Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

SKKN vận dụng tri thức tiếng việt trong giờ đọc hiểu văn bản đây thôn vĩ dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.43 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LÊ VĂN HƯU

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG TRI THỨC TIẾNG VIỆT TRONG GIỜ
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”

Người thực hiện: Lữ Thị Thanh Thủy
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
0


1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài..............................................................................3
1.2 Mục đích nghiên cứu.......................................................................3
1.3 Đối tượng nghiên cứu.......................................................................3
1.4 Phương pháp nghiên cứu..................................................................4
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiêm........................................................4
2.1 Cơ sở lí luận của việc vận dụng tri thức tiếng Việt vào giờ đọc hiểu..4
2.2 Thực tế của việc vận dụng tri thức tiếng Việt trong giờ Đọc- hiểu Ngữ
văn ở trường Trung học phổ thông...................................................5
2.3 Vận dụng tri thức tiếng Việt trong giờ đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ.......5
2.3.1 Những tri thức tiếng Việt được vận dụng.......................................6
2.3.1.1 Tri thức về ngữ âm tiếng Việt....................................................6
2.3.1.2 Tri thức về từ vựng tiếng Việt ..................................................7
2.3.1.3 Tri thức về các biện pháp tu từ .................................................9


2.3.2 Một số phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh vận dụng tri thức
tiếng Việt vào đọc hiểu văn bản Đây thôn Vĩ Dạ ..........................10
2.3.2.1 Phương pháp nêu vấn đề..........................................................10
2.3.2.2 Phương pháp phân tích mẫu....................................................11
2.3.2.3 Phương pháp diễn giảng.........................................................12
2.3.3 Giáo án thực nghiệm....................................................................13
2.4 Hiệu quả của SKKN.......................................................................20
3. Kết luận, kiến nghị............................................................................20
Tài liệu tham khảo

1


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt và Đọc- hiểu là hai phân môn quan trọng trong chương trình
Ngữ văn Trung học phổ thơng. Những năm trước đây, hai môn này được dạy
như những môn học độc lập. Trong xu thế tích hợp hiện nay, Tiếng Việt và Đọchiểu cùng được đưa vào dạy chung trong chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn.
Quan điểm tích hợp địi hỏi người dạy và học phải biết vận dụng kiến thức, năng
lực Tiếng Việt vào giờ Đọc – hiểu và ngược lại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc
vận dụng tri thức tiếng Việt vào một giờ Đọc hiểu cụ thể còn hạn chế và chưa
thật nhuần nhuyễn, dẫn tới việc lĩnh hội, đánh giá tác phẩm văn chương còn
thiếu khách quan, khoa học, mặt khác làm cho năng lực tiếng Việt của học sinh
không được rèn luyện, trau dồi. Thực tế trên địi hỏi trong q trình dạy học Ngữ
văn cần thường xuyên khai thác, vận dụng tri thức tiếng Việt trong một giờ đọc
hiểu cụ thể.
Trong hệ thống các tác phẩm văn chương được đọc – hiểu ở chương trình
Ngữ văn trung học phổ thơng, Đây thơn Vĩ Dạ là một tác phẩm hay, được nhiều
thế hệ học sinh yêu thích. Sự hấp dẫn của thi phẩm này được tạo nên không chỉ
từ cảm xúc chân thành, trong sáng của nhân vật trữ tình mà cịn bởi sự tinh tế,

khéo léo trong việc tổ chức ngôn ngữ thơ của người nghệ sĩ. Có thể nói, kĩ thuật
sử dụng tiếng Việt điêu luyện của Hàn Mặc Tử là một trong những yếu tố đưa
bài thơ đạt đến độ tồn bích. Tuy nhiên, trong q trình đọc hiểu tác phẩm này,
khơng ít người dạy- học đã không chú ý đến việc khai thác tìm hiểu sự tinh tế
tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ tiếng Việt của Hàn Mặc Tử, các tri thức về
tiếng Việt đã không được vận dụng vào quá trình tìm hiểu bài thơ, dẫn tới việc
cảm thụ tác phẩm còn thiếu khách quan, chưa thấu đáo.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, chúng tơi chọn vấn đề Vận dụng tri
thức tiếng Việt trong giờ đọc - hiểu văn bản Đây thôn Vĩ Dạ làm đề tài nghiên
cứu trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, với hi vọng góp phần giải
quyết vấn đề thuộc phương pháp dạy học một phân mơn trong chương trình
SGK Ngữ văn bậc THPT.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Khai thác mối quan hệ hữu cơ giữa phân môn Đọc - hiểu và phân môn
Tiếng Việt, nhất là các vấn đề về tiếng Việt có mặt trong văn bản đọc - hiểu Đây
thơn Vĩ Dạ nhằm góp phần cung cấp cái nhìn khách quan hơn khi đánh giá, cảm
thụ tác phẩm, hiểu sâu sắc hơn tài năng văn chương của Hàn Mặc Tử, đồng thời
củng cố các tri thức tiếng Việt được dạy học trong chương trình Ngữ văn THPT.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm
này là bài Đọc - hiểu Đây thơn Vĩ Dạ của chương trình Ngữ văn THPT, trong
đó tâm điểm là những vấn đề liên quan đến tri thức của phân môn Tiếng Việt.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
3


Sáng kiến kinh nghiệm này sử dụng phối hợp các phương pháp thuộc cả
hai nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu thực
tiễn. Cụ thể là: phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp mơ
hình hố, phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp thực

nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận của việc vận dụng tri thức tiếng Việt vào một giờ đọc - hiểu
cụ thể
Cơ sở khoa học của việc vận dụng tri thức Tiếng Việt vào một giờ đọc –
hiểu xuất phát từ mối quan hệ mật thiết giữa ngơn ngữ và tác phẩm văn chương.
Ngơn ngữ chính là chất liệu để xây dựng nên tác phẩm văn học. Tác phẩm văn
học là một cơng trình nghệ thuật về ngơn từ. Nhà văn bằng tài năng của mình đã
thổi hồn vào những con chữ, làm cho chúng sống dậy thành những hình tượng
nghệ thuật. Khám phá tác phẩm văn hoc là khám phá hình tượng văn học. Hình
tượng văn học mang tính phi vật thể. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu, đánh giá
chúng thơng qua việc tìm hiểu, đánh giá chất liệu xây nên chúng là ngôn từ.
Trong phần Dẫn luận cuốn Phương pháp giảng văn dưới ánh sáng ngơn ngữ học
hiện đại, Đái Xn Ninh viết: “Hình thức chủ yếu của một tác phẩm văn học là
ngôn ngữ. Vì tất cả cái gì hình thành ra một tác phẩm như đề tài, kết cấu, tình tiết,
… đều được diễn đạt bằng ngơn ngữ…”. Do đó “thốt li yếu tố ngơn ngữ thì việc
phân tích nội dung chỉ là một sự gượng ép, méo mó, mờ nhạt. Có bám lấy ngôn
ngữ mới không suy diễn vu vơ, mới nhận thấy cái nhịp đập của trái tim, cái hơi thở
của tâm hồn, cái chất sống thực sự của nhà thơ,..” [1, tr.3].
Chính mối quan hệ mật thiết giữa ngơn ngữ và tác phẩm văn chương là cơ
sở xác đáng của quan điểm tích hợp trong dạy và học Ngữ văn. Trong cuốn
Phương pháp dạy học Ngữ văn trung học phổ thông - những vấn đề cập nhật,
hai tác giả Nguyễn Thanh Hùng và Lê Thị Diệu Hoa nêu quan điểm: “Mơn học
Ngữ văn thể hiện rất rõ tính liên hệ trực tiếp giữa văn với Tiếng Việt và Làm
văn. Bản thân mỗi phân mơn ấy đều có tính trung gian và có thể chuyển hóa
trong hoạt động chung về tư duy, về kiến thức, về kĩ năng, về thế giới tinh thần,
tình cảm và thái độ ứng xử văn hóa trong đời sống, chính vì hai tính chất trực
tiếp và trung gian này mà môn Ngữ văn không thể chia tách ra được, nên đặt
vấn đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn là có cơ sở” [1, tr.104].
Nghiên cứu vấn đề dạy học tiếng Việt trong quá trình dạy Ngữ văn, Đinh

