Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh hà giang một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.34 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ QUẾ

TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ QUẾ

TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự


Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng

HÀ NỘI - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Thị Quế

3


Ket-noi.com

Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI

9

VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM

1.1.

Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tội


10

phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em
1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của luật pháp quốc tế

10

1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của

16

pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.

Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam quy định

20

về phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ

20

luật hình sự năm 1999
1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống

24

tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
1.3.


Kinh nghiệm và sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng,

31

chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
Chương 2: TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM THEO

37

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013

2.1.

Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong Bộ luật hình
sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)

4

37


2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự)

37

2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự)


41

2.2.

47

Tình hình tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ
em trên địa bàn tỉnh Hà Giang

2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua

47

bán trẻ em trên phạm vi cả nước
2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa

51

bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013
2.3.

Tình hình xét xử tội phạm mua bán người và tội phạm mua

58

bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
2.4.

Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những tồn


72

tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Chương 3:

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP

77

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN
TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG

3.1.

Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

77

tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối

82

với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
3.3.


Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống

84

tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh
Hà Giang
3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham

85

gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây
dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy
nghề và tạo việc làm cho nam nữ thanh niên

5

87


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong


88

điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong công

90

tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng

93

cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng,

95

chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
98

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

6

100


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

Trang

Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán

53

bảng
2.1

người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
từ năm 2009 - 2013
2.2

Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét

56

xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả
nước từ 2009 - 2013
2.3

Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội

59

mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự, trên

địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
2.4

Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội

64

mua bán người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh
Hà Giang từ 2009 - 2013
2.5

Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội

65

phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em, trên
địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
2.6

Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm

68

mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà
Giang từ 2009 - 2013
2.7

Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm
2009 - 2013


7

69


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người, mua

53

biểu đồ
2.1

bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội của tỉnh Hà

Giang từ năm 2009 - 2013
2.2

Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán

57

người và tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả
nước từ năm 2009 - 2013
2.3

Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người

62

và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật
hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
2.4

Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người

63

và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật
hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
2.5

Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội

66


phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa
bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
2.6

Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua
bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
từ năm 2009 - 2013

8

69


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hướng đến một thế giới văn minh, công bằng
và bình đẳng nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em thì thế giới đã xuất hiện một hình thức xâm phạm nghiêm trọng
đến danh dự, nhân phẩm con người với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức
tạp và có tổ chức đó là tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đây là
một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ở
Việt Nam diễn biến phức tạp, có xu hướng quốc tế hóa. Trong nước đã xuất
hiện nhiều đường dây mua bán người, mua bán trẻ em xuyên quốc gia, liên
quan đến đối tượng thuộc nhiều địa phương, có sự cấu kết chặt chẽ giữa tội
phạm trong nước và nước ngoài với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt
dưới mọi hình thức để đạt được mục đích. Đối tượng của hoạt động mua bán
người là nam giới, phụ nữ và trẻ em, thuộc mọi lứa tuổi trong đó nhiều nhất là
phụ nữ và trẻ em. Phần lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ các vùng nông thôn,

miền núi ra đô thị, bị ép buộc làm gái mại dâm phục vụ cho các cửa hàng,
dịch vụ trá hình. Nhiều nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài, đến các quốc gia
khác nhau với nhiều hình thức bóc lột nhằm trục lợi như mại dâm và làm vợ
bất hợp pháp, nam giới bị buôn bán để bóc lột sức lao động... Thực trạng phụ
nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài qua các hình thức dịch vụ môi giới hôn
nhân, cho nhận con nuôi đã trở thành vấn đề nóng bỏng, nhức nhối, ảnh
hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, phong tục tập quán, đạo đức
xã hội. Tệ nạn mua bán người đe dọa đến sự an ninh, an toàn của con người
trên nhiều phương diện, gây những tác hại nặng nề về thể chất và tinh thần
cho nạn nhân, tước đoạt tự do và quyền con người, đe dọa đến an ninh toàn
cầu và làm gia tăng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Mua bán người, mua

