Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phát huy tính hiệu quả và sức hấp dẫn của giờ đọc hiểu văn bản ngữ văn 11 từ câu hỏi mở ở hoạt động củng cố dặn dò cho học sinh lớp 11a3 trường THPT quan sơn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.26 KB, 21 trang )

Phần 1: Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ yêu cầu, mục đích, nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy
học: “Lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ thể của học sinh”, “Dạy
học là dạy học sinh cách học”, “Quá trình học là quá trình kiến tạo, chiếm lĩnh
tri thức một cách chủ động sáng tạo”, trong đó vai trò định hướng của người
thầy quyết định đến việc tiếp thu, nắm vững kiến thức, hình thành kĩ năng, thái
độ của từng học sinh. Vì vậy người thầy cần có phương pháp đúng đắn, phù hợp
với từng phân môn, từng bài dạy, từng đối tượng cụ thể để giúp học sinh đạt kết
quả tốt nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, tư duy và thái
độ.
Trong hoạt động dạy học nói chung và dạy môn Ngữ văn nói riêng, để
phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập thì người giáo viên
có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo hoạt động của trò bằng nhiều phương pháp dạy học
tích cực. Thực tiễn dạy học đã sản sinh nhiều công trình nghiên cứu được áp
dụng trong quá trình giảng dạy đem lại hiệu quả cao. Trong các công trình đó
giáo viên đều chú trọng đến phương pháp gợi mở mà trong đó câu hỏi được sử
dụng như một liệu pháp chính để phát huy tư duy, rèn luyện kĩ năng cho học
sinh. Nắm bắt ý nghĩa và tầm quan trọng của Câu hỏi và nhất là câu hỏi gợi mở
trong dạy học, những giáo viên tâm huyết, coi các câu hỏi hiệu quả cao là linh
hồn của tiết học; chịu khó đọc, suy nghĩ, chịu khó ghi chép để có thể tạo ra
những câu hỏi hay, những câu hỏi thú vị, những câu hỏi làm các trụ cột chắc
chắn cho bài dạy. Tuy nhiên vẫn có giáo viên còn lúng túng trong việc xây dựng
hệ thống câu hỏi cho bài dạy của mình nhất là chưa chú trọng đến câu hỏi mở ở
phần việc Củng cố - dặn dò. Có thì cũng mang tính ngẫu hứng chứ chưa thật sự
đầu tư. Như vậy, việc xây dựng và sử dụng câu hỏi ở hoạt động Củng cố - dặn
dò như thế nào trong giờ đọc - hiểu để đem lại hiệu quả cao nhất là điều mà
nhiều giáo viên dạy văn phải trăn trở và suy nghĩ.
Thực tiễn dạy Ngữ văn ở nhiều trường THPT, trong đó có trường THPT
Quan Sơn 2 cho thấy số đông học sinh không còn dành nhiều tình cảm cho môn
học này là có thực. Bởi tâm lí chung của học sinh, phụ huynh và cả xã hội trước


tác động của nền kinh tế thị trường. Hơn nữa hầu hết học sinh trường THPT
Quan Sơn 2 khá chậm trong quá trình tư duy và tiếp thu bài dẫn đến tâm lí ngại
học, nhất là môn Ngữ văn. Đã thế, với mỗi tiết dạy có nhiều hoạt động. Mỗi hoạt
động có nhiều bước, nhiều mục, nhiều yêu cầu mà giáo viên phải tiến hành. Cho
nên phần Củng cố- dặn dò, một hoạt động chiếm thời gian rất nhỏ trong cả tiết
1


dạy 45 phút; thường bị xem nhẹ, thậm chí là bỏ qua, bị “cắt” nếu như bài quá dài
hoặc là “cháy giáo án”. Cho nên, hiệu quả bài dạy không cao, chưa thực sự phát
huy hết năng lực sáng tạo cũng như chưa rèn luyện tư duy, kĩ năng, thái độ ở học
sinh một cách triệt để nhất.
Đặc biệt, việc kiểm tra đánh giá năng lực học sinh được tiến hành chủ yếu
thông qua dạng đề mở từ các bài kiểm tra trên lớp, bài thi học kì, bài thi tốt
nghiệp THPT đến thi chọn đội tuyển học sinh giỏi các cấp. Như vậy việc đưa ra
những câu hỏi mở ở hoạt động cuối cùng của tiết học không chỉ giúp học sinh
hiểu sâu văn bản, hình thành một số kĩ năng thiết yếu như: kĩ năng giao tiếp,
tranh biện, xử lí tình huống,… mà còn đáp ứng yêu cầu thi cử hiện nay. Bởi lẽ,
rèn luyện được kĩ năng giải quyết các câu hỏi mở thì chắc chắn sẽ giải quyết một
cách thành thục các đề văn theo hướng mở.
Vì những lí do trên, tôi đã tiến hành thực nghiệm trong quá trình giảng
dạy và đúc rút sáng kiến kinh nghiệm: “Phát huy tính hiệu quả và sức hấp dẫn
của giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn 11 từ Câu hỏi mở ở hoạt động Củng cố dặn dò cho học sinh lớp 11A3 trường THPT Quan Sơn 2.”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với sáng kiến này, tôi mong muốn nêu ra những câu hỏi theo hướng mở
ở hoạt động cuối cùng của tiến trình dạy học; đồng thời cũng trình bày những
tác động tích cực từ kết quả của hoạt động ấy nhằm:
- Thấy được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động cuối cùng của
giờ dạy: Củng cố- dặn dò.
- Đề xuất một số hình thức của câu hỏi mở để hoạt động Củng cố - dặn dò

trở nên có hiệu quả và có sức hấp dẫn hơn, giúp học sinh nắm chắc và hệ thống
hoá lại được kiến thức đã tìm hiểu trong giờ học.
- Sau khi học xong một văn bản, học sinh hình thành và được rèn luyện kỹ
năng từ đó có thể đạt kết quả cao trong các cuộc thi hiện nay, nhất là có kĩ năng
sống tốt, tự tin và bản lĩnh hơn trong cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là câu hỏi mở mà giáo viên cần chú trọng trong
hoạt động Củng cố - dặn dò, cụ thể:
- Hướng đến câu hỏi gợi mở vừa mang tính tổng kết vừa mang tính kiểm
tra đánh giá năng lực nhận thức của học sinh, đồng thời phát huy vai trò chủ
động tích cực của học sinh, từ đó giúp các em hình thành và có thêm thời gian,
cơ hội rèn luyện kĩ năng mềm cần thiết.