Trọng Lạc quan niệm: trong quá trình dạy đọc - hiểu, giáo viên phải biết vận
dụng tri thức tiếng Việt như: ngữ âm, từ vựng, cú pháp, phong cách hay biện
pháp tu từ để giúp học sinh khám phá sâu sắc hơn ý nghĩa của văn bản, đồng
thời giúp cho học sinh lưu giữ được những vẻ đẹp, những giá trị nhân văn sâu
sắc mà văn chương nghệ thuật đem lại cho các em [3.tr.47].
Trong cuốn Chương trình Ngữ văn trong nhà trường trung phổ thơng Việt
Nam, Đỗ Ngọc Thống dẫn lại quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo khi hoạch
định chương trình Ngữ văn mới cho bậc THPT: “Ba bộ phận Văn học, Tiếng
4


Việt và Làm văn tuy khác nhau nội dung và kĩ năng, nhưng vẫn có nhiều điểm
chung cơ bản: đó là tiếng Việt và sự biểu đạt bằng tiếng Việt, có đối tượng
nghiên cứu chung là văn bản tiếng Việt và có mục tiêu chung là rèn luyện kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết” [, tr.256]. Có thể nói, mối quan hệ này tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho việc củng cổ tri thức tiếng Việt qua việc dạy đọc - hiểu cũng
như dạy Làm văn.
Mỗi một văn bản đọc - hiểu đều là một sản phẩm ngôn ngữ đầy tính sáng
tạo, có khi là những mẫu mực trong việc sử dụng tiếng Việt. Chính vì thế,
Tiếng Việt và Đọc - hiểu có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau. Vận dụng
nguyên tắc tích hợp vào dạy học đọc - hiểu cũng như dạy học tiếng Việt vừa là
địi hỏi có tính khách quan, lại vừa phản ánh tính liên thơng tất yếu giữa hai
phân mơn.
2.2 Thực tế của việc vận dụng tri thức tiếng Việt trong giờ Đọc- hiểu Ngữ
văn ở trường Trung học phổ thơng.
Có một thực tế đang diễn ra trong giảng dạy Ngữ văn hiện nay ở nhà trường
phổ thông là vị thế của phân môn Tiếng Việt đang mất dần. Mặc dù được đưa
vào cùng cuốn sách giáo khoa Ngữ văn, nhưng những bài học về Tiếng Việt
không mấy khi được chú trọng giảng dạy. Cả người dạy và người học đếu tập
trung chú trọng vào các bài đọc hiểu. Các tiết tiếng Việt khơng được đầu tư cơng

phu, thậm chí cịn bị bỏ qua, nhường chỗ cho các các tiết đọc hiểu. Bản thân học
sinh cũng khơng thích học tiếng Việt bởi một trong những yếu tố tâm lí trở thành
rào cản là “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Thực tế trên đã
dẫn tới hệ lụy là lỗ hổng về kiến thức tiếng Việt ở đang lớn dần, là người Việt
nhưng không hiểu được bao nhiêu về tiếng mẹ đẻ. Niềm hi vọng nâng cao năng
lực, tri thức tiếng Việt cho học sinh được đặt vào các giờ đọc- hiểu, trên nguyên
tắc tích hợp.
Nhưng ngay trong một giờ đọc – hiểu, việc vận dụng, củng cố tri thức
tiếng Việt chưa được thực hiện một cách khoa học, nhuần nhuyễn. Sự nghèo nàn
về tri thức về tiếng Việt đã dẫn tới việc đánh giá, cảm thụ tác phẩm văn chương
thiếu khách quan. Sự khiên cưỡng, gượng ép chắp nối một cách rời rạc tri thức
Tiếng Việt với cảm thụ văn học khiến bài đọc hiểu trở nên vụng về, tách rời,
cháp vá. Đánh giá, cảm thụ tác phẩm văn chương trở thành việc “chém gió” của
nhiều học sinh hiện nay. Lối cảm thụ tác phẩm văn học sáo rỗng, thiếu căn cứ,
xã hội học dung tục đang tồn tại ở một bộ phận học sinh có một phần nguyên
nhân từ chính việc chưa vận dụng linh hoạt tri thức tiếng Việt vào trong giờ đọc
hiểu.
Thực tế đáng buồn này đặt ra yêu cầu cấp bách phải vận dụng thường
xuyên, linh hoạt các tri thức tiếng Việt vào các giờ đọc hiểu, đồng thời dạy- học
các tiết tiếng Việt trong chương trình phải đầy đủ, nghiêm túc, khoa học hơn.
2.3 Vận dụng tri thức tiếng Việt vào giờ đọc – hiểu văn bản Đây thôn
Vĩ Dạ
2.3.1 Những tri thức tiếng Việt được vận dụng
5


Đây thơn Vĩ Dạ là một bài thơ trữ tình. Ngơn ngữ thơ trữ tình mang
những đặc trưng cơ bản là: giàu nhạc tính, mang tính hàm súc cao, và rất truyền
cảm. Tạo nên đặc trưng đó của ngơn ngữ thơ là các yếu tố: nhịp thơ, vần thơ,
thanh điệu, từ ngữ cùng các biện pháp tu từ, và khả năng tổ chức ngôn ngữ của

tác giả. Như vậy, để đọc – hiểu bài thơ này, chúng ta cần vận dụng những tri
thức tiếng Việt cả về ngữ âm (thanh điệu, phụ âm, vần), từ vựng ( từ và các biện
pháp tu từ), ngữ pháp (cụm từ, câu) để khám phá, lĩnh hội bài thơ.
2.3.1.1 Tri thức về ngữ âm Tiếng Việt
Chất liệu cấu tạo của văn học là ngôn từ. Ngơn từ là hệ thống tín hiệu, mỗi
tín hiệu của ngơn từ có hai mặt: Phần nghĩa và phần âm. Chính phần âm này,
hay nói khác đi, chính những đặc trưng về ngữ âm của chất liệu nghệ thuật ngơn
từ tạo nên tính nhạc cho bài thơ.
Biểu hiện:
- Phối thanh: bằng, trắc (thanh bổng – thanh trầm); phù bình thanh – thanh cao
(sắc, ngã, ngang), trầm bình thanh – thanh thấp (huyền- nặng- hỏi). Phối thanh
trong bài thơ như phối các nốt trong một bản nhạc.
- Ngắt nhịp
- Hiệp vần.
Tác dụng: Tăng nhạc tính, tăng tính gợi cảm, sức hấp dẫn của bài thơ. Thể
hiện một cách mạnh mẽ hơn tư tưởng, tình cảm gửi gắm. Tạo hiệu ứng cảm xúc
đặc biệt, rung động trái tim người đọc.
Bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ có sự phối thanh bằng trắc ở từng khổ thơ cũng như ở
toàn bài thơ một cách điêu luyện:
Nhạc điệu bằng - trắc theo lối thơ Đường thất ngôn. Tất thảy các chữ 2 - 4
- 6 trong câu đều theo kết cấu hài âm bằng trắc của Đường thi, đó là sự hài âm
theo qui ước “ nhị, tứ, lục phân minh”.
Khổ thơ mở đầu của Đây thơn Vĩ Dạ: có 17 tiếng mang thanh bằng, và 11
tiếng mang thanh trắc trong đó thượng thanh: 02 (ngã, khơng có hỏi), khứ thanh:
05 (sắc: 05, khơng có nặng), nhập thanh: 04 (sắc: 02, nặng: 02).
Khổ thơ thứ hai khổ: có 16 tiếng mang thanh bằng, 12 tiếng mang thanh
trắc; và có tới 21 tiếng là thanh cao, trong khi chỉ có 07 tiếng là thanh thấp (y
như ở khổ mở đầu).
Khổ thơ thứ ba: khổ này có 17 tiếng mang thanh bằng, 11 tiếng mang
thanh trắc; và cũng có tới 21 tiếng mang thanh cao, trong khi chỉ có 07 tiếng

mang thanh thấp (cũng y như ở khổ thứ hai và khổ mở đầu).
Tổng quan lại, cả bài Đây thôn Vĩ Dạ với 03 khổ thơ, 12 dịng, 84 tiếng, ta
có: 50 tiếng mang thanh bằng, 34 tiếng mang thanh trắc; 63 tiếng là thanh cao,
21 tiếng là thanh thấp. Cái tỷ lệ ấy tự nó đã nói lên vì sao Đây thơn Vĩ Dạ đẹp
mà buồn, buồn như nhạc cổ điển nghe trong chiều mưa, những âm hưởng nền du
dương êm ả của các thanh bằng và trên cái nền đó là những âm sắc cao, trong
trẻo, thiết tha.
Ngồi ra, tính nhạc cịn thể hiện ở các yếu tố khác:
6


