố lợi nhuận. Như vậy,
việc quy định hợp tác xã hoạt động như một doanh nghiệp đã không làm toát hết
được bản chất của hợp tác xã.
So với Luật Hợp tác xã 2003 thì Luật Hợp tác xã 2012 thực sự là một bước tiến
đột phá trong việc thể hiện bản chất của mô hình hợp tác xã. Luật đã có sự thay đổi
rất lớn trong định nghĩa về hợp tác xã. Bên cạnh việc bỏ những cụm từ “hợp tác xã
hoạt động như một loại hình doanh nghiệp”, “góp vốn, góp sức” như trong các đạo
luật cũ, Luật Hợp tác xã 2012 còn ghi nhận đậm nét mục đích thành lập của hợp
tác xã là vì nhu cầu và nguyện vọng chung của các xã viên. Định nghĩa này đã làm
rõ hơn bản chất đích thực của hợp tác xã là tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh
tế tập thể; được thành lập trên tinh thần tự nguyện ; trên cơ sở và nguyện vọng
3
chung; thể hiện tính chất đối nhân sâu sắc thông qua việc quy định các thành viên
thành lập vừa là đồng sở hữu vừa là khách hàng của hợp tác xã. Định nghĩa này có
những ưu điểm mới sau đây:


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
Thứ nhất, thể hiện được lợi ích và vai trò giữa người chủ và thành viên khi
tham gia hợp tác xã, mục tiêu của hợp tác xã và mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách
nhiệm, lợi ích của thành viên hợp tác xã
Thứ hai, làm rõ được sự khác biệt giữa hợp tác xã với doanh nghiệp, với tổ

chức xã hội từ thiện; không coi hợp tác xã như doanh nghiệp. Khái niệm mới cho
thấy rằng : hợp tác xã là tổ chức kinh tế do các thành viên tự nguyện lập ra nhằm
tối đa hóa lợi ích của từng thành viên. Lợi ích mà hợp tác xã hướng tới không chỉ
là lợi ích kinh tế mà bao gồm cả lợi ích xã hội, lợi ích của các thành viên. Hợp tác
xã lấy con người và lợi ích thành viên làm trung tâm, lấy đối nhân làm nguyên tắc
tổ chức và hoạt động trong khi doanh nghiệp thì hoạt động chủ yếu là cung ứng sản
phẩm, dịch vụ cho thị trường đại chúng với mục tiêu đối đa hóa lợi nhuận cho
doanh nghiệp và vốn góp cho chủ sở hữu, lấy lợi nhuận làm mục tiêu hoạt động và
lấy đối vối làm nguyên tắc tổ chức và hoạt động. Do đó, Luật Hợp tác xã 2012 đã
khắc phục được tình trạng coi hợp tác xã là doanh nghiệp, xóa bỏ thực trạng nhiều
người lầm tưởng hoặc cố tình coi hợp tác xã là doanh nghiệp để thành lập hợp tác
xã nhằm thụ hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Việc phân biệt hợp tác xã với doanh nghiệp còn có ý nghĩa to lớn trong việc
đưa ra các quy định đặc thù đối với hợp tác xã mà từ trước đến nay do không có
được sự phân biệt rõ ràng này nên đã không được quy định một cách đầy đủ trong
Luật Hợp tác xã 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, trên cơ sở tìm
ra các điểm đặc thù của hợp tác xã mà Luật Hợp tác xã 2012 đã bổ sung nhiều quy
định về các vấn đề rất cơ bản liên quan đến bản chất đích thực của hợp tác xã như:
Về giới hạn vốn góp tối đa của một thành viên trong vốn điều lệ của hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã (khoản 1, khoản 2 Điều 17); về sự bắt buộc thành viên phải sử
4