9


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

bán trẻ em có những tác hại nặng nề đối với bản thân các nạn nhân, những
người thường bị lạm dụng về thể chất và tinh thần, bị cưỡng hiếp, đe dọa đến
tính mạng, sự an toàn của bản thân và gia đình họ. Mua bán người, mua bán
trẻ em còn làm tăng nạn sản xuất và buôn bán giấy tờ giả, ảnh hưởng không
nhỏ đến an ninh, trật tự của quốc gia.
Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều đề án,
chương trình hành động và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đấu

tranh, phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Trong chương
trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004
đến năm 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày
14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ) thì một trong những nội dung quan
trọng là phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đặc biệt là Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã điều chỉnh Điều 119 từ tội danh
mua bán phụ nữ sang tội danh mua bán người để đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh chống tội phạm mua bán người và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ khám phá, xử lý tội phạm
còn thấp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử, bóc gỡ được nhiều đường dây buôn bán người
mang tính tổ chức cao và hoạt động xuyên quốc gia, tuy nhiên, thực tế số tội
phạm ẩn đối với loại hành vi này còn rất lớn.
Hà Giang là tỉnh nằm ở cực Bắc của Tổ quốc, là một trong những tỉnh
miền núi thuộc diện nghèo nhất nước, có đường biên giới dài, tiếp giáp với
nhiều địa phương của Trung Quốc. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Giang đã
tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật để đấu tranh, phòng chống với các
loại tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đồng
thời, các cơ quan an ninh đã phối hợp với các ban ngành liên quan nỗ lực

10


phòng chống và giúp đỡ các nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập với cộng đồng.
Với những đặc thù riêng của địa phương, loại hình tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có nhiều điểm khác biệt so với các
địa phương trong cả nước. Do vậy, tác giả cho rằng cần có một nghiên cứu
đầy đủ về thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống và thực tiễn xét xử để bổ

sung cho lý luận về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhằm áp dụng
có hiệu quả vào thực tế tại tỉnh Hà Giang. Hơn nữa, là một kiểm sát viên trực
tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
hình sự, trong đó có các vụ án về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em,
nên tác giả muốn có nghiên cứu tổng quan để phục vụ công tác của mình. Đây
cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Tội mua bán người, mua bán trẻ em
trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học, nhằm tìm hiểu đầy đủ những cơ sở lý luận và thực tiễn
về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, áp dụng một cách có hiệu quả vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nơi địa phương đang cư trú. Mặt
khác, qua việc nghiên cứu này để đánh giá kết quả tìm hiểu và nghiên cứu
khoa học của bản thân trong quá trình được các thầy cô bồi dưỡng và đào tạo.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
tội mua bán người, mua bán trẻ em đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu lý luận, hình sự và cán bộ thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ pháp lý
hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em đặc biệt là gắn với một địa bàn
cụ thể như tỉnh Hà Giang.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội
mua bán trẻ em, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về tội phạm này có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn phục vụ trực

11


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai

tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

tiếp cho địa bàn tỉnh Hà Giang. Về các vấn đề liên quan đến mua bán người,
mua bán trẻ em đến nay đã có một số chương trình hành động, báo cáo của
các tổ chức như: Chương trình hành động về phòng chống nạn buôn bán phụ
nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002) của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các Nghị
định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái
phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia của Bộ Tư pháp.
Trong các giải pháp phòng, chống tội phạm mua bán người và mua
bán trẻ em thì hoàn thiện hệ thống pháp luật là một vấn đề luôn được đặt lên
hàng đầu. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình tội
phạm và thực trạng xét xử để nâng cao hiệu quả giải quyết án là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cho đến nay,
Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm đối với nam giới, phụ nữ, trẻ
em là đối tượng của hành vi mua bán như Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật
tố tụng hình sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và
gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh phòng chống mại
dâm... Các văn bản pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trong thời gian qua. Tuy
nhiên, trước xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, diễn biến tình hình tội phạm
mua bán người và mua bán trẻ em ngày càng trở lên phức tạp. Hệ thống văn
bản pháp luật hiện hành của Việt Nam trong đó có các quy định của pháp luật
hình sự đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót làm ảnh hưởng đến hiệu quả của
công tác phòng, chống loại tội phạm này. Trên phương diện hoàn thiện pháp