Nhịp: Nhịp 4/3 của những câu thơ như “Nhìn nắng hàng cau/nắng mới
lên” “Gió theo lối gió/mây đường mây”, “Mơ khách đường xa/khách đường xa”
tạo nên những tiết tấu du dương, đồng thời cũng tạo nên liên kết về mặt ngữ âm
giữa các khổ thơ, khiến cả bài thơ trở nên hài hòa, da diết.
Vần “ay” (Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay/ Có chở trăng về kịp tối
nay?)lắng xuống, tạo thành những dư âm, những cơn sóng ngầm lặng vào trong.
Vần “a”(Mơ khách đường xa, khách đường xa. Áo em trắng q nhìn
khơng ra/ Ai biết tình ai có đậm đà) âm vang, làm cảm xúc ngân dài ngân dài
trong những vang vọng dội vào tâm hồn độc giả.
2.3.1.2 Tri thức về từ vựng tiếng Việt.
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngơn từ.
Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học khơng thể có cách nào
khác là nhờ vào hệ thống từ ngữ ấy. Các phương tiện như dấu câu, nhịp điệu,
ngữ âm đã nêu ở trên chỉ thực sự có ý nghĩa khi nằm trong một văn bản mà từ
ngữ là nền tảng. Nhà thơ muốn mô tả, tái hiện hiện thực phải thông qua từ ngữ.
Muốn đánh giá được nhà thơ viết về những điều đó như thế nào, lại cũng phải
thơng qua chữ nghĩa trong văn bản. Đó là cơ sở để người ta khẳng định “văn học
là nghệ thuật của ngôn từ”
Vinôgrađôp cho rằng, “Một từ trong tác phẩm nghệ thuật không thể

được coi ngang bằng như từ của ngôn ngữ thực hành, vì trong văn bản nghệ
thuật, từ thi ca (từ nghệ thuật) có hai bình diện theo khuynh hướng nghĩa của
mình, có mối tương quan đồng thời với cả những từ của ngơn ngữ văn hóa
chung, cả với những yếu tố của cấu trúc ngôn từ của văn bản nghệ thuật”
[Dẫn theo Đinh Trọng Lạc - Nguyễn Thái Hòa, Phong cách học tiếng Việt,
tr.146].
Một trong những yếu tính của ngơn ngữ thơ là cơ đọng, súc tích. Ngơn
ngữ thơ biểu đạt nội dung nhiều hơn những gì được nói. Vì vậy, việc lựa chọn từ
ngữ trở nên hết sức quan trọng. Nó phải đảm bảo được u cầu “nói ít hiểu
nhiều” của thơ. Mặt khác, với thơ, ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa là cứu
cánh, với nhà thơ, mọi lớp ngơn từ đều bình đẳng. Qua việc anh ta lựa chọn
những lớp ngôn từ nào và sử dụng chúng ra sao trong tác phẩm của mình mà
những nét riêng về phong cách của anh ta được biểu lộ.
Trên bình diện ngữ nghĩa, sự độc đáo của ngôn ngữ thơ còn được xác lập
ở cách kết hợp và sử dụng từ ngữ có tính chất bất thường. Với các thao tác này,
ngôn ngữ thơ được đảm bảo một cách tối đa tính hàm súc của nó. Bởi một kết
hợp phi truyền thống đơi khi có thể thay cho một diễn giãi dài, cần đến một
lượng ngôn từ khá lớn. Với những trường hợp này, từ ngữ đi vào trong thơ
nhiều khi khơng cịn là chính nó. Nghĩa đen, nghĩa gốc khơng cịn được quan
tâm mà điều dáng chú ý là cái áo ngữ nghĩa mới mà người nghệ sĩ vừa khốc
lên mình nó trong những lần sử dụng cụ thể. Nó sâu sắc hơn, tinh tế hơn và
quan trọng là chỉ nó (từ ngữ và cách sử dụng đó) mới có đủ sức nặng để
chuyển tải những thơng điệp thẩm mĩ mà nhà thơ muốn gửi gắm.
7


Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” sử dụng nhiều từ giàu sức gợi tả:
- Từ “mướt” trong câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . “Mướt” là
tính từ gợi tả sự bóng láng và mỡ màng, mềm mại trên bề mặt của thực vật, nhìn
thấy thích mắt. Chỉ một chữ ấy thôi mà đã gợi nên được vẻ đẹp tinh khôi tràn

đầy sức sống của cảnh vườn. “Mướt” kết hợp với “quá” càng làm tăng thêm sắc
thái biểu cảm của từ này.
- Từ “buồn thiu” trong câu thơ “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”: gợi lên nét
buồn với vẻ thất vọng, mất hứng thú.
- Từ “lay” thể hiện trạng thái chuyển động không ngừng, nhưng ở đây còn
nhuốm sắc buồn từ sự chia li của cảnh vật, còn gợi cái oi ả ảm đạm của một trưa
vắng.
- Từ “kịp” gợi nên nỗi niềm của thi nhân, một dự cảm về tương lai, một lối
sống vội vàng để hưởng thụ được những gì tối thiểu nhất của cuộc đời, từ đó cho
thấy vẻ đáng thương, tội nghiệp, đau khổ.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” sử dụng rất nhiều từ phiếm chỉ:
- Từ phiếm chỉ “ai” (“Vườn ai”, “thuyền ai”, “ai biết”,“tình ai”) gắn với các
từ khác có tác dụng làm mờ cảnh vật. Đồng thời cho cảm giác như cuộc sống và
tình yêu, những gì thi nhân đang hướng tới đang khao khát như nhòa dần đi, mờ
dần đi.
- Những từ “đó”, “đây” (“Sơng trăng đó”,”tối nay”,”ở đây”) gợi diễn tả sự
mơ hồ về khơng gian. “Đó” có thể ám chỉ thế giới ngoài kia, thế giới của sự
sống, của những điều tốt đẹp mà nhà thơ bị số phận tước mất. “Đây” có thể là
thế giới trong này, thế giới của bóng tối và bệnh tật nơi trại phong Tuy Hòa.
“Tối nay” là một sự mơ hồ về thời gian. Những từ phiếm chỉ này phủ bài thơ
trong một màn sương mơ hồ của kí ức và tưởng tượng, làm cho tất cả nhòe dần
đi, nhòa dần đi trong một thời gian miên man và một không gian mênh mang vô
định.
Những từ phiếm chỉ xuất hiện là do cảm xúc của nhà thơ: Bài thơ được lấy
cảm hứng từ một tâm bưu thiếp từ phương xa gửi tặng, tấm bưu thiếp ấy đã làm
trỗi dẫy nỗi nhớ và cuộc sống mạnh liệt trong lòng thi nhân, từ đó từng hình
tượng thơ ra đời. Tuy vậy những hình tượng này là những hình tượng của trí
nhớ, do trí nhớ tái tạo, cũng có thể là những hình tượng tưởng tượng, tât cả đều
được hình thành trong tâm trí thi nhân, tâm trí của một người bị giam cầm trong
bóng tối, chịu đựng những nỗi đau tột cùng, chứng kiến cảnh tâm hồn và thể xác

tan rã, chính vì vậy mà chúng mơ hồ, mơ hồ do màn sương trí nhớ, mơ hồ do
những nỗi đau.
Bài thơ “Đây thơn Vĩ Dạ” có những kết hợp từ độc đáo, mới lại, gợi cảm.
- “Nắng hàng cau”. “Nắng hàng cau” là nắng như thế nào? Là nắng len lỏi
giữa hàng cau, hay hàng cau phủ đầy nắng? Sự kết hợp từ này gợi nên một bức
tranh tuyệt đẹp của màu sắc và ánh sáng. Sắc vàng của nắng len lỏi giữa sắc
xanh của lá. Nắng vì thế như xanh hơn, tươi hơn, đầy sức sống hơn. Cịn lá vì
thế trở nên lung linh hơn, huyền ảo hơn.
8