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã và nếu vi phạm nghĩa vụ này thì thành viên
có thể bị khai trừ khỏi hợp tác xã (Điểm e khoản 1 Điều 16); về sự bắt buộc phải
có quy định nhằm hạn chế việc hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra ngoài
cộng đồng thành viên (khoản 4 Điều 8); về nguyên tắc, theo đó, một thành viên,
cho dù địa vị pháp lý của họ là như thế nào đều có một phiếu trong việc giải quyết
các vấn đề liên quan đến hợp tác xã (khoản 5 Điều 14)…

Thứ ba, thể hiện mối quan hệ tự nguyện tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên – là những người có vị thế yếu trên thị trường, đặc biệt là nông dân –
đồng thời làm hài hòa hơn mối quan hệ giữa giới chủ và người làm thuê, tăng thu
nhập và vị thế cho người lao động, tạo sự cân bằng giữa lợi ích của người sản xuất
và của người tiêu dùng mà xét cho cùng là làm cho người tiêu dùng trong xã hội
được hưởng sản phẩm, dịch vụ rẻ hơn, với chất lượng tốt hơn thông qua hợp tác
xã. Đồng thời, định nghĩa này còn thể hiện được đặc trưng phục vụ thành viên của
hợp tác xã nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho từng thành viên, được thành lập là
để liên kết các thành viên lại với nhau, đáp ứng nhu cầu chung của họ về cung ứng
và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ chung để giúp họ nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
tế, cải thiện nhu cầu đời sống của mình.
II . Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã.
Điều 7 Luật Hợp tác xã 2012 ghi nhận những nguyên tắc tổ chức và hoạt động
mang tính phổ biến trên thế giới thể hiện rõ nét nhất về bản chất của hợp tác xã.
Ngoài những nguyên tắc được kế thừa và làm rõ hơn các nguyên tắc đã quy định
trong Luật Hợp tác xã 2003, Luật Hợp tác xã 2012 ghi nhận hai nguyên tắc mới
được quy định tại khoản 2 và khoản 5 Điều 7. Theo đó, khoản 2 Điều 7 Quy định :
“ Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã thành
viên”. Do trong hợp tác xã, thành viên đóng vai trò là hạt nhân nhưng cũng chính


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
là đối tác, là khách hàng của chính mình nên ta có thể khẳng định một cách chắc
5
chắn rằng không có thành viên thì sẽ không có hợp tác xã. Vì thế mà việc phát triển
thành viên hợp tác xã cũng chính là việc tăng cường nguồn lực, tăng thị trường,
bạn hàng cho hợp tác xã và tạo nên nền tảng để hợp tác xã phát triển bền vững
trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Việc kết nạp rộng rãi thành viên đối
với hợp tác xã thể hiện bản chất của hợp tác xã là phục vụ cộng đồng, đồng thời
phản ánh mục tiêu hoạt động của hợp tác xã là nhu cầu, nguyện vọng chung của

nhiều người nên hấp dẫn nhiều đối tượng tham gia
Bên cạnh đó, Luật Hợp tác xã 2012 còn quy định thêm nguyên tắc về cam kết
kinh tế tại khoản 5 Điều 7, theo đó “thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và
theo quy định của điều lệ. Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được
phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác
xã thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp
tác xã tạo việc làm”. Quy định này cũng phần nào làm tăng lên tính đối nhân trong
hợp tác xã. So với Luật Hợp tác xã 2003, Luật Hợp tác xã 2012 đã quy định cụ thể
hơn về việc thành viên phải cam kết sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã ,
liên hiệp hợp tác xã bằng hợp đồng dịch vụ. Một khi thành viên có hợp đồng với
hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thì trong đó phải có thỏa thuận về phân phối thu
nhập sau khi thực hiện hợp đồng. Quy định này tạo ra cơ sở pháp lý cho việc phân
phối thu nhập dựa vào mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, đồng
thời thể hiện bản chất đặc trưng chỉ có hợp tác xã mới có, đó là nghĩa vụ phải sử
dụng sản phẩm của thành viên và nghĩa vụ phải phục vụ nhu cầu thành viên của
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Việc quy định như vậy đã thể hiện rõ trách nhiệm,