luật và tình hình thực tiễn phòng chống tội phạm đã có một số công trình đề
cập đến mua bán người, mua bán trẻ em của các tác giả Vũ Ngọc Bình, Phòng
chống buôn bán và mại dâm trẻ em; Đỗ Thị Thơm, Hoàn thiện pháp luật về

12


quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay; Nguyễn Quang Dũng, Tình hình tội phạm
mua bán phụ nữ qua biên giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của Bộ đội
Biên phòng; Phạm Văn Hùng, Quán triệt chương trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 - 2010; Đặng Xuân
Khang, Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng
và giải pháp... đã có những đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật và đưa
vấn đề phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em vào khoa học hình sự
nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm trên.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành về tội mua bán người và mua bán trẻ em; đối chiếu với các quy định
của pháp luật quốc tế liên quan đến hành vi mua bán người và mua bán trẻ em.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản của tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đồng thời
đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
từ năm 2009 đến năm 2013 trên địa bàn tỉnh Hà Giang, có so sánh, đối chiếu
với số liệu trên toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em và
thực tiễn tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013, tác
giả đề tài sẽ phân tích và chỉ ra thực trạng giải quyết, những tồn tại, khó khăn
của các cơ quan pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, đưa

ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói
chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.

13


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Với đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, học viên đề ra phạm
vi nghiên cứu của đề tài là:
Tìm hiểu một số quy định của pháp luật quốc tế về tội mua bán người,
mua bán trẻ em.
Nghiên cứu và hệ thống hóa những quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành đối với các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em.
Phân tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử các vụ án mua bán người
và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong thời gian 05 năm, từ năm
2009 đến năm 2013, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại và hạn
chế trong công tác giải quyết. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị trong
việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán
người và tội phạm mua bán trẻ em.

4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trường, đường
lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
nói riêng. Phương pháp luận cũng dựa trên cơ sở những thành tựu của các
chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Lý luận
chung về Nhà nước và Pháp luật; Xã hội học pháp luật; Tâm lý học; Tội phạm
học; Luật tố tụng hình sự… và những luận điểm, luận chứng khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên báo,
tạp chí của một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, dùng lý luận để phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam đối với tội mua bán người và mua bán trẻ em. Sử dụng cơ sở lý

14


luận để làm rõ những vấn đề thực tiễn trong xét xử tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng, minh
chứng bằng những số liệu, dẫn chứng cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử
dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn
đề tương ứng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp
và thống kê xã hội học; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu;
phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển
hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học - thực tiễn cần nghiên
cứu trong luận văn này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

5.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em trong khoa học Luật hình sự Việt Nam.
Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội này trong Luật hình sự Việt
Nam, phân tích khái quát các quy định của pháp luật quốc tế; làm sáng tỏ các
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em; phân tích thông qua nghiên cứu thực
tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 và trên toàn quốc
để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện
hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra
nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em ở khía cạnh
lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền
với việc phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn còn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học
tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa
học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật

15


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


hình sự Việt Nam liên quan đến tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, qua
đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội này
hiện nay và sắp tới ở địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Đề tài giúp nhận thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh
Hà Giang.
Đề tài phân tích thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đánh giá đúng thực trạng giải
quyết loại tội phạm này, tìm ra được những khó khăn, vướng mắc, nguyên
nhân của tồn tại và hạn chế trong công tác đấu tranh, phòng ngừa. Từ đó xây
dựng được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao, phù hợp với
điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương.
Với cá nhân người nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ
thẩm án hình sự, trong đó có tội mua bán người và tội mua bán trẻ em.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội mua bán người và tội mua bán
trẻ em.
Chương 2: Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thực
tiễn xét xử hai tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội mua bán
trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