2


- Do điều kiện thời gian có hạn nên tôi dừng lại nghiên cứu và thực hành
những văn bản trong chương trình Ngữ văn 11, và chủ yếu là các tác phẩm thuộc
giai đoạn văn học 1930-1945.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu về lý luận: Nghiên cứu các tài liệu liên quan
đến phương pháp giảng dạy, nghiên cứu sách giáo khoa, hướng dẫn giảng dạy
các loại sách tham khảo có liên quan đến đề tài. Tìm hiểu tài liệu phương pháp
về lý thuyết đặt câu hỏi trong giảng dạy tác phẩm văn chương.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Hoạt động của thầy và hoạt động của
trò trong giờ văn đôi khi còn trầm chưa tạo được không khí sôi nổi say sưa. Hệ
thống câu hỏi của thầy chưa thực sự phù hợp, khiến nhiều học sinh không thích
bộ môn nghệ thuật này. Quá trình nghiên cứu lý thuyết về câu hỏi của thầy đôi
khi chưa sâu sắc, việc nắm bắt các loại hình câu hỏi để vận dụng vào việc dạy

văn theo còn mơ hồ, nên việc đặt câu hỏi cho phù hợp đôi khi còn khó khăn.
Trong khi đó, học sinh thụ động, lười đọc, lười viết, không chú tâm nên kết quả
học tập môn học khá thấp..
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Về phía người dạy: hệ thống câu
hỏi chưa thực sự đa dạng, linh hoạt, câu hỏi gợi mở có sử dụng nhưng chưa chú
trọng nhiều, nhất là phần cuối bài. Về phía người học: tỉ lệ điểm khá giỏi rất
thấp. Điểm yếu kém còn nhiều.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Với đề tài này tôi đã thực nghiệm ở
lớp 11A3 và đối chứng với lớp 11A2 trong năm học 2017 - 2018.

3


Phần 2: Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài.
Trong hoạt động dạy và học, tiến trình bài dạy chia thành nhiều bước.
Phần việc “củng cố- dặn dò” là hoạt động cuối cùng sau khi tìm hiểu xong toàn
bộ giá trị của tác phẩm, trước khi kết thúc giờ học. Mỗi một hoạt động đều có
phương pháp riêng thích hợp. Tuy là phần việc cuối cùng chiếm khối lượng thời
gian ít ỏi nhưng có vai trò quan trọng, cũng là một phần tạo nên sự hoàn thiện
của một giờ lên lớp. Cho nên nếu biết vận dụng linh hoạt sáng tạo phương pháp
gợi mở qua các câu hỏi thì sẽ phát huy được tính hiệu quả và sức hấp dẫn cho
hoạt động dạy và học của thầy trò.
Aristotle là người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ lôgic, ông cho
rằng: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái chưa
biết”. Hỏi mở là hỏi khi muốn nắm bắt ý kiến riêng của người được hỏi, đào sâu
thêm thông tin, khơi gợi người được hỏi nói về những điều bạn chưa biết hay
còn mơ hồ. Câu hỏi mở thường bắt đầu bằng từ để hỏi có dạng “vì sao, như thế
nào, ở đâu, ý kiến của bạn về vấn đề đó…”. Câu hỏi mở là những câu hỏi không
có câu trả lời cố định, chúng kích thích suy nghĩ và mở ra những trao đổi hoặc

tranh luận, người được hỏi không bị gò bó về câu trả lời. Trong câu hỏi mở
thường người hỏi đã định hướng điều gì có giá trị và điều gì quan trọng, cũng
như khơi gợi nhiều đáp án đa dạng hoặc kích thích trao đổi, thảo luận và tranh
luận. Đây là phương pháp dạy học mà giáo viên không trực tiếp đưa ra những
kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để các em tự tìm
ra kiến thức mới phải học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của học
sinh, người ta phân biệt các loại: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh họa
và vấn đáp gợi mở, tìm tòi. Trong đó vấn đáp gợi mở, tìm tòi còn được gọi là
vấn đáp phát hiện hay đàm thoại ơrixtic. Là loại vấn đáp mà giáo viên tổ chức sự
trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò,
thông qua đó, học sinh nắm được tri thức mới. Hệ thống câu hỏi được sắp đặt
hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải quyết một số vấn đề xác định, buộc học
sinh phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải đáp. Trật tự logic của các câu hỏi kích
thích sự tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên đóng vai trò người tổ chức sự
tìm tòi còn học sinh thì tự lực phát hiện kiến thức mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm
thoại, học sinh có được niềm vui của sự khám phá. Cuối giai đoạn đàm thoại,
4


giáo viên khéo léo vận dụng các ý kiến của học sinh để kết luận vấn đề đặt ra, có
bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết.
Câu hỏi gợi mở trong phần Củng cố - dặn dò giúp lôi cuốn học sinh tham
gia vào những phút cuối cùng của tiết học, làm cho không khí lớp học sôi nổi,
sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của các em, rèn luyện cho
các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình và hiểu ý diễn đạt của người
khác.
Với câu hỏi mở thì cùng một câu hỏi học sinh có thể trả lời theo mức độ
hiểu biết của mình, nghĩa là câu trả lời có thể từ dễ đến khó. Chính vì thế học
sinh nào cũng có thể tham gia trả lời câu hỏi, không bị bỏ rơi trong quá trình dạy
học và đánh giá được năng lực học sinh ở tất cả các mức độ.