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
sự ràng buộc về kinh tế của xã viên đối với sự tồn tại và phát triển của hợp tác xã.
Khi tham gia hợp tác xã, các thành viên đều mong muốn được sử dụng sản phẩm,
dịch vụ với chất lượng tốt, giá thành rẻ; vì vậy, với quy định mới này thì hợp tác xã
6
được phân biệt hoàn toàn khác so với doanh nghiệp. Đây là hai nguyên tắc quan
trọng nhằm thu hút ngày càng nhiều thành viên tự nguyện tham gia hợp tác xã vì
nhu cầu và nguyện vọng chung. Từ đó góp phần tăng tình đoàn kết xã hội, tăng
cường sự hợp tác có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phù hợp với
nguyên tắc mở cửa quốc tế.
III.

Về vốn góp tối đa của thành viên.
Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 17 Luật Hợp tác xã 2012 thì :
“1. Đối với hợp tác xã, vốn góp của thành viên thực hiện theo thỏa thuận và
theo quy định của điều lệ nhưng không quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã.
2. Đối với liên hiệp hợp tác xã, vốn góp của hợp tác xã thành viên thực hiện
theo thỏa thuận và theo quy định của điều lệ nhưng không quá 30% vốn điều lệ
của liên hiệp hợp tác xã.”
Quy định như vậy khác so với Luật Hợp tác xã 2003 ở chỗ là Luật Hợp tác xã
2003 quy định mức vốn góp của thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đều là
không quá 30%. Vốn góp trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chủ yếu là để xác
nhận tư cách thành viên của hợp tác xã. Nếu như đối với doanh nghiệp, vấn đề hạn
chế việc góp vốn của các thành viên không bao giờ phải đặt ra thì đối với hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã thì đây lại là vấn đề đáng được quan tâm bởi việc quy định
mức vốn góp tối đa của một thành viên sẽ giúp khẳng định bản chất khác biệt của
mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là đề cao nguyên tắc bình đẳng trong quản


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
lý, đề cao nguyên tắc thu hút nhiều người tham gia để có nhiều vốn hoạt động chứ
không phải huy động nhiều vốn từ một hoặc một số ít thành viên nhằm thể hiện
tính chất của một loại quan hệ xã hội giữa những người có nhu cầu chung về kinh
tế, văn hóa, xã hội, có vị thế yếu hơn và có sức cạnh tranh kém hơn trên thị trường.
Việc hạn chế mức vốn góp vào hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của các thành viên
còn xuất phát từ một nguyên tắc có tính chất nền tảng là các thành viên có quyền
7
bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp. Do đó, nếu không hạn
chế mức vốn góp tối đa, để thành viên muốn góp vốn bao nhiêu cũng được thì
nguyên tắc này sẽ bị vô hiệu hóa vì trên thực tế, người có quá nhiều vốn sẽ có thực
quyền hơn so với người góp ít vốn. Mặt khác, nếu để cho một thành viên góp vốn
với tỷ lệ quá cao thì việc rút vốn của thành viên này có thể dẫn đến việc hợp tác xã

phải giải thể hoặc gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh khi vốn góp đã
bị thu hẹp nhiều.
Cũng có quan điểm cho rằng Luật Hợp tác xã 2012 nên tiếp tục thừa nhận mức
vốn góp tối đa cao như Luật Hợp tác xã 2003. Tuy nhiên, nếu quy định mức vốn
góp cao như vậy thì sẽ dẫn đến nguy cơ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chủ yếu
dựa vào vốn góp, thành viên có vốn góp cao sẽ được chia lãi nhiều hơn theo tỷ lệ
vốn góp và về lý thuyết có thể được chia toàn bộ lợi nhuận hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã có được. Như vậy thì hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
không còn mang tính chất đối nhân. Mặt khác, khi một người góp vốn nhiều thì vị
thế, thái độ, trách nhiệm của thành viên đó sẽ khác so với các thành viên khác. Như
vậy sẽ vi phạm nguyên tắc phục vụ từng thành viên không phụ thuộc vào số vốn
góp của hợp tác xã.
IV.