- “Bến sông trăng”. Thế nào là bến sông trăng? Phải chăng là sông Ngân
trong truyền thuyết với vầng trăng lững lờ? Hay đó thật ra chính là một dịng
sơng trong kí ức nơi ánh trăng chiếu những vầng sáng bàng bạc trầm mặc của
mình như dát lên mặt sơng một lớp bạc kì ảo? Dù thế nào hình ảnh bến sơng
trăng cũng mang một vẻ đẹp kì ảo, một vẻ đẹp huyền bí, một vẻ đẹp diễm lễ.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chỉ sử dụng duy nhất một từ Hán Việt, đó là từ
“nhân ảnh” trong câu thơ “ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, đây là cách sử dụng
từ mang dụng ý nghệ thuật. Tác dụng của từ Hán Việt đó là gợi một bầu khơng
khí trang trọng, bầu khơng khí cổ xưa. Nét trang trọng cổ xưa này mà từ “nhân
ảnh” mang lại khiến cho cõi “sương khói” trong thơ ngồi nét mờ ảo huyễn
hoặc vốn có cịn có thêm vẻ trầm mặc u tịch, làm nên sức ám ảnh cho câu thơ.
2.3.1.3. Tri thức về các biện pháp tu từ
Văn chương nghệ thuật là phương tiện hữu hiệu để phản ánh đời sống,
hiện thực cuộc sống của con người. Mỗi tác phẩm văn chương, bên cạnh những
hiện thực được phản ánh, nhà văn cịn có những hư cấu để thể hiện nội dung tư
tưởng cũng như thái độ tính cảm của mình. Khi sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà
văn, nhà thơ ít nhiều đều vận dụng các biện pháp tu từ để làm tăng thêm ý nghĩa
của từ ngữ, câu văn, câu thơ. Biện pháp tu từ là một bộ phận của tri thức tiếng
Việt, khi dạy học văn bản đọc - hiểu, giáo viên khơng chỉ phân tích được ý nghĩa

của việc sử dụng những biện pháp tu từ ấy mà còn giúp học sinh củng cố thêm
tri thức và kĩ năng về các biện pháp tu từ.
Trong các văn bản đọc - hiểu, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp tu từ
như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hốn dụ, những biện pháp tu từ ngữ âm, tu từ cú
pháp, câu hỏi tu từ, nói giảm nói tránh,… Khi dạy học Đọc - hiểu, giáo viên có
thể giúp học sinh rất nhiều trong việc củng cố tri thức về các biện pháp tu từ
trên.
Trong Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã vận dụng hiệu quả các biện pháp tu
từ để vẽ nên một bức tranh ngoại cảnh tuyệt đẹp và một bức tranh tâm cảnh cảm
động:
- Câu hỏi tu từ: Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?/ Có chở trăng về kịp tối nay?/
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu hỏi mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Vừa là một câu hỏi, vừa là
lời mời gọi thiết tha về thơn Vĩ, vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của người con
gái thôn Vĩ (mà tác giả tưởng tượng ra), vừa là lời tự vấn sao không về thôn Vĩ
của chính nhà thơ.
Câu hỏi thứ hai: Có chở trăng về kịp tối nay? Liệu con thuyền tình u có
vượt thời gian để kịp cập bến bờ hạnh phúc hay không? Câu hỏi chất chứa bao
niềm khắc khoải, sự chờ đợi mỏi mịn tình u, hạnh phúc của thi nhân. Ẩn
trong đó có sự mơng lung, hồ nghi, thất vọng.
Câu hỏi kết thúc bài thơ: Ai biết tình ai có đậm đà? Đã cực tả nỗi băn khoăn
của chính nhà thơ ( nhà thơ tự hỏi cảnh vật và con người ở đây mờ ảo quá, lung
linh quá, không biết tình u của người thiếu nữ ấy có bền chặt hay cũng mờ ảo
9


như khói sương?). Vì vậy, câu thơ cũng đồng thời bộc lộ khát khao được yêu
thương nhưng chứa đầy vô vọng của thi nhân.
Có thể thấy sự chuyển đổi trong tâm trạng thi nhân qua ba câu hỏi tu từ này:
từ hi vọng tới dự cảm chia lìa, thất vọng, hồ nghi, cuối cùng là tuyệt vọng.

- Biện pháp điệp từ:
+ Điệp từ “nắng”( Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên) nhấn mạnh sự bao
phủ, ôm trùm của nắng ban mai thôn Vĩ, vẽ nên một không gian đầy ánh
sáng.
+ Điệp từ “gió”, “mây”( Gió theo lối gió, mây đường mây ) kết hợp với cách
ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một khơng gian gió, mây chia lìa.
+ Điệp ngữ “khách đường xa” ( Mơ khách đường xa, khách đường xa) nhấn
mạnh đến sự xa xôi, cách trở của con người trong không gian.
- Biện pháp so sánh “xanh như ngọc” (Vườn ai mướt quá xanh như ngọc) :
ngọc vừa có ánh vừa có màu. Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc, không chỉ rời
rợi sắc xanh, mà dường như cịn tỏa vào khơng gian những ánh xanh. Đơn sơ mà
lộng lẫy. Thật thanh tú và cao sang!
- Biện pháp nhân hóa: “Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Nhà thơ đã nhân
hóa con sơng thành sinh thể có hồn, có tâm trạng để giãi bày tâm tư của chính
mình.
- Biện pháp ẩn dụ: thuyền, bến, trăng (Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó). Những
biểu tượng về người con trai, con gái và hạnh phúc lứa đơi. Thuyền chở trăng là
thuyền chở tình u, bến trăng là bến bờ hạnh phúc. Liệu con thuyền tình yêu có
kịp cập bến bờ hạnh phúc? Hình ảnh thơ đa nghĩa, gợi nhiều xúc cảm.
Như vậy, trong thi phẩm này, Hàn Mặc Tử sử dụng đa dạng các biện pháp tu
từ, mỗi biện pháp đều đạt được hiệu quả thẩm mĩ đặc sắc. Hình ảnh thơ độc đáo,
đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ thơ trong sáng, đa nghĩa. Nhiệm vụ của người dạy và
học là phải và có phương pháp dạy, học phù hợp để bật nổi những vẻ đẹp trên
của bài thơ.
2.3.2 Một số phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh vận dụng tri thức
tiếng Việt trong đọc- hiểu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
2.3.2.1 Phương pháp nêu vấn đề
Nêu vấn đề là hình thức dạy học dựa vào các tình huống có vấn đề, thơng
qua việc tổ chức cho học sinh giải quyết các tình huống đó, một mặt, giúp học
sinh nắm chắc kiến thức, mặt khác, có thể rèn luyện các năng lực, phẩm chất tư