Cùng một câu hỏi gợi mở có thể huy động kiến thức của nhiều môn học
khác nhau, đáp ứng yêu cầu tích hợp trong dạy học hiện nay. Câu hỏi mở kích
thích hứng thú và sự sáng tạo của các em. Ngoài ra nó còn tạo môi trường để
học sinh giúp đỡ nhau trong học tập. Câu hỏi gợi mở có ý nghĩa thúc đẩy hoạt
động tích cực của học sinh, tránh được sự mệt mỏi, nhàm chán trong những phút
cuối cùng của bài đọc - hiểu.
Câu hỏi gợi mở sẽ giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện kĩ năng
chắc chắn, không mang tính áp đặt để giúp các em hiểu những tác phẩm được
học chính thức trong sách giáo khoa mà cả những tác phẩm ngoài sách giáo
khoa nhưng cùng một chủ đề.
Giáo viên có thể thông qua hệ thống câu hỏi để kiểm tra mức độ hiểu bài
của học sinh. Và qua chính hệ thống câu hỏi đã được chắt lọc, chọn lựa đó cũng
là một định hướng giúp học sinh nhận biết được nội dung trung tâm của bài học.
Câu hỏi kiểm tra cần phong phú, linh hoạt, ở nhiều cấp độ để học sinh vừa thể
hiện hiểu biết của mình vừa cảm thấy hấp dẫn và hứng thú. Từ đó, mới tạo được
hiệu quả và sức hấp dẫn của giờ học.
Vậy thế nào là câu hỏi gợi mở có chất lượng?
Câu hỏi phải sát hợp với tác phẩm và khêu gợi hứng thú của bản thân học
sinh.
Câu hỏi ngoài tính chất rõ ràng phải có màu sắc văn học, có khả năng
khêu gợi tình cảm, xúc động thẩm mỹ cho học sinh.
Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ học trên
lớp, vừa có khả năng gợi vấn đề suy nghĩ tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
Câu hỏi không tuỳ tiện, được xây dựng thành trên cơ sở tính toán, dự liệu
những câu trả lời của học sinh, trên cơ sở định hướng giúp học sinh hiểu sâu tác
phẩm như một chỉnh thể nghệ thuật.
5


Như vậy, việc dùng hệ thống câu hỏi mở ở hoạt động Củng cố - dặn dò với

nhiều cấp độ khác nhau để kiểm tra năng lực nhận thức và sáng tạo của học sinh.
Nhưng bằng cách nào để thoả mãn được những yêu cầu đó là vấn đề mà bản
thân tôi luôn tìm tòi đổi mới để tìm ra phương án tối ưu nhất.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Rõ ràng vai trò của hoạt động Củng cố - dặn dò đối với mỗi tiết học là rất
quan trọng. Sau mỗi tiết học, học sinh được củng cố và gợi mở kiến thức bài học
một cách có hệ thống, khoa học, sinh động....Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều
giáo viên đã bỏ qua hoặc làm chưa tốt hoạt động này với các lí do như: phân
phối thời gian không hợp lí nên cháy giáo án, không còn thời gian cho củng cố
dặn dò; không đánh giá đúng tầm quan trọng của hoạt động củng cố dặn dò nên
thực hiện qua loa, sơ sài, chiếu lệ, thiếu đầu tư, chỉ khoảng 1,2 phút cuối giờ, có
dành thời gian 4, 5 phút cho củng cố dặn dò nhưng làm rập khuôn máy móc,
chưa sáng tạo, chưa hấp dẫn, chỉ là thầy thao thao bất tuyệt nhắc lại kiến thức
chính cần nhớ hoặc hỏi học sinh rất nhiều câu hỏi về bài học vừa qua; hoặc đưa
ra yêu cầu soạn bài đối với đối học sinh. Thật đơn giản khi nghĩ cứ yêu cầu học
sinh về học thuộc phần ghi nhớ, soạn bài mới theo câu hỏi sách giáo khoa là
xong, là hết bài. Trong khi đó, học sinh trường THPT Quan Sơn 2 - trường vùng
cao biên giới, giáp Lào - đa phần là người Thái, Mường, nhất là người H’Mông
lại rất yếu về kĩ năng xác định nội dung câu hỏi, không biết hướng trả lời, ‘‘thầy
hỏi một đằng, trò trả lời một nẻo”, không chịu động não, không ham học, hay
làm đối phó cho xong. Mặt khác, nhiều câu hỏi trong sách giáo khoa còn chung
chung, hoặc đưa ra yêu cầu vượt sức với học sinh mà đa phần đều là con em các
dân tộc thiểu số.
Tôi đã đi dự rất nhiều giờ của các đồng nghiệp trong tổ Xã hội tại trường
THPT Quan Sơn 2, nhận thấy rằng bên cạnh những giáo viên chú trọng thực
hiện đầy đủ nghiêm túc và hiệu quả hoạt động củng cố dặn dò, cũng có những
giáo viên thực hiện rất qua loa, sơ sài, cá biệt có cả những tiết dạy chưa chú ý
coi trọng phần này. Dường như đâu đó vẫn có tâm lí coi nhẹ, nếu có thì thiên về
“dặn dò” nhiều hơn là “củng cố”. Nhiều giáo viên chỉ nhắc chung chung: bài
học của chúng ta đến đây là hết, các em về nhà soạn bài cho bài sau chứ chưa có

sự đầu tư thích đáng. Thực ra, điều này tôi cũng nghĩ bởi những nguyên nhân
khách quan. Như đã nói ở trên, mỗi tiết đọc văn có rất nhiều nội dung cần tìm
hiểu, mà thời lượng phân phối chương trình cho mỗi bài thì có hạn, nên môn
Ngữ văn hay rơi vào tình trạng thiếu giờ, “cháy giáo án”. Vì vậy, giáo viên khi
6