16



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
Buôn bán người hình thành, phát triển và tồn tại kéo dài trong suốt
lịch sử của nhân loại, từ khi hình thành hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu
nô lệ cho đến nay. Buôn bán người đã bị cả xã hội lên án và để chống lại tình
trạng này, trong những năm đầu thế kỷ XX, một số Công ước quốc tế về
chống buôn bán người đã được ký kết như Công ước bãi bỏ buôn bán nô lệ
da trắng năm 1904, Công ước ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ năm 1910, Công
ước về chống buôn bán nô lệ năm 1926... Sau khi được thành lập, Liên hợp
quốc đã có nhiều văn bản pháp lý đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phòng
chống tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em và bảo
vệ các nạn nhân của tội phạm này để thay thế các văn bản quốc tế trước đó
như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về loại
trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế,
văn hóa và xã hội năm 1966, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989,
Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000... và một
số Nghị định thư bổ sung cho các công ước nêu trên như: Nghị định thư
không bắt buộc năm 2000 bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn
bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định
thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là
phụ nữ, trẻ em năm 2000 bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ
chức, xuyên quốc gia... Cuộc đấu tranh chống tội phạm buôn bán người ngày
càng được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng, tham gia và đã thu được
những kết quả nhất định.

17



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ TỘI PHẠM BUÔN BÁN NGƯỜI, BUÔN BÁN TRẺ EM

Khái niệm buôn bán người, buôn bán trẻ em là một trong những vấn
đề nóng bỏng và gây tranh luận trong các cuộc hội thảo trong nước và các hội
nghị quốc tế. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới đã
và đang có những hoạt động nỗ lực nhằm ngăn chặn và đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, vẫn có những khác biệt của pháp luật
quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em (theo pháp luật của Việt Nam)
và tội buôn bán người (theo quy định của pháp luật quốc tế). Để có thể đưa ra
được khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế (vì hiện nay Việt Nam đã ra nhập và ký kết nhiều văn kiện
quốc tế quy định về buôn bán người) và phù hợp với các quy định của pháp
luật Việt Nam cũng như tình hình, hoàn cảnh thực tế của đất nước thì cần phải
nghiên cứu toàn diện và sâu rộng các quy định của pháp luật quốc tế và pháp
luật trong nước, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em.
1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của pháp luật
quốc tế
Mua bán người, mua bán trẻ em là một loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng mà loài người tiến bộ trên khắp thế giới đều lên án rất mạnh mẽ. Tội
phạm mua bán người làm rối loạn tình hình an ninh, trật tự, xâm phạm nhân

quyền. Bên cạnh đó những hậu quả của mua bán người để lại những nỗi mất
mát lớn cho các nạn nhân đặc biệt về mặt tinh thần. Tuy với những đặc điểm
chung của cùng một loại hình tội phạm nhưng quan niệm về tội mua bán
người ở các quốc gia so với quan niệm của các quy định quốc tế có sự khác
biệt đáng kể, tùy mức độ rộng hẹp của cách hiểu
Pháp luật quốc tế không quy định khái niệm mua bán người, mua bán
trẻ em mà quy định chung về khái niệm buôn bán người. Nạn buôn người là
hình thức hiện đại của nạn nô lệ, đang phá hủy gia đình và cộng đồng trên