duy một cách có hiệu quả. Phương pháp nêu vấn đề ln gắn với các tình huống
có vấn đề. Tình huống có vấn đề là tình huống mà học sinh đứng trước một
trạng thái tâm lí do một số khó khăn đã được chủ thể ý thức. Muốn giải quyết
được những khó khăn đó, cần phải vận dụng những tri thức mới hoặc cách thức
mới. Vì vậy,việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề vào việc dạy đọc - hiểu để
củng cố tri thức tiếng Việt là một phương pháp hữu ích đem đến những tri thức
mới, suy nghĩ mới và phương thức hành động mới đồng thời giúp học sinh khắc
10


sâu được kiến thức mà bản thân các em đã từng được tìm hiểu. được tiếp thu ở
những bài học tiếng Việt.
Phương pháp nêu vấn đề phải vận dụng trong sự phối hợp với các phương
pháp khác. Chẳng hạn, trong giờ đọc - hiểu, tình huống có vấn đề được thể hiện
ra bằng câu hỏi nêu vấn đề có thể xen kẽ với các câu hỏi gợi mở, có thể kết hợp
với hình thức nhóm, vì tất cả chúng đều phục vụ mục đích là tổ chức cho học
sinh khám phá văn bản.
Trong khi đọc- hiểu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, giáo viên có thể tạo dựng các tình
huống có vấn đề thơng qua hệ thống các câu hỏi nêu vấn đề.
Chẳng hạn, để làm bật nổi biện pháp câu hỏi tu từ ở khổ thơ thứ nhất, giáo viên
có thể đặt câu hỏi cho học sinh:
- Câu hỏi nêu vấn đề : Chỉ ra các biện pháp nghệ thuât được sử dụng trong câu
đầu? Nhận xét các sắc thái biểu cảm của câu hỏi đó?
Trả lời:
+ Câu hỏi tu từ nhiều sắc thái
Lời hỏi thăm của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ
+ Nhiều tiếng thanh bằng
=> Lời trách móc nhẹ nhàng => cũng là tiếng
lịng
+Âm điệu nhẹ nhàng, trầm lắng Lời mời gọi tha thiết của nhà thơ hỏi chính

mình.
- Câu hỏi khám phá: Câu hỏi “Sao anh khơng về chơi Thơn Vĩ” có nhằm mục
đích đối thoại khơng? Tác dụng của câu hỏi đó?
Trả lời: Câu hỏi không hướng đến đối thoại,được đặt ra để tự vấn, tự trả lời =>
thể hiện niềm khao khát được trở về thôn Vĩ, thăm lại cảnh cũ,người xưa của
Hàn Mặc Tử.
Hoặc ở khổ thơ thứ 2, giáo viên có thể gợi mở giúp học sinh đi sâu vào thế
giới nghệ thuật ở câu 3, 4 qua đó làm bật nổi giá trị của biện pháp tu từ ẩn dụ
được sử dụng: Trong ca dao và thơ văn xưa nay, thuyền, bến, trăng thường là
những ẩn dụ nghệ thuật. Hãy cho biết ý nghĩa ẩn dụ của những hình ảnh thơ
trên. Từ đó ai có thể nói giúp nhà thơ những tâm tư sâu kín?
Như vậy, ở đây tùy vào đối tượng học sinh, mức độ khó dễ của các tri thức
cần chiếm lĩnh mà người giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề phù hợp.
2.3.2.2 Phương pháp phân tích mẫu
Dạy học Văn hiện nay, dù được gọi là dạy đọc - hiểu, thì hoạt động phân
tích cũng sẽ diễn ra thường xuyên. Sở dĩ như vậy, vì đây là thao tác nhận thức
phổ biến của con người đối với bất cứ đối tượng nào. Do vậy, muốn cảm thụ
được bài thơ, cả thầy và trị khơng thể bỏ qua thao tác phân tích ngơn ngữ nghệ
thuật của nó. Về phương pháp phân tích ngơn ngữ, viện sĩ Chê-cu-chép của Liên
Xô trước đây định nghĩa: “học sinh, dưới sự chỉ dẫn của thầy giáo, vạch ra
những hiện tượng ngôn ngữ nhất định, từ các tài liệu ngôn ngữ cho trước, qui
các hiện tượng đó vào một phạm trù nhất định và chỉ rõ những đặc trưng của
11


chúng” [1, tr.66]. Cụ thể hơn là giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định các
yếu tố ngôn ngữ cần phân tích, sau đó tiến hành đánh giá các yếu tố ngôn ngữ
trong văn bản. Với yếu tố ngôn ngữ ở cấp độ từ, giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh xác định giá trị của từ theo ba bước: xác định từ loại, tìm hiểu giá trị của từ
trong văn cảnh, so sánh với từ dó trong một văn bản khác.

Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng phương pháp phân tích
ngơn ngữ như vậy trong bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ. Chẳng hạn, phân tích giá trị
nghệ thuật của từ lay . Về từ loại, lay là động từ, chỉ hoạt động qua lại của vật.
Động thái lay tự nó khơng vui cũng khơng buồn. Nhưng đặt trong văn cảnh, nó
gợi nỗi buồn hiu hắt, là nét buồn phụ họa với trời , mây, sông nước. Từ lay trong
thơ Hàn, có gì đó vừa giống vừa khác với từ lay trong ca dao:
Ai về Giống Dứa qua trng.
Gió lay bơng sậy bỏ buồn cho em.
Hay trong thơ Trúc Thông:
Lá ngô lay ở bờ sông.
Bờ sông vẫn gió người khơng thấy về
Nhưng có một thực tế khơng thể phủ nhận: kết quả phân tích các yếu tố
ngôn ngữ trong tác phẩm thơ do học sinh thể hiện ngay trong giờ đọc - hiểu
thường khá sơ lược, đơn giản, nghèo nàn, chưa đạt đến chiều sâu vốn có của các
ngữ liệu. Tình trạng này có nhiều ngun nhân, nhưng ngun nhân chính vẫn là
vốn tri thức, trình độ hiểu biết và khả năng đi sâu vào các thành tố của tác
phẩm... - những điều học sinh còn rấ thiếu. Trước tình trạng đó, giáo viên khơng
thể dễ dàng chấp nhận kết quả phân tích cùa học sinh, và dừng lại ở đó. Sự phân
tích mẫu của giáo viên lúc này sẽ trở nên hết sức cần thiết. Bằng sự chuẩn bị
công phu (bài soạn), bằng vốn sống, vốn văn hóa, sự trải nghiệm, trình độ học
vấn và khả năng sử dụng ngơn ngữ dạng nói..., giáo viên phải tham gia hoạt
động phân tích. Từ những gì các em đã làm được, giáo viên tiếp tục đẩy hoạt
động phân tích bằng nhiều cách khác nhau, để tiến tới giúp học sinh lí giải
những giá trị đích thực ẩn chứa đằng sau những con chữ.
2.3.2.3 Phương pháp diễn giảng
Phương pháp diễn giảng là phương pháp phổ biến hiện nay. “Đặc điểm của
phương pháp là: Giáo viên phân tích, trình bày các tri thức kết hợp với việc ghi
bảng còn học sinh thì nghe, hiểu và ghi chép vào vở riêng” [39, tr.247].
Diễn giảng trong dạy đọc - hiểu để củng cố tri thức tiếng Việt có thể
theo ba hình thức như: quy nạp tức là đi từ những ngữ liệu khác nhau qua

phân tích để khái quát thành vấn đề cần củng cố; hình thức diễn dịch tức là đi
từ những tri thức tiếng Việt cụ thể rồi phân tích những biểu hiện trong các
ngữ liệu thuộc văn bản đọc - hiểu và hình thức kết hợp cả quy nạp lẫn diễn
dịch.
Diễn giảng phải dựa vào sách giáo khoa nhưng khơng phải là đọc, ghi
chép hoặc nói lại theo sách giáo khoa mà là giảng giải, minh họa để giúp học
sinh hiểu. Diễn giảng là phương pháp tiết kiệm được thời gian, có khả năng trình
12