đứng lớp “chạy” cho hết bài đã “bở hơi tai” rồi, ít khi giành được thời gian cho
hoạt động “củng cố” bài.
Từ thực tế như vậy, tôi đã nghiên cứu và sử dụng câu hỏi mở với những
hình thức khác nhau nhằm góp phần đổi mới hoạt động củng cố dặn dò để tiết
đọc hiểu văn bản hấp dẫn hơn, kích thích hứng thú học tập, phát huy tính sáng
tạo ở các em, giờ dạy - học đạt kết quả cao hơn.
2.3. Một số biện pháp giải quyết thực trạng.
Trong học văn kiến thức chỉ thực sự trở thành tài sản của một học sinh khi
kiến thức đó được tiếp nhận thông qua sự vận động của bản thân chủ thể học
sinh. Tác phẩm văn chương chỉ thực sự phát huy được sức mạnh của nó khi khơi
dậy được từ bên trong người tiếp nhận những cảm xúc rung động và hoạt động
nhận thức, sáng tạo.
Do yêu cầu của phần việc chủ yếu là của người giáo viên là định hướng
học sinh nắm vững kiến thức trọng tâm và phát huy khả năng sáng tạo của người
học, nên trong đề tài “Phát huy tính hiệu quả và sức hấp dẫn của giờ đọc hiểu
văn bản Ngữ văn 11 từ câu hỏi mở ở hoạt động Củng cố - dặn dò cho học
sinh lớp 11A3 trường THPT Quan Sơn 2”, tôi chủ yếu đề cập đến hoạt động
của giáo viên và chú trọng đến cách sử dụng câu hỏi mở với các hình thức khác
nhau để học sinh thảo luận, trao đổi, trình bày những hiểu biết và kiến giải của
mình về bài học.
2.3.1. Sử dụng Câu hỏi mở hướng dẫn học sinh thảo luận.
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu và tranh luận về tên tác phẩm, tên đoạn
trích: Tên tác phẩm, tên đoạn trích (có thể do người biên soạn đặt) đều bao hàm

chứa đựng nội dung của tác phẩm, được biểu đạt ở dạng khái quát nhất. Do đó, thảo
luận về tiêu đề tác phẩm là một phương thức khá lý thú, hấp dẫn lại có hiệu quả trực
tiếp.
Ví dụ:
+ Nếu tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không có sự xuất hiện của nhân
vật thị Nở thì…
+ Tại sao tác giả lại đặt tên tác phẩm là “Hai đứa trẻ”? Nếu được đặt tên
lại em sẽ đặt là gì?
+ Tại sao đoạn trích lại có tiêu đề rất vô lí “Hạnh phúc của một tang
gia”?
+ Thế nào là “chữ” trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân?
+ Sau khi học xong bài thơ, theo em có thể thay nhan đề “Vội vàng” bằng
nhan đề nào khác hay không?
7


Rõ ràng khi trả lời được câu hỏi này học sinh phải nắm chắc nội dung bài
học. Đồng thời với việc đưa ra câu hỏi tình huống (nếu...), học sinh sẽ hết sức
phấn khởi khi được tham gia vào việc tạo dựng tác phẩm (dù chỉ dừng lại tên gọi
của nó). Với những câu hỏi này giáo viên nên hết sức chú trọng đến ý kiến cá
nhân học sinh để có thể bổ sung hoặc điều chỉnh hợp lí.
Giáo viên đưa ra những nhận định của những nhà phê bình, nghiên cứu để
từ đó yêu cầu học sinh thảo luận:
Ví dụ: + Tại sao Xuân Diệu lại cho rằng bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là
“dọn đường cho lòng yêu giang san tổ quốc”?
+ Về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh nhận
định: “Bài thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa
những buồn vui của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận
thế”. Dựa vào đâu Hoài Thanh đã nhận định như vậy?
+ Huy Cận đã dành những lời trân trọng cho Thạch Lam- tác giả của

truyện ngắn “Hai đứa trẻ”: Thạch Lam đã giúp chúng ta “một cách cảm nhận
cuộc đời, một lối rung cảm trước cảnh đời. Thạch Lam cho ta thêm kích thước
để hiểu và để sống cuộc sống vốn giàu đẹp tình người”. Vì lẽ gì Huy Cận khẳng
định như vậy?
Những câu hỏi thuộc kiểu loại trên đòi hỏi học sinh phải tư duy thấu đáo.
Đây là câu hỏi đòi hỏi tư duy của học sinh. Học sinh cần phải hiểu nội dung bài
học và nhận định của nhà nghiên cứu, từ đó phải huy động kiến thức để lí giải,
chứng minh. Những câu hỏi này giúp học sinh phát triển tư duy và cách lập luận.
Xuất phát từ đặc trưng của bộ môn văn học: vừa là bộ môn nghệ thuật
ngôn từ, vừa là bộ môn khoa học cho nên có nhiều cách khám phá giá trị tác
phẩm là điều bình thường. Điều cần lưu ý là giáo viên có thể định hướng những
cách hiểu khác nhau nhưng không khiên cưỡng học sinh phải hiểu theo một ý
kiến chủ quan, quan trọng là xem xét đến sự lí giải của các em. Từ đó các em
được biết nhiều “kênh” khác nhau, đồng thời giúp các em rèn luyện “bản lĩnh”
nghiên cứu...
2.3.2. Sử dụng Câu hỏi mở hướng dẫn học sinh phát biểu cảm nghĩ.
Giáo viên cung cấp cho học sinh những cách tiếp cận khác nhau về tác
phẩm, sau đó cho học sinh cảm nhận và lí giải cách hiểu phù hợp với năng lực
của mình:
Ví dụ 1: Sau khi đọc hiểu, em cảm nhận gì về nhan đề “Hai đứa trẻ” - Thạch
Lam?
Câu trả lời của học sinh như sau:
8