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
Về phân phối thu nhập.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37 Luật Hợp tác xã 2003 thì sau khi
thực hiện xong các nghĩa vụ, lãi của hợp tác xã được phân phối như sau:
“Trích lập quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng và các quỹ khác của hợp tác
xã; chia lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức góp của xã viên và phần còn lại
chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã”
Quy định về phân phối lợi nhuận của Luật Hợp tác xã 2003 chưa gắn với bản
chất của hợp tác xã. Luật không quy định rõ về việc xã viên bắt buộc phải sử dụng
dịch vụ của hợp tác xã nên không thể thực hiện nguyên tắc phân phối lợi nhuận
8
theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Luật Hợp tác xã 2003 quy định: sau
khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, trích lập các quỹ khác của hợp tác xã, lãi
được chia cho xã viên theo vốn góp,công sức đóng góp của xã viên và phần còn lại
chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Trên thực tế, việc

chủ yếu chia lãi theo vốn góp đã không khuyến khích xã viên sử dụng dịch vụ của
hợp tác xã mà khuyến khích tăng vốn, không khuyến khích kết nạp thêm xã viên
mới. Việc Luật hợp tác xã 2003 quy định chia lãi theo công sức đóng góp của xã
viên là không phù hợp vì chi trả cho công sức đóng góp của xã viên thuộc về chi
phí hoạt động của hợp tác xã, không phải từ lãi.
Theo Khoản 3 điều 46 Luật Hợp tác xã 2012 thì: “Thu nhập còn lại sau khi đã
trích lập các quỹ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được phân phối
cho thành viên, hợp tác xã thành viên theo nguyên tắc sau đây:
a) Chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã
thành viên; theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo
việc làm;


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
b) Phần còn lại được chia theo vốn góp;
c) Tỷ lệ và phương thức phân phối cụ thể do điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã quy định”
Việc quy định về phân phối thu nhập của hợp tác xã không phải là “mọi người
như nhau” theo mô hình tập thể hóa; cũng không phải là “mỗi người theo nhu cầu
riêng” theo mô hình hiệp hội thiện nguyện; cũng không phải là “mỗi người theo
mức độ sở hữu vốn” theo mô hình tư bản; mà là “mỗi người theo mức độ sử dụng
dịch vụ của hợp tác xã”. Quy định mới này phù hợp bản chất của hợp tác xã, là yếu
tố gắn kết thành viên với hợp tác xã, góp phần gia tăng “mức độ trung thành” của
thành viên đối với hợp tác xã; đồng thời thành viên hợp tác xã cũng được hưởng
9
lợi ích trực tiếp từ hợp tác xã thể hiện bản chất nhân văn và mang đậm bản sắc
riêng biệt mà chỉ hợp tác xã mới có.
Theo như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37 Luật Hợp tác xã 2003 thhì chế
độ phân phối lại đề cao tính đối vốn trong doanh nghiệp, khuyến khích các xã viên
góp vốn nhiều mà quên đi tính đối nhân trong hợp tác xã; không khuyến khích

người lao động hăng hái, tích cực làm việc, xã viên thiếu gắn bó với hợp tác xã,
dành công sức làm kinh tế gia đình. Ngược lại, đối với quy định mới của Luật hiện
hành, hình thức phân phối được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi,
vừa theo lao động, theo mức độ tham gia dịch vụ, vừa theo vốn góp. Người lao
động là xã viên, ngoài tiền công nhận được theo số lượng và chất lượng lao động,
còn nhận được lãi chia mức độ tham gia dịch vụ và theo vốn góp, vốn góp càng
cao thì thu nhập càng cao. Đây là động lực khuyến khích người lao động tích cực
làm việc, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài. Không những vậy, quy định này còn nhằm định hướng cho


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
hợp tác xã hoạt động đúng với bản chất, tăng cường quan hệ kinh tế giữa hợp tác
xã và thành viên, thể hiện được nguyên tắc “cam kết kinh tế” như đã được phân
tích ở trên. Thành viên nào sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã có
nghĩa là thành viên đó đóng góp nhiều cho hợp tác xã. Do đó, về nguyên tắc, họ
cần được ưu tiên phân phối lợi nhuận.
Về quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã và xã viên.
V.
a) Về quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã.