bày hay củng cố tri thức một cách có hệ thống, kết hợp được tính logich và tính
truyền cảm khi giáo viên biết chọn đúng những vấn đề tiêu biểu, chân thực, sinh
động và có khả năng củng cố tốt nhất tri thức tiếng Việt trong những ngữ liệu
thuộc văn bản đọc - hiểu.
Khi dạy học Đây thôn Vĩ Dạ , giáo viên cần phải biết lựa chọn những hình
ảnh, những câu thơ phù hợp để củng cố tri thức về tiếng Việt. Chẳng hạn chú ý
những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, câu hỏi tu từ để củng cố về các biện
pháp tu từ.
Tóm lại, trong hoạt động đọc - hiểu văn bản trữ tình, giáo viên không chỉ
vận dụng một phương pháp mà phải dạy học trong sự phối hợp linh hoạt nhiều
phương pháp, hình thức dạy học khác nhau. Bên cạnh các phương pháp kể trên,
ta cần mở rộng kết hợp với các hình thức tổ chức dạy học khác như làm việc với
SGK, sử dụng đồ dùng dạy học trực quan (bảng biểu, tranh ảnh, sơ đồ…). Sự hỗ
trợ tích cực giữa các phương pháp, hình thức dạy học sẽ phát huy được hiệu quả
tối đa của giờ đọc - hiểu. Ở đây, chúng ta cần hiểu, khơng phải bất cứ phương
pháp hay hình thức dạy học nào được xem vạn năng, mà chính việc vận dụng
chúng như thế nào mới thể hiện năng lực đích thực của người giáo viên. Tích
hợp trong dạy đọc - hiểu và tiếng Việt cũng đòi hỏi người giáo viên phải có kĩ
năng sư phạm, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức và phương pháp
dạy học khác nhau để tạo nên tính liên thơng về kiến thức đồng thời phát huy

được sự tích cực, chủ động, của người học, tránh được tình trạng truyền thụ một
chiều, đặt học sinh vào thế thụ động.
2.3.3 Thiết kế bài dạy học khảo nghiệm
Sau những vấn đề nghiêng về lý thuyết đã đề cập ở trên, chúng tơi xin
trình bày những kết quả khảo nghiệm thực tế, được định hướng từ quan điểm
vận dụng tri thức tiếng Việt trong giờ đọc hiểu văn bản Đây thôn Vĩ Dạ. Công
việc thực hành này sẽ được tiến hành theo hai bước: bước một, thiết kế bài dạy
học (giáo án) thể nghiệm; bước hai, dạy học khảo nghiệm bằng chính giáo án đã
soạn theo hướng nghiên cứu của đề tài.

Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử
A. Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
- Cảm nhận được bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể
hiện nỗi buồn cô dơn của Hàn mặc Tử trong một mối tình xa xăm, vơ vọng. Đó
cịn là tấm lịng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc sống và con người.
- Nhận ra sự vận động của tứ thơ, của tâm trạng chủ thể trữ tình và bút pháp
tài hoa, độc đáo của Hàn Mặc Tử.
2. Kĩ năng:
- Đọc hiểu bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại.
- Cảm thụ, phân tích bài thơ
3. Thái độ:
13


- Giáo dục học sinh yêu quê hương đất nước và cảm thông với nhà thơ..
B. Chuẩn bị bài học:
1. Giáo viên:
1.1 Dự kiến bp tổ chức hs hoạt động dạy học:

- Phương pháp đọc hiểu. Phân tích, tổng hợp, trao đổi thảo luận nhóm.
- Tích hợp phân mơn Làm văn. Tiếng Việt. Đọc văn.
1.2. Phương tiện:
Sgk, giáo án, đọc tài liệu tham khảo.
2. Học sinh:
- Hs chủ động tìm hiểu bài qua hệ thống câu hỏi sgk.
C. Hoạt động dạy và học:
1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
3. Bài mới.
Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ khá đặc biệt. Nhớ
đến Hàn Mặc Tử là nhớ đến một cuộc đời ngắn ngủi mà đầy bi kịch, nhớ đến
một con người tài hoa mà đau thương tột đỉnh. Nhớ đến Hàn Mặc Tử cũng là
nhớ đến những vần thơ như dính máu và nhớ đến những câu thơ đau buồn mà
trong sáng, tuy đầy hư ảo mà đẹp một cách lạ lùng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một
bài thơ trong số không nhiều bài thơ như thế của Hàn Mặc Tử.
Hoạt động của GV và
HS
Hoạt động 1: Hướng dẫn
HS tìm hiểu phần Tiểu
dẫn
1. Tác giả
- GV yêu cầu HS đọc
phần tiểu dẫn và trình bày
những hiểu biết của mình
về nhà thơ Hàn Mặc Tử?

Nội dung cần đạt

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả
- Hàn Mặc Tử (1912-1940),tên thật là Nguyễn
Trọng Trí, sinh ra ở Đồng Hới, Quảng Bình.
- Sớm mất cha sống với mẹ tại Quy Nhơn.
- Làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định rồi
vào Sài Gịn làm báo. Năm 1936, mắc bệnh
phong, Hàn Mặc Tử về hẳn Quy Nhơn rồi mất
tại trại phong Quy Hòa
- HS dựa vào sgk trả lời - Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt, luôn
quằn quại đau đớn, giằng xé giữa thể xác và tâm
hồn. Nhưng vẫn gắn bó thiết tha với tình yêu
đời, yêu người, yêu quê hương đất nước thông
qua những vần thơ hồn nhiên, trong trẻo lạ
thường.
=> Hàn Mặc Tử là nhà thơ có sức sáng tạo
mãnh liệt trong phong trào Thơ mới “ Ngôi sao
14


Em hãy trình bày xuất xứ
của bài thơ? Hồn cảnh ra
đời của bài thơ có gì đặc
biệt?

– Xác định bố cục của bài
thơ và ý chính của mỗi
đoạn?
* Hs đọc sgk và suy nghĩ
trả
lời

Hoạt động 2: Hướng dẫn
học sinh Đọc hiểu văn
bản
* GV đọc mẫu và hướng
dẫn HS cách đọc Giọng
đọc thiết tha, tươi vui ở
khổ 1, trầm buồn, da diết
ở khổ 2,3
* GV giúp HS tìm hiểu
cái hay, độc đáo của câu
thơ mở đầu: Mở đầu bài
thơ là một câu hỏi, Em
hãy cho biết: Ai hỏi?
Giọng điệu hỏi? Ý nghĩa
lời
hỏi?

chổi trên bầu trời thơ Việt Nam” (Chế Lan Viên)
2.Tác phẩm
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
- Rút trong tập “Thơ điên” (1938), về sau đổi
thành “Đau thương”
- Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc
Tử sống trong bệnh tật, vật vã với cơn đau ở trại
phong Quy Hòa.
- Bài thơ được khơi nguồn cảm hứng từ:
+ Từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cơ gái ở
thơn Vĩ.
+ Từ tình u, kỉ niệm với xứ Huế mộng mơ.
b.Bố cục: 3 phần

Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và hi vọng hạnh
phúc của thi nhân
Khổ 2: Cảnh sông nước mây trời xứ Huế và dự
cảm hạnh phúc chia xa
Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ.
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Khổ 1:
– Câu mở đầu:
+ Câu hỏi tu từ mang nhiều sắc thái. Đó lời
trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ,
lời mời gọi tha thiết về thôn Vĩ. Đây cũng là lời
tự vấn, lời nhắc nhở sao không về thôn Vĩ.
+ Nhiều thanh bằng gợi nỗi buồn chơi vơi,1
thanh trắc cuối câu gợi cảm giác đau nhói trong
* Hs suy nghĩ trả lời. tâm hồn thi nhân.
+ Với âm điệu nhẹ nhàng, lời thơ mượt mà dung
di, nhà thơ muốn bày tỏ nỗi niềm muốn trở về
thôn Vĩ
* Gv chuyển ý: Câu thơ
mở đầu đã khơi nguồn
cảm hứng để Hàn Mặc Tử
15


miêu tả cảnh đẹp của thơn
Vĩ trong buổi bình minh
trong 3 câu thơ tiếp theo:
* Gv hỏi: Bức tranh thiên
nhiên thôn Vĩ trong tưởng

tượng của nhà thơ hiện lên
với những màu sắc và
hình ảnh như thế nào?
+ Em hiểu như thế nào về
cụm từ “nắng hàng cau”
và “nắng mới lên”?
+Điệp từ nắng
đạt điều gì?
*.