Em Hà Thị Xuyến: Xuất phát từ nhan đề Hai đứa trẻ nên chúng em cảm
nhận được nguyên sơ, hồn nhiên, chân thật nhất về con người, cuộc sống phố
huyện, nhờ đó bức tranh phố huyện hiện lên cụ thể, chân thực, sinh động.
Em Lò Thị Hiền: Từ nhan đề Hai đứa trẻ, tức là nhân vật Liên và An: hai
mầm sống non tơ được đặt trên bối cảnh phố huyện nghèo - mảnh đất cằn cỗi

không có sinh khí đã tạo nên sự trái ngược chứa đựng mâu thuẫn nhân sinh làm
day dứt lòng người, làm toát lên chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Ví dụ 2: Về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (SGK Ngữ văn 11, tập II,
Nhà xuất bản Giáo dục), có những nhận xét sau:
- Bài thơ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước.
- Bài thơ thể hiện nỗi đau xót, tuyệt vọng của một tâm hồn cô đơn
- Bài thơ là tiếng lòng của một con người thiết tha yêu đời, yêu người.
ý kiến của các bạn như thế nào?
Câu trả lời của em Ngân Thị Lan làm tôi bất ngờ và rất mừng vì suy nghĩ
hết sức thấu đáo của em. Em phát biểu: có thể thấy, ba nhận xét nêu trên thực ra
là ba nội dung ý nghĩa được kết hợp hài hoà trong bài thơ. Nhưng cần nhấn
mạnh và làm nổi bật nhất ý thứ ba: thể hiện khát vọng, tình yêu đối với cuộc đời
và con người của nhà thơ. Qua đó giá trị, vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm, của con
người nhà thơ càng khiến tác phẩm có sức sống lâu bền và nhận được sự đồng
cảm, chia sẻ của người đọc.
Ví dụ 3: Kết thúc phần đọc hiểu văn bản Chí Phèo - Nam Cao, em có ấn tượng
như thế nào về chi tiết “bát cháo hành?
Câu trả lời ấn tượng từ em Hà Thanh Phong: Thị Nở và bát cháo hành
xuất hiện như một đối nghịch với những người đàn bà trong kí ức của Chí khiến
Chí phải đi tù. Để rồi Chí nhận ra tình cảm thực sự trong hương vị tình người từ
bát cháo hành. Chí rung rung xúc động, “mắt hình như ươn ướt” hắn ngạc nhiên
vì trước giờ không ai tự nhiên cho không hắn cái gì? Nếu hơi rượu tượng trưng
cho sự lưu manh thì hơi cháo hành tượng trưng cho tình người lương thiện. Hơi
cháo hành xuất hiện hai lần trong tác phẩm khơi gợi khát vọng trở về thế giới
loài người trong Chí. Lần thứ hai, khi Chí tuyệt vọng nhất, hơi cháo lại xuất hiện
như một vết cứa khắc sâu bi kịch không được làm người lương thiện.
2.3.3. Sử dụng Câu hỏi mở hướng dẫn học sinh sáng tạo.
Ví dụ 1: Thi đặt tên cho truyện ngắn Hai đứa trẻ - Thạch Lam theo cách của
riêng em.
Sau khi cho học sinh thử sức sáng tạo của mình, tôi đã nhận được những

tên truyện mà các em học sinh lớp 11A3 đã đặt như sau: Tình chị em, Khát khao
9


ánh sáng, Hi vọng, Những mảnh đời bất hạnh, Chuyến tàu đêm, Bóng tối và ánh
sáng, Ánh sáng hi vọng, Tàu muộn, Ánh sáng xa xôi, Cái ao đời, Đợi tàu...
Mỗi nhan đề thể hiện những cảm nhận khác nhau của các em. Điều này
khiến các em cảm thấy hứng thú hơn, thấy mình cũng như được tham gia và
sống cùng tác phẩm. Tôi đã cảm nhận thấy sự hào hứng thực sự của học sinh
khiến cho sau khi giờ học kết thúc, các em đều cảm thấy thoải mái và tự tin hơn
vì đã được bộc lộ mình, trở nên mạnh dạn hơn.
Ví dụ 2: Bằng đôi dòng thơ hoặc một bức thư ngắn, em hãy hóa thân vào nhân
vật Chí Phèo để gửi cho Thị Nở trước khi xách dao đến nhà Bá Kiến?
Bằng đôi dòng thơ hoặc một bức thư ngắn, em hãy hóa thân vào nhân vật
Thị Nở để nói lời cuối với Chí Phèo?
Rất nhanh trong ba phút, em Hà Văn Tiêng đã nhập vai Chí gửi lại tâm sự
của mình cho Thị Nở:
Thị ơi, ai xấu bằng em
Chẳng ai bất hạnh như em trên đời
Thế mà em lại hơn người
Sống cùng quỷ dữ, để lời yêu thương
Em cười tuy chẳng có duyên
Nhưng em lại có trái tim hơn đời.
Học sinh Hà Thanh Hùng đã viết nên những dòng thơ để Thị Nở nói lời
cuối với Chí Phèo:
Anh ơi, anh đã đi rồi
Chúng mình…xin được hẹn hò kiếp sau
Dẫu rằng phải kiếp lưu manh
Nhưng anh vẫn đẹp tình người Chí ơi
Anh đi, anh được làm người

Hóa thành bất tử giữa đời nhiễu nhương.
Ví dụ 3: Em hãy phổ nhạc cho bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử.
Cô và trò có những giây phút sống với tác phẩm bằng thơ và nhạc qua
giọng hát ngọt ngào của em Hà Thị Thu với sức lan tỏa sâu rộng từ bài học.
2.3.4. Sử dụng Câu hỏi mở hướng dẫn học sinh liên hệ thực tế.
Ví dụ 1: Theo em, qua bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã thể hiện một quan
niệm sống như thế nào? Từ đó, em suy nghĩ gì về “lối sống gấp” của một bộ
phận thanh niên hiện nay?
Nhiều em đưa ra quan điểm của mình. Các em đều thấy được quan niệm
sống tích cực, mới mẻ, thấm đượm tinh thần nhân văn trong bài. Bên cạnh đó
cũng cho thấy trào lưu, lối sống gấp của một bộ phận thanh niên hiện nay như:
10