Quyền được cung ứng, tiêu thụ sản phẩm ra thị trường.
Trên thực tế, ngoài việc đáp ứng nhu cầu chung, nguyện vọng chung của các
thành viên thì hợp tác xã vẫn còn có thể đáp ứng các nhu cầu của các chủ thể khác
không phải là thành viên hợp tác xã.
10
Luật Hợp tác xã 2003 quy định hợp tác xã có quyền cung ứng sản phẩm ra thị
trường đại chúng, tuy nhiên không hạn chế việc hợp tác xã cung cấp sản phẩm,
dịch vụ ra bên ngoài thành viên, đồng thời quy định “hợp tác xã hoạt động như
một loại hình doanh nghiệp” gây nên cách hiểu lệch lạc hợp tác xã là doanh

nghiệp. Luật Hợp tác xã 2012 đã bổ sung về sự bắt buộc giới hạn sản phẩm, dịch
vụ cung cấp ra bên ngoài cộng đồng thành viên, theo đó: Hợp tác xã chỉ được cung
ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho thành viên, hợp tác xã thành viên và
ra thị trường nhưng phải bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối thành viên, hợp tác xã
thành viên (khoản 4 Điều 8). Quy định này xuất phát từ một vấn đề có tính chất
nền tảng, đó là lý do ra đời của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã: Hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã là một tổ chức kinh tế do các thành viên thành lập nhằm mục đích


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
hỗ trợ cho hoạt động của mình, giúp các thành viên thỏa mãn tốt hơn nhu cầu
chung, để nhằm đảm bảo hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động không xa rời
bản chất là tập trung vào phục vụ thành viên; đồng thời tránh hiện tượng doanh
nghiệp trá hình để được thụ hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ dành riêng cho hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã. Bên cạnh đó, việc quy định cho phép hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã được cung cấp sản phẩm, dịch vụ ra thị trường thể hiện rằng Luật đã
không biến hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trở lại mô hình tổ chức tự cung, tự cấp
về hàng hóa, dịch vụ hoặc việc làm, đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã nên cần phải có giới hạn.

Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập công ty, góp vốn, mua cổ phần vào
doanh nghiệp khác.
Nhằm tạo cơ hội cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập các tổ
chức trực thuộc thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với ngành, nghề sản
phẩm dịch vụ để đảm bảo tách bạch các hoạt động sản xuất, kinh doanh phục vụ
thành viên và hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ thị trường, Khoản 8 Điều 8
Luật Hợp tác xã 2012 đã quy định cho phép hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành
11
lập công ty, góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp khác. Các hoạt động của các
công ty trực thuộc này là độc lập nhưng vẫn hỗ trợ hoạt động của hợp tác xã, liên

hiệp hợp tác xã. Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn trong nước
và nước ngoài.

Về bảo đảm của Nhà nước đối với hợp tác xã.
Luật Hợp tác xã 2012 bổ sung quy định hợp tác xã có quyền được Nhà nước


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
công nhận và bảo hộ tại khoản 2 Điều 5 theo đó “bảo đảm môi trường sản xuất,
kinh doanh bình đẳng giữa hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp và tổ chức
kinh tế khác”. Đây chính là chính sách quy định chung cho các loại hình kinh tế.
Quy định này thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã; đảm bảo sự bình đẳng, tự chủ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong cơ
chế kinh tế thị trường, đồng thời khắc phục tâm lý xã hội e ngại đối với hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã.