– Thiên nhiên thơn Vĩ buổi sớm mai:
+ “ Nắng hàng cau”: là cái nắng tinh khôi, trong
trẻo. Phải nhìn hàng cau dưới cái sắc nắng mới
lên, hàng cau ấy phải tồn tại dưới sắc nắng ấy,
trong khoảnh khắc thời gian ấy.
+ “Nắng mới lên” là nắng buổi ban mai cịn tinh
khơi, thanh khiết. Đó là ánh nắng ấm áp, nguyên
lành.

+ Điệp từ “nắng”: cái nắng trong trẻo, tinh
có biểu khiết, làm bừng sáng khơng gian thơn Vĩ trong
hồi tưởng của nhà thơ.
- Vườn Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá xanh như
ngọc”

+ Đại từ phiếm chỉ “ai”
gợi cho em suy nghĩ gì? + “Vườn ai”: đại từ phiếm chỉ “ai” gợi cảm giác
mơ hồ, bất định gây ấn tượng về một vẻ đẹp bí
ẩn khơng thể chiếm lĩnh, khơng thể sở hữu.
+ Em có cảm nhận gì về

cách dùng từ “mướt” và + “mướt” kết hợp với thán từ “ quá ”: diễn tả sự
cách so sánh màu xanh trầm trồ, say đắm của nhà thơ trước vẻ tươi tốt,
cây lá của tác giả? đầy sức sống của vườn cây thôn Vĩ.
* Hs suy nghĩ trả lời

+ “Xanh như ngọc”: nghệ thuật so sánh, diễn tả
được sự xanh mướt, xanh trong, màu xanh ấy
đổ đầy sắc ngọc. → gợi lên vẻ đẹp tươi tốt, màu
mỡ làm bừng sáng của khu vườn thôn Vĩ.

* Gv hỏi: Theo em ở câu
thơ thứ 4 có sự xuất hiện
gì độc đáo mới mẻ? – Người thôn Vĩ
+ “Mặt chữ điền”: là biểu tượng của nét đẹp
+ Con người thôn Vĩ hiện phúc hậu, hiền lành.
lên qua chi tiết nào? + “lá trúc che ngang”: lá trúc mảnh mai, gợi nét
đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế.
+ Em hiểu “ mặt chữ
điền” là khuôn mặt như
Bằng hệ thống ngôn ngữ chọn lọc, bút pháp
thế nào?
lãng mạn, tượng trưng, hình ảnh giàu sức gợi
* Hs trả lời
cảm, khổ thơ thứ nhất đã vẽ nên bức tranh thiên
16


* Gv hỏi: Em có nhận xét
gì về thiên nhiên và con
người xứ Huế ở khổ thơ

này?
2. Khổ 2* Gv hỏi: Em có
nhận xét gì về cách ngắt
nhịp ở câu thơ thứ nhất?
Và cách ngắt nhịp đó gợi
lên điều gì? Diễn tả tâm
trạng gì của thi nhân?
* Hs suy nghĩ ,trả lời
* Gv hỏi: Dòng thơ
“Dòng nước… lay”, tác
giả sử dụng biện pháp
nghệ thuật gì? Nói lên tâm
trạng gì của tác giả?

nhiên và con người hài hoà trong vẻ đẹp dịu
dàng, kín đáo. Đó cũng là tiếng nói bâng khng
rạo rực của một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên
nhiên, yêu đời tha thiết.
2. Khổ 2:
– “Gió theo… mây”: nhịp thơ 4/3 + điệp từ :
“gió” và “mây”, khơng phải để nhấn mạnh
cường độ của của gió hay sắc thái của mây mà
để đẩy “ gió” và “ mây” ra đơi đường ngăn cách,
gợi cảm giác buồn, chia li, tan tác.
– “ Dịng nước… lay ”
+ Hình ảnh “dịng nước buồn thiu”: nghệ thuật
nhân hóa: dịng sơng trở thành một sinh thể
mang tâm trạng. Nhà thơ khoác lên cảnh vật tâm
trạng con người làm cho sự chia li mang cảm
xúc đau buồn.


* Hs trả lời
+ Động từ “lay”: sự chuyển động rất nhẹ, gợi
GV hướng dẫn HS phân nỗi buồn hiu hắt, thưa vắng.
tích giá trị thẩm mĩ của từ → Cảnh đẹp nhưng rời rạc, đơn độc, hiu hắt,
lay
phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà
thơ trước cuộc đời
– “ Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó”
* Gv hỏi: Em hiểu dịng
“sơng trăng” là dịng sơng + “ Sơng trăng” : là hình ảnh hết sức thi vị và
như thế nào?
tài hoa. Ánh trăng tan ra, làm cả mặt sơng trải
tràn ánh sáng của trăng. Dịng nước tắm trong
ánh trăng ấy bỗng hóa thành dịng “sơng trăng”.
* Hs trả lời
Sự liên tưởng tinh tế của nhà thơ đã tạo nên
những hình ảnh lãng mạn trơi giữa hai bờ hư
thực.
* Gv hỏi: Câu thơ :“Có
chở trăng về kịp tối nay?”
Tác giả đã sử dụng nghệ
thuật gì? Và nghệ thuật ấy
gợi lên điều gì trong lịng

+ Đại từ phiếm chỉ “ai”: gợi cảm giác mơ hồ,
xa
lạ.
– “Có chở trăng về kịp tối nay?”
+ “ kịp tối nay ? ”: câu hỏi tu từ thảng thốt, băn

khoăn có gì đó khắc khoải, khẩn thiết. Dường
như tác giả đang mong ngóng, hi vọng và đang
17


người

đọc? chạy đua với thời gian.
+ Chữ “ kịp” : khiến cho khoảng thời gian “tối
+ Tại sao tác giả lại hỏi nay” càng trở nên ngắn ngủi. Ta cảm nhận được
“có chở trăng về kịp tối sự lo sợ, hối hả của tác giả về một hiện tại ngắn
nay” mà khơng phải là tối ngủi của mình.
mai hay một tối nào khác?
* Hs phân tích
* Gv hỏi: Em cảm nhận
gì về cảnh vật và tâm
trang thi nhân ở khổ thơ
này?
* Hs cảm nhận.
3. Khổ 3:
* Gv gọi 1 Hs đọc lại khổ
Hướng dẫn HS cảm nhận
* Gv hỏi: Nghệ thuật gì đã
được sử dụng ở câu thơ
đầu tiên? Phân tích ý nghĩ
của biện pháp nghệ thuật
đó?.
* Hs phát hiện và phân
tích


GV hỏi: “Áo em trắng
q” trong nền “sương
khói mờ nhân ảnh” có gợi
cho em những suy nghĩ
gì?
* Hs suy nghĩ trả lời

->Khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một bức tranh sông
Hương nên thơ, huyền ảo, phảng phất tâm trạng
u buồn, cô đơn của nhà thơ. Khổ thơ đã gieo
vào lịng người sự cảm thơng sâu sắc trước niềm
đau của thi nhân.
3. Khổ 3:
– “Mơ khách đường xa, khách đường xa”
+ “mơ”: đó là trạng thái vơ thức, nhà thơ đang
đắm chìm trong cõi mộng.
+ Điệp ngữ “khách đường xa” được lặp lại hai
lần, lần sau bỏ mất một chữ “ mơ ” khiến cho
câu thơ ẩn chứa hai tâm trạng, hai cung bậc cảm
xúc: lần đầu là khát vọng, lần sau là thực tại.
Khát vọng là mơ khách đường xa, nhưng thực
tại là càng mơ, càng mong khách lại càng xa.
→ điệp ngữ “ khách đường xa” đã đẩy người
khách xa đến vô vọng, xa đến nỗi không thể nào
gặp
được.
– “Áo em trắng q nhìn khơng ra”
+ “Áo em trắng quá” → từ “quá”: sự choáng
ngợp, thảng thốt nhưng đằng sau đó là sự nghẹn
ngào, xót xa nuối tiếc.