+ Lối sống hưởng thụ, buông thả, lãng phí thời gian- tiền của- công sức
vào những thú tiêu khiển không lành mạnh... nhằm bao biện cho quan điểm:
phải tận hưởng cuộc sống, phải biết chơi hết mình: chơi game, quán bar, vũ
trường, sống thử...
+Sống vội, lao đầu vào công việc để khẳng định vị trí của mình trong xã
hội…
Các em đều nhận thấy: Những biểu hiện trên đều thể hiện một lối sống
lệch lạc, có nhiều tiêu cực: hoặc hạ thấp giá trị bản thân, sa ngã, đánh mất tương
lai hoặc phát triển không cân bằng, chỉ lao đầu vào công việc mà quên đi những
giá trị sống khác (yêu thương, chia sẻ, cảm giác tĩnh tại của bản thân, cảm xúc
bình dị mà nên thơ của cuộc sống...), thậm chí còn dẫn đến trầm cảm, vô cảm.
2.3.5. Sử dụng Câu hỏi mở theo một số hình thức khác.
Giáo viên tổ chức cho học sinh tham gia một số trò chơi vơi những câu
hỏi yêu cầu học sinh phát hiện trả lời nhanh băng việc huy động vốn kiến thức,
tư duy nhanh nhạy của mình.
Ví dụ 1: Sau khi nghe xong bài thơ viết về nhân vật Huấn Cao, em hãy phát hiện

nhanh xem có điểm gì đặc biệt về thanh điệu?
Tượng đài Huấn Cao
Kẻ tử tội- nghệ sĩ

Đến cái chết chẳng sợ

Thành anh hùng muôn năm

Người về hồn thăng hoa

Chẳng những tặng chữ đẹp

Cháy sáng giữa ngục tối

Còn ban lời “thiên lương”

Cho đời bao bài ca

Quản ngục cũng nghệ sĩ

Cụ Nguyễn ở chín suối

Như thanh âm trong veo

Đang âm thầm cười khà

Giữa bản nhạc hỗn tạp

Bởi cái đẹp sống mãi


Vì Tâm- Tài ông theo

Dù đi về nơi xa...

Học sinh đã trả lời được: Bài thơ có 16 câu, chia làm 4 khổ, mở đầu là câu
thơ mang toàn thanh trắc, rồi câu thơ tiếp theo mang toàn thanh bằng, cứ thế xen
kẽ nhau. Như vậy, 8 câu mang thanh trắc đan xen đều với 8 câu mang thanh
bằng. Với biện pháp tổ chức âm điệu ấy đã tạo nên ấn tượng về một Huấn Cao
gân guốc, kiên trung bất khuất nhưng vẫn mềm mại, tài hoa. Mặt khác, cách tổ
chức ấy còn biểu hiện tình cảm sâu nặng thiết tha, niềm tin tưởng giữa người tử
tù và quản ngục.
11


Ví dụ 2: Tìm tên tác phẩm của nhà văn Nam Cao trong bài thơ sau:
Cả đời lão Hạc chuyên cần
Chắt chiu nhặt nhạnh để phần cho con
Ở đời không thể sống mòn
Mà như trăng sáng vuông tròn trước sau
Chí Phèo cuộc sống đớn đau
Bị lưu manh hoá cơ cầu mà chi!
Vợ con cơm áo xá gì?
Đời thừa cơ cực đến khi bạc đầu
Cuộc sống tươi đẹp thấy đâu?
Một bữa no khiến ta đau đớn lòng!
Mấy ai dò được lòng sông
Phải có đôi mắt sáng trong nhìn đời.
Học sinh trong lớp trả lời rất nhanh: Bài thơ có nhắc đến 7 tác phẩm của
nhà văn Nam Cao (những chữ đã in nghiêng).
Ví dụ 3: Qua trò chơi ô chữ: vừa kiểm tra kiến thức vừa tạo sự hứng thú

vừa rèn luyện tư duy và kĩ năng cho học sinh:

Học sinh lần lượt trả lời 13 câu hỏi, sau đó sẽ tìm được những chữ cái
trong từ khoá. Sắp xếp các chữ cái sẽ tìm được từ chìa khoá, tất nhiên nội dung
câu hỏi và từ chìa khoá đều liên quan đến Thạch Lam và văn bản “Hai đứa trẻ”.
Nội dung các câu hỏi theo thứ tự như sau:
1. Quê của nhà văn Thạch Lam?
2. Tên khai sinh của Thạch Lam?
3. Thạch Lam là nhà văn tiêu biểu của nhóm văn nào?
12


4. Truyện ngắn của Thạch Lam thường được ví với.....?
5. Phong cách viết văn của Thạch Lam?
6. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam?
7. Tên một nhân vật chính trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”?
8. Mở đầu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là âm thanh gì?
9. Tâm trạng của nhân vật Liên trước giờ khắc của ngày tàn?
10. Đây là nhân vật hơi điên được miêu tả trong tác phẩm?
11. Tiếng cười của bà cụ Thi?
12. Đây là từ miêu tả ánh sáng của các toa tàu?
13. Ba từ kết thúc tác phẩm?
Sau khi trả lời đúng các câu hỏi, ô chữ hiện lên đầy đủ là:

Học sinh sắp xếp lại trật tự các chữ cái trong từ chìa khoá ở hàng dọc sẽ
được đáp án cần tìm là: Nắng trong vườn, là tên một tập truyện của Thạch Lam.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm trích trong tập truyện ngắn này.
Ở những câu hỏi thuộc kiểu dạng này, giáo viên dần đưa các em vào việc
khám phá nội dung đồng thời bày tỏ suy nghĩ, thái độ của cá nhân mình về một
vấn đề của bài học trước tập thể lớp. Điều này giúp các em dần chủ động hơn

trong việc lĩnh hội và khám phá tác phẩm.
Chúng tôi nhận thấy trong chương trình môn Ngữ văn ở cấp Trung học
phổ thông, các tác phẩm đưa ra đều có giá trị ở nhiều mặt. Do đó, những câu hỏi
13