18


khắp thế giới. Buôn bán người chính là hình thức mua bán, chiếm hữu nô lệ,
coi con người là một loại hàng hóa và tước đoạt của họ những quyền cơ bản
về tự do một cách trái pháp luật và vô đạo đức. Do có những đặc điểm riêng
về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp luật của
mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau.
Pháp luật của một số quốc gia quy định khái niệm "buôn bán người"
theo những chuẩn mực pháp lý quốc tế, thì cũng có một số quốc gia khác,
khái niệm này chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc có những điểm không tương
đồng với quy định của pháp luật quốc tế.
Khái niệm "buôn bán người" được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật quốc tế. Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Nghị định thư Palermo). Văn kiện này được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu
lực ngày 25 tháng 12 năm 2003. Theo quy định của Nghị định thư này, khái
niệm buôn bán người (trong đó có phụ nữ, trẻ em) được quy định như sau:
a) Việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và
nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe dọa dùng bạo lực
hay cách thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền

lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền
hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối
với người khác vì mục đích bóc lột.
Hành vi bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích
mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao
động hay dịch vụ cưỡng bức nô lệ hay những hình thức tương tự
như nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể.
b) Việc một nạn nhân của nạn buôn bán người chấp nhận sự
bóc lột có chủ ý được nêu tại điểm (a) trên đây sẽ không được tính đến
nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong điểm (a) đã được sử dụng.

19


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

c) Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc
nhận trẻ em với mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người thậm
chí khi không có những hình thức được nêu ở điểm (a) trên đây.
d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi [36].
Khái niệm buôn bán người theo quy định của Nghị định thư Palermo
tập trung vào các yếu tố như:
Thứ nhất, về hành vi, buôn bán người bao gồm: hành vi tuyển mộ, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người.

Thứ hai, về phương thức thực hiện hành vi là đe dọa hoặc sử dụng vũ
lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị
thế dễ bị thương tổn, đưa hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý
của một người có quyền kiểm soát đối với người khác.
Thứ ba, về mục đích là nhằm bóc lột người bị mua bán (bóc lột vì mục
đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động
hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, làm khổ sai
hay lấy các bộ phận cơ thể).
Theo quy định của Nghị định thư Palermo, sự đồng ý của trẻ em là vô
hiệu và bất kỳ sự tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận
trẻ em nhằm mục đích bóc lột đều cấu thành tội buôn bán người, cho dù
không có việc sử dụng vũ lực, cưỡng ép, man trá, lừa gạt... trẻ em đó.
Đây là khái niệm có tính chính thống về buôn bán người theo tinh thần
Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ
sung Công ước về chống buôn bán người. Khái niệm này được sử dụng phổ
biến trong hoạt động chống buôn bán người trên thế giới và được nội luật hóa
trong pháp luật của nhiều quốc gia. Khái niệm này cũng đã bao hàm mọi hình
thức buôn người và không chỉ giới hạn trong buôn người nhằm mục đích bóc
lột tình dục mà còn đối với các mục đích khác. Khái niệm này đã tập trung
vào các tình trạng cưỡng bức lao động, làm khổ sai, những hành vi như bắt

20


làm nô lệ và tương tự. Khái niệm không chỉ tập trung vào đối tượng là phụ nữ
mà bao hàm mọi giới nam nữ, đều có thể là nạn nhân. Khái niệm không chỉ
nói đến nạn nhân bị buôn bán qua biên giới được quốc tế công nhận mà xét
đến cả những người bị buôn bán ngay trong lãnh thổ của một quốc gia, từ khu
vực này đến khu vực khác. Trừ trường hợp người bị buôn bán dưới 18 tuổi,
Nghị định thư đòi hỏi phải có yếu tố cản trở nguyện vọng tự do và được thông

tin đầy đủ của nạn nhân.
Ngoài Nghị định thư Palermo, một số văn kiện pháp luật quốc tế cũng
đưa ra khái niệm liên quan đến buôn bán người, trong đó có nhiều điểm tương
đồng với khái niệm của Nghị định thư chống buôn bán người, nhưng do được
tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, nên không một khái niệm nào đầy đủ,
toàn diện như khái niệm được nêu trong Nghị định thư Palermo.
Theo quy định của Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em,
mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước
quyền trẻ em thì mua bán trẻ em là bất kỳ hành động giao dịch nào mà qua đó
trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người này sang một
người hay một nhóm người khác để lấy tiền hay bất cứ đồ vật gì khác. Khái
niệm này có điểm rộng hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo (không quy
định mục đích bóc lột nạn nhân là yếu tố bắt buộc cấu thành tội phạm), nhưng
lại có điểm hẹp hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo ở chỗ chỉ giới hạn
hành vi chuyển giao trẻ em vì lợi nhuận, tức là chỉ điều chỉnh hành vi mua
hoặc bán. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo đề cập đến nhiều loại hành vi
buôn bán người như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, nhận
người... vì mục đích bóc lột.
Theo Liên minh toàn cầu chống buôn bán phụ nữ GAATW (Global
Alliance Against Trafficking of Women) phối hợp với các tổ chức Chính phủ,
các tổ chức phi Chính phủ đã đưa ra khái niệm khái quát về buôn bán người
là: Mọi hoạt động cố ý tham gia vào việc tuyển mộ, chuyên chở trong nước