Nghĩa vụ của hợp tác xã.
Điều 18 và 19 Luật Hợp tác xã 2003 đã quy định khá rõ về quyền và nghĩa vụ
của xã viên hợp tác xã. Tuy nhiên cả hai điều luật này đều chưa có quy định mở để
cho phù hợp với tình hình thực tế cần có sự linh hoạt giải quyết. Điều này dẫn đến
sự lúng túng trong áp dụng nếu có xuất hiện những quyền và nghĩa vụ mà chưa quy
định trong Luật. Bên cạnh đó, Luật Hợp tác xã 2003 chưa quy định việc thành viên
phải có nghĩa vụ sử dụng sản phẩm của hợp tác xã, liên minh hợp tác xã. Chính
điều này đã dẫn đến tình trạng xã viên trốn tránh nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến hoạt
động của hợp tác xã đó.
Luật Hợp tác xã 2012 đã bổ sung nội dung quan trọng : hợp tác xã phải thực
hiện theo cam kết kinh tế cho các thành viên của mình bằng quy định tại khoản 4
12
Điều 9 như sau: “Thực hiện hợp đồng dịch vụ giữa hợp tác xã với thành viên, liên
hiệp hợp tác xã với hợp tác xã thành viên”. Quy định mới này đã thể chế hóa được

nguyên tắc “cam kết kinh tế” được quy định tại khoản 5 Điều 7 từ đó đảm bảo cho
hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo đúng bản chất, mục tiêu quan
trọng là để phục vụ cho nhu cầu, nguyện vọng chung của hợp tác xã, liên hiệp hợp


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
tác xã.
b) Về quyền và nghĩa vụ của xã viên
Luật Hợp tác xã 2012 đã bổ sung quy định thành viên có quyền được yêu cầu
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hợp đồng dịch vụ
giữa thành viên và hợp tác xã theo nguyên tắc bình đẳng giữa hai bên (khoản 1
Điều 14).
Đồng thời, Luật Hợp tác xã 2012 cũng quy định nghĩa vụ của thành viên phải
sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo hợp đồng dịch
vụ giữa thành viên và hợp tác xã, hợp tác xã thành viên với liên hiệp hợp tác xã.
Quy định này nhằm đảm bảo cho hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
đúng bản chất là phục vụ thành viên, đồng thời hoạt động đúng theo nguyên tắc
‘cam kết kinh tế’ thể hiện tính đối nhân sâu sắc, qua đó thành viên có trách nhiệm
góp vốn, góp sức; phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã và ngược lại hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải có trách nhiệm đáp ứng các
yêu cầu trong sản xuất, kinh doanh, đảm bảo đời sống của thành viên, đáp ứng nhu
cầu và nguyện vọng chung của các thành viên. Quyền và nghĩa vụ của thành viên
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chính là điểm thể hiện rõ nét nhất bản chất của hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã giúp ta phân biệt giữa hợp tác xã và doanh nghiệp. Đây
là những quy định cần thiết để thể hiện tính đặc thù của hợp tác xã, tránh trường
hợp “đội lốt” hợp tác xã để được hưởng ưu đãi nhưng thực chất lại hoạt động
không khác gì doanh nghiệp.
13
KẾT LUẬN
Với những điểm mới mang tính tích cực như đã được phân tích ở trên, Luật

Hợp tác xã 2012 đã tạo ra khung pháp lý đầy đủ và hoàn thiện hơn cho hoạt động


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
của mô hình hợp tác xã, tiếp thêm sức mạnh cho tổ chức này cạnh tranh bình đẳng
với các loại hình kinh tế khác ; đồng thời khắc phục được những hạn chế,bất cập
của Luật hợp tác xã 2003. Luật Hợp tác xã 2012 được xem như một bước tiến bộ
vượt bậc với những quy định phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta.
Tuy nhiên, việc triển khai Luật này trên thực tế một cách hiệu quả lại là một thách
thức lớn và cần sự vào cuộc của các cơ quan có thẩm quyền.



×