gợi mở nêu trên là những câu hỏi cần thiết mang tính gợi mở, nêu vấn đề, định
hướng giúp học sinh tự tin để đọc - hiểu các tác phẩm trong và ngoài chương
trình.
2.4. Kết quả đạt được
Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy việc xây dựng và sử dụng hệ thống câu
hỏi gợi mở ở hoạt động Củng cố - dặn dò có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
tiết đọc hiểu văn bản. Với các dạng thức câu hỏi mở ấy bài dạy đáp ứng được
nhiều yêu cầu: đánh giá năng lực học sinh; hình thành kĩ năng sống; rèn luyện kĩ
năng đọc - hiểu; đa dạng hóa hình thức hoạt động; tạo không khí vui vẻ, thoải
mái cho lớp học và nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết cho các em học sinh.
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi đã ứng dụng và khảo sát, thấy được mức độ
hiểu bài, sự hứng thú của học sinh đối với bài học và hiệu quả giờ Ngữ văn tăng
lên. Đối với lớp 11A3 đã áp dụng sáng kiến này, so với lớp đối chứng là 11A2,
tôi nhận thấy ở lớp thực nghiệm học sinh hứng thú học bài hơn, và tỷ lệ học sinh
hiểu bài qua khảo sát cuối giờ học cao hơn, phần chuẩn bị bài cho tiết học sau
của học sinh tốt hơn. Tôi đã thống kê chất lượng khảo sát đầu năm, sau đó phát
phiếu thăm dò ý kiến học sinh yêu thích học môn Ngữ văn ngay từ đầu năm học.
Sau khi thi học kì 2, người viết thống kê chất lượng 2 lớp và lại phát phiếu thăm
dò ý kiến học sinh yêu thích học môn Ngữ văn. Kết quả thu được đã có sự khác
biệt tương đối rõ. Tổng hợp kết quả tiếp thu bài của học sinh qua hoạt động
kiểm tra, đánh giá ở các lớp 11A3 (lớp thực nghiệm) và 11A2 (lớp đối chứng)
như sau:
Kết quả thăm dò ý kiến học sinh
Lớp

Hứng thú
Không hứng thú
Đầu năm học Lớp 11A2
15 học sinh
17 học sinh
2017 – 2108
Lớp 11A3
16 học sinh
16 học sinh

Lớp
Cuối năm học Lớp 11A2
2017 - 2108
Lớp 11A3

Hứng thú
20 học sinh
28 học sinh

Không hứng thú
12 học sinh
4 học sinh

KẾT QUẢ KHẢO SÁT SAU KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

14


KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Khối lớp


Tổng số
học sinh

Đầu 11A2
năm
11A3

32

Cuối 11A2
năm
11A3

32

Giỏi

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%


TS

%

TS

%

0

0%

5

15,6%

16

50%

11

34,4%

0

0%

6


18,8%

18

56,3%

8

24,9%

0%

6

18,8%

20

62,5%

6

18,8%

6,3
%

12

37,5%


17

53,1%

1

3,1%

32

32

Khá

0
2

Như vậy, với lớp có áp dụng đề tài này, tôi nhận thấy hiệu quả hơn một
cách rõ ràng. Cụ thể với lớp đối chứng 11A2, tuy chất lượng có tăng lên so với
khảo sát ban đầu nhưng không cao bằng lớp 11A3. Tất nhiên hứng thú của học
sinh và hiệu quả giờ giảng Ngữ văn tăng lên tuỳ thuộc phần lớn vào quá trình
hoạn động của thầy và trò trong bài học, sự cố gắng nỗ lực của học sinh trong
giờ học và việc học bài ở nhà, nhưng việc chú ý đầu tư xây dựng hệ thống câu
hỏi gợi mở cho phần củng cố dặn dò có tác dụng bổ trợ rất tốt cho học sinh trong
hoạt động chiếm lĩnh tác phẩm. Nó như một bậc thang không thể thiếu trên tiến
trình chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng của học sinh. Nếu bỏ qua hoặc chú ý không
đúng mức tới khâu này, giáo viên sẽ không giúp học sinh có cơ hội hiểu sâu bài
học, không đạt mục tiêu đã đề ra. Học sinh không có cơ hội thể hiện bản thân,
không phát huy khả năng sáng tạo cũng như tính tích cực của mình,...

.
Để tài này có khả năng ứng dụng và triển khai rộng rãi trong hầu hết các
tiết văn trong chương trình Ngữ Văn THPT (trừ tiết kiểm tra viết 1 tiết, 2 tiết,
bài kiểm tra học kì). Các bài đều có phần củng cố dặn dò, và giáo viên có thể
căn cứa vào đặc thù, nội dung kiến thức từng bài học để vận dụng, sáng tạo các
cách củng cố dặn dò cho hiệu quả.
Do được thực hiện ở một vài lớp, có điều kiện so sánh, chúng tôi dễ nhận
thấy hiệu quả tích cực khi áp dụng đổi mới khiến cho hoạt động Củng cố- dặn
dò trở nên có hiệu quả hơn và sức hấp dẫn hơn nhờ những câu hỏi gợi mở đòi
hỏi sự tư duy, lại không bị ràng buộc bởi sự đánh giá cho điểm, cùng với những
câu hỏi phát huy cao độ cái tôi cá nhân của học sinh, các em có tinh thần học tập
nghiêm túc thật sự. Các em đã mạnh dạn bộc lộ ý kiến riêng và tham gia tranh
luận, phản bác tích cực khiến cho bầu không khí lớp học trở nên sôi nổi hơn.
Từ những hình thức câu hỏi gợi mở củng cố bài khác nhau như vậy, tôi
thiết nghĩ không chỉ khiến giờ Đọc- hiểu văn bản trở nên có hiệu quả và hấp dẫn
15