21


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu

lieu mien
mien phi
phi

hoặc qua biên giới, mua, bán, chuyển, chứa chấp hoặc nhận một người bằng
thủ đoạn lừa gạt và cưỡng bức, kể cả việc dùng hoặc đe dọa dùng bạo lực, lạm
dụng quyền hành hoặc lợi dụng tình hình nợ chồng chất của người đó để đưa
hoặc buộc họ làm việc trong tình trạng nô lệ không tự nguyện (việc nhà, tình
dục hoặc sinh sản) không hoặc có được trả công, lao động cưỡng bức hoặc có
giao kèo, hoặc lao động trong các điều kiện nô lệ trong một cộng đồng mà
không phải nơi mà người đó sống khi bị lừa gạt, cưỡng bức hay nợ chồng chất
ban đầu.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người
như sau: Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che
giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc các hình
thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa
vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để
đạt được sự đồng ý của một người mà người đó đang có quyền kiểm soát một
người khác, nhằm mục đích bóc lột. Việc bóc lột bao gồm, bóc lột làm nghề
mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ
bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như tình trạng nô lệ,
khổ sai hay cắt đi những bộ phận cơ thể con người.
Tuy đã có những cách hiểu rất rõ ràng về tội buôn bán người nhưng
trên thực tế trong nhiều trường hợp loại tội danh này dễ nhầm lẫn với tội đưa
người trái phép qua biên giới, bởi những điểm tương đồng của hai loại tội danh.
Nếu không phân biệt rõ hai tội danh này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá
trình xét xử và bỏ sót tội danh nguy hiểm. Nghị định thư về phòng, chống đưa
người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
định nghĩa: "Đưa người di cư trái phép nghĩa là việc giao dịch, để đạt được

trực tiếp hoặc gián tiếp lợi ích về tài chính hoặc lợi ích vật chất khác từ việc
một người nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thành viên mà người này

22


không phải là công dân của quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc gia đó". Về
mặt hình thức, tội buôn bán người và tội đưa người trái phép qua biên giới có
những điểm tương đối trùng khớp với nhau bởi đều tồn tại yếu tố của sự di
chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác bằng cách bất hợp pháp và đều vì
mục đích lợi nhuận cho kẻ gây ra hành vi đó. Chính điều này đã dẫn đến
nhiều quy định nhầm lẫn và bỏ sót nhiều tội danh của các đối tượng buôn bán
người. Do vậy, cần phân biệt rõ giữa buôn bán người và đưa người trái phép
qua biên giới bởi bản chất hai hành vi này hoàn toàn khác nhau. Về mục đích
di chuyển, buôn bán người và đưa người trái phép qua biên giới đều vì mục
đích lợi nhuận. Tuy nhiên, đưa người trái phép qua biên giới nhận lợi nhuận
từ chính người được đưa qua biên giới và kết thúc hành vi khi đưa được người
qua biên giới đến đúng địa điểm đã thỏa thuận, trong khi hành vi buôn bán
người không dừng lại ở đó. Sau khi đưa người qua biên giới, lợi nhuận thu
được của những kẻ thực hiện việc buôn bán người là từ hành vi bóc lột, nô
dịch nạn nhân (phục vụ mại dâm, lao động bất hợp pháp…). Các nạn nhân bị
mua và bán phải chịu đựng các hình thức khống chế, kiểm soát và cưỡng bức
có hậu quả vô cùng nghiêm trọng làm tổn hại đến sức khỏe và tính mạng con
người. Về tính chất và mức độ của hành vi, đưa người trái phép qua biên giới
có sự đồng thuận giữa hai bên vì mục đích riêng của mỗi bên trong khi buôn
bán người đa phần phải thông qua hành vi lừa gạt, dụ dỗ, thậm chí dùng vũ
lực mà không được sự đồng thuận của người bị mua bán. Hành vi buôn bán
người chưa thể kết thúc khi người đã được đưa qua biên giới và trong nhiều
trường hợp hành vi mua bán không nhất thiết phải thực hiện thông qua biên
giới giữa các quốc gia mà có thể ngay trong nội địa từ địa phương này sang