+ “nhìn khơng ra”: cực tả sắc trắng, trắng một
cách kỳ lạ và bất ngờ. Đây khơng cịn là màu
sắc thực nữa mà là màu của tâm tưởng.
– “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
+“Ở đây”: khơng gian nơi tác giả đang đắm
chìm trong đau thương, tuyệt vọng.
+ “Sương khói mờ nhân ảnh”: cảnh vật, con
người mờ ảo, xa xăm.

* Gv giảng: Xứ Huế nắng
nhiều, mưa nhiều, sương
khói hư ảo. Trong nền
“Sương khói mờ nhân
ảnh”, áo trắng lẫn với
sương đêm, vừa thực vừa
hư, vừa xa vừa gần. Đây – “Ai biết tình ai có đậm đà ?”

18


khơng cịn là màu sắc thực
mà đã thuộc màu của ảo
giác, huyền hoặc, khó
hiểu, xa vời của cuộc đời.
* Gv hỏi:

+ Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại 2 lần: nhấn mạnh
tâm trạng bâng khuâng, xót xa của một tâm hồn
đang khao khát được yêu, khao khát sự đồng
điệu, đồng cảm.


+ “Ai biết tình ai có đậm đà ?: câu hỏi tu từ
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” chứa đựng tâm trạng bất an, hồi nghi về tình
sử dụng nhằm mục đích người xứ Huế. Và đó cũng là niềm tha thiết với
gì?
cuộc đời của nhà thơ.
+ Chút hồi nghi trong
câu thơ cuối biểu hiện -> Khổ thơ cuối mang chút hồi nghi mà chan
tình cảm gì của tác giả?
chứa niềm thiết tha với cuộc đời và con người
* Hs trả lời
của một hồn thơ cô đơn
.
* Gv hỏi: Ai có thể đọc
được tâm trạng của tác giả III. TỔNG KẾT
trong cả khổ thơ này?* Hs 1.Nội dung:
trả lời
Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mếnđối với
Hoạt động 3:hướng dẫn cảnh sắc thiên nhiên con người xứ Huế và nỗi
HS tổng kết
buồn sâu kín trong dự cảm tình u và hạnh
III.
TỔNG
KẾT phúc chia xa của nhà thơ.
GV yêu cầu: Từ việc phân 2. Nghệ thuật
tich hãy khái quat nội – Hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm; ngơn ngữ
dung, nghệ thuật của bài trong sáng, tinh tế, giàu liên tưởng. Nghệ thuật
thơ
liên tưởng, so sánh, nhân hóa, cùng với những
câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơđược sử dụng

thành cơng
Hoạt động 4. Củng cố
dăn dị
– Gv hướng dẫn câu hỏi
luyện tập ( Sgk/40)
– Học bài cũ; chuẩn bị
bài mới “Từ ấy”
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo dục
Quan sát qua nhiều giờ khảo nghiệm, điều đầu tiên tôi nhận ra là học sinh
của tôi có ý thức hơn về việc nắm bắt kiến thức cũ của phân môn Tiếng Việt.
19


Các em đã thể hiện và phát huy kiến thức của mình để khám phá văn bản - cụ
thể ở đây là văn bản thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bản thân các em tự chủ và tự tin về
khả năng xử lý các thông tin ngôn ngữ trong bài thơ, nhận diện các yếu tố nghệ
thuật ngôn từ trong văn bản thơ.
Điều chúng tơi tâm đắc hơn cả chính là phương pháp dạy học tích cực này
giúp những người đứng lớp như chúng tơi có thêm giải pháp mới trong vấn đề
nan giải hiện nay: làm cách nào để nâng cao chất lượng học tập môn văn? Con
đường nào đưa lối cho học sinh đến gần hơn với văn học, trong đó có thơ?
Kết quả kiểm tra bài viết phân môn văn bản, cũng như kiểm tra các kiến
thức, kỹ năng của học sinh xoay quanh các văn bản khảo nghiệm như trên chúng
tơi có thể khẳng định việc dạy học theo phương pháp đề xuất đạt hiệu quả cao
hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận: Thực hiện đề tài Vận dụng tri thức tiếng Việt trong dạy đọc - hiểu
bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, chúng tôi rút ra mấy kết luận sau đây:
+ Việc vận dụng tri thức tiếng Việt để đọc - hiểu thơ trong chương trình trung
học phổ thơng phải có sự tồn diện, phụ thuộc vào những yếu tố nổi bật cần khai

thác ở các tác phẩm. Trước hết là tri thứ chung về ngôn ngữ thơ Nói cách khác,
đó thực sự là tri thức đọc - hiểu. Tiếp đó là tri thức về ngữ âm trong thơ (bao
gồm: vần điệu, nhịp điệu, thanh điệu và các hình thức phối âm khác); tri thức về
từ ngữ (vấn đề lựa chọn và kết hợp từ ngữ trong thơ, nghĩa của từ trong văn cảnh
cụ thể, các lớp từ ngữ được nhà thơ lựa chọn). Sau cùng là các biện pháp tu từ
(so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nói giảm, nói tránh, phóng đại, câu hỏi tu từ…). Có
thể nói, đây là những tri thức căn bản nhất người giáo viên tự trang bị và nâng
cao khả năng vận dụng, thành những kĩ năng, kĩ xảo trong dạy học thơ.
+ Muốn vận dụng tốt các tri thức tiếng Việt vào dạy đọc - hiểu thơ, nhất thiết
phải chọn những phương pháp dạy học phù hợp. Đó là phương pháp nêu vấn đề,
phương pháp phân tích mẫu, phương pháp diễn giảng... Dĩ nhiên, đây là những
phương pháp đã được đề cập đến nhiều trong các giáo trình phương pháp dạy
học, nhưng chúng tỏ ra rất phù hợp với những đề xuất của chúng tôi trong công
việc dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp.
- Kiến nghị:
+ Với Sở Giáo dục và Đào tạo, cần tổ chức các lớp tập huấn về đổi mới phương
pháp dạy học nhất là việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng
tích hợp.
+ Với lãnh đạo nhà trường, tạo điều kiện cho tổ chuyên môn tổ chức những Hội
thảo về việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng tích hợp.
+Với tổ chun mơn, tham mưu cho lãnh đạo nhà trường để trang bị những tài
liệu liên quan đến việc nội dung trên.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thanh Hùng, Lê Thị Diệu Hoa (2006), Phương pháp dạy học
Ngữ văn trung học phổ thông - những vấn đề cập nhật, Nxb Đại học
20


Sư phạm, Hà Nội.
2. Bùi Minh Toán (1989), “Những mối quan hệ hệ thống của ngơn ngữ

và việc phân tích ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn học trong giảng
dạy tiếng Việt và văn học”, Ngôn ngữ, (3), tr.29-38.
3.Đinh Trọng Lạc (chủ biên) - Nguyễn Thái Hòa (1998), Phong cách
học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Phan Trọng Luận chủ biên (1999), Phương pháp dạy học Văn, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, in lần thứ 6.
5. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên - 2005), Ngữ văn 11 (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà
Nội
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Thanh Hóa. Ngày tháng năm 2017
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của mình,
khơng sao chép nội dung của người khác
Lữ Thị Thanh Thủy

21



×