hơn, mà khiến cho khi tiết học Ngữ văn qua đi, cái đọng lại trong cảm xúc các
em đấy là sự thoải mái, thư giãn chứ không phải là một tiết học nặng nề.
Cũng từ đó, các em ít phụ thuộc vào sách vở hơn, biết tự biến kiến thức đã
tiếp thu được thành kiến thức của mình, có những nhận định, cảm xúc và lí giải
của riêng mình. Các ý kiến và sự lí giải đôi khi chưa chính xác nhưng đã thể
hiện tinh thần hợp tác, tính tích cực chủ động trong học tập. Đó chính là điều
đáng khích lệ hơn cả. Qua mỗi tiết học như vậy, giáo viên sẽ nắm được kết quả
học tập, hiểu được tâm sinh lý và tình cảm, nhu cầu của học sinh để có thể tự
điều chỉnh phương pháp giảng dạy của mình.
Để bài dạy thành công, đạt hiệu quả thì cần rất nhiều yếu tố từ khâu xây
dựng chủ đề; biên soạn câu hỏi/ bài tập; thiết kế tiến trình dạy học; tổ chức dạy
học và dự giờ; rút kinh nghiệm bài dạy... Trong đó hệ thống câu hỏi có tính chất

quyết định đến thành công của bài dạy. Câu hỏi gợi mở giúp lôi cuốn học sinh
tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích
hứng thú học tập và lòng tự tin của các em, rèn luyện cho các em năng lực diễn
đạt sự hiểu biết của mình và hiểu ý diễn đạt của người khác, tích hợp kiến thức
của nhiều môn học.
Đề tài này được xây dựng trong quá trình giảng dạy và dựa trên kinh
nghiệm giảng dạy của bản thân khi dạy học. Nó thực sự đã đem lại hiệu quả cao:
vừa định hình kiến thức bài học; rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu nói chung và nhất
là hình thành và rèn luyện được những kĩ năng sống cần thiết; xây dựng được ở
các em tinh thần chủ động, tự giác, tự bộc lộ và bảo vệ quan điểm, chủ kiến cá
nhân trước tập thể, sau nữa là cộng đồng.

16


Phần 3: Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Sáng kiến kinh nghiệm “Phát huy tính hiệu quả và sức hấp dẫn của giờ
đọc hiểu văn bản Ngữ văn 11 từ Câu hỏi mở ở hoạt động Củng cố - dặn dò
cho học sinh lớp 11A3 trường THPT Quan Sơn 2” được viết với mục đích đưa
ra một vài ý kiến nhằm tăng sức hấp dẫn và tính hiệu quả của một giờ Đọc- hiểu
văn bản. Mỗi giáo viên cần phải có sự linh hoạt, chủ động, sáng tạo để có thể
thiết kế các câu hỏi ở hoạt động cuối cùng này sao cho phong phú, hấp dẫn, phát
huy được năng lực và tình cảm của học sinh.
Qua thực tiễn giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Quan Sơn 2, đề tài
thực sự rất thiết thực và hữu ích với mỗi giáo viên trong mỗi tiết dạy hàng ngày.
Sáng kiến đã đề cập tới một vấn đề tuy quen thuộc nhưng đã có hướng nhìn,
cách làm mới. Như vậy, việc ứng dụng sáng kiến này trong và ngoài nhà trường
sẽ góp phần làm tăng hiệu quả giờ học Ngữ văn hiện nay.
3.2. Kiến nghị

Về phía học sinh: cần chủ động tích cực lĩnh hội kiến thức dựa trên sự
hướng dẫn gợi mở của giáo viên. Hệ thống câu hỏi mở sẽ đặt người học vào
những “ tình huống có vấn đề”, đòi hỏi học sinh phải trau dồi khả năng tự tư
duy, liên hệ, khám phá, sáng tạo. Từ đó, năng lực người học dần được hình
thành, củng cố.
Về phía giáo viên: xác định tầm quan trọng và ý nghĩa câu hỏi gợi mở
của các phần việc trong tiến trình lên lớp, nhất là vai trò của hoạt động Củng cốdặn dò. Để có bài giảng đạt yêu cầu, giáo viên cần nỗ lực trau dồi kiến thức,
không ngừng học hỏi, kết hợp linh hoạt các phương pháp và phương tiện dạy
17


học, đặc biệt là phương tiện dạy học hiện đại, tác động đến cảm xúc, hứng thú
của các em ở cuối giờ để giờ học đạt kết quả tốt hơn.
Về phía nhà trường: cần biết hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên vận dụng
phương pháp dạy học tích cực. Mặt khác, cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất,
thiết bị dạy học cho giáo viên và học sinh để quá trình dạy học đạt được hiệu
quả cao hơn.

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA BGH
Hiệu trưởng

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người khác.
Người viết

Tạ Quốc Việt
Phạm Thị Phương Thảo

18



Tài liệu tham khảo
1. Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ Văn tập 11, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Đề mở - Đáp án mở, Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, NXB Giao dục, Hà
Nội.
3. Đỗ Ngọc Thống, Hệ thống đề mở Ngữ văn 12, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Quang Cương (2002), Câu hỏi và bài tập với việc dạy học tác
phẩm văn chương trong nhà trường, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác
phẩm văn chương, NXB Hà Nội, Hà Nội.
6. Nguyễn Viết Chữ (2006), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
theo loại thể, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
7. Phan Trọng Luận (2003), Phân tích nêu vấn đề với khả năng phát huy
năng lực cảm thụ văn chương của học sinh, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
8. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Sách giáo viên Ngữ Văn 12, NXB Giáo dục, Hà Nội.

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Phương Thảo
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Quan Sơn 2
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá

Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
1. Sử dụng bản đồ tư duy trong
Cấp Sở
C
2011 - 2012
dạy học phần Văn học của
môn Ngữ văn ở trường THPT
2.

Quan Sơn 2.
Một số biện pháp hướng dẫn Cấp Sở

C

2015 - 2016

C

2016 - 2017

học sinh lớp 12A1 trường

THPT Quan Sơn 2 làm tốt
dạng đề “Nghị luận về hiện
tượng trong đời sống” trong
kì thi tốt nghiệp THPT Quốc
3.

gia.
Một số biện pháp hướng dẫn

Cấp Sở

học sinh khối 11 trường
20


THPT Quan Sơn 2 rèn luyện
kĩ năng viết đoạn văn nghị
luận trên con đường chinh
phục kỳ thi tốt nghiệp THPT
Quốc gia năm 2018.

21



×