địa phương khác, khu vực này sang khu vực khác. Với tính chất đặc biệt
nghiêm trọng của tội phạm buôn bán người, pháp luật quốc tế đã quy định rất
cụ thể từng hành vi như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và
nhận người, có sự phân biệt rõ ràng giữa buôn bán người và đưa người trái

23


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

phép qua biên giới, từ đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống
tệ nạn buôn bán người (trong đó có buôn bán trẻ em).
1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam
Pháp luật hình sự Việt Nam không quy định về tội buôn bán người mà
quy định cụ thể về tội mua bán người và mua bán trẻ em. Mua bán người là
hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ
đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa. Các hành vi đó là: bán người cho
người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua người để bán
lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua
sau này như thế nào; dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; mua
người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật
khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một
trong các hành vi nêu trên, đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán

người. Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa. Các hành vi
mua bán trẻ em cụ thể là: bán trẻ em cho người khác, không phụ thuộc vào
mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân
biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng trẻ
em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức
lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên bị truy cứu
trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
mua bán người, mua bán trẻ em, có thể thấy rằng khái niệm mua bán người,
mua bán trẻ em ở Việt Nam đã có một số điểm tương đồng với quy định của
pháp luật quốc tế, đó là: đã quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi mua
bán người có tính chất tổ chức, nhiều lần như quy định của Công ước quốc tế;

24


quy định các mục đích mua bán người, mua bán trẻ em để lấy bộ phận cơ thể
của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc
mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt; hoặc tuy không
quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng các văn bản hướng dẫn áp dụng
đã hướng dẫn về các thủ đoạn phạm tội mua bán người là môi giới hôn nhân
với người nước ngoài trái phép, đưa người đi lao động nước ngoài trái
phép, môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt
Nam vẫn còn có nhiều điểm khác biệt, chưa tương thích với khái niệm buôn
bán người của pháp luật quốc tế. Sự khác biệt này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, về hành vi: khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em của
Việt Nam chỉ bao gồm hai loại hành vi là mua và bán, tức là việc chuyển giao
người, trẻ em từ người này (hoặc nhóm người này) sang người khác (hoặc

nhóm người khác) để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy,
theo cách hiểu hiện nay về mua bán người, mua bán trẻ em thì không bao gồm
các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và nhận người là những hành vi
khác bên cạnh hành vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình buôn bán người
được bao hàm trong khái niệm của Nghị định thư Palermo.
Tuy các hành vi này không bị coi là mua bán nhưng hành vi tuyển mộ,
vận chuyển, chứa chấp và nhận người, tùy từng trường hợp cụ thể sẽ bị trừng
trị theo các quy định của các điều luật tương ứng hoặc bị coi là hành vi đồng
phạm hoặc phạm tội chưa đạt với tội mua bán người, mua bán trẻ em.
Thứ hai, về phương thức thực hiện: pháp luật hình sự Việt Nam không
quy định cấu thành của tội phạm là phương thức mà tội phạm sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo quy định các
hành vi nói trên phải được thực hiện theo các phương thức như đe dọa dùng
vũ lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền
lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi
nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với những người

25


×