ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
=====00=====
PHÁP LUẬT VỀ
GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
Đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ CẦM GIỮ TÀI SẢN
Giảng viên hướng dẫn: PGS-TS. Lê Vũ Nam
Lớp K15504T
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4
1. Sự cấp thiết của bài viết nghiên cứu ....................................................................... 4
2. Mục đích của bài viết nghiên cứu ........................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 5
5. Bố cục bài viết nghiên cứu ....................................................................................... 6
CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẦM GIỮ TÀI SẢN ................ 7
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của biện pháp cầm giữ tài sản ................................. 7
1.1.1 Khái niệm ........................................................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp cầm giữ tài sản ........................................................... 9
1.2. Đối tượng cầm giữ tài sản ................................................................................... 10
1.3. Xác lập cầm giữ tài sản ....................................................................................... 10
1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên .......................................................................... 11
1.4.1 Quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ ................................................................ 11
1.4.1.1 Quyền của bên cầm giữ ............................................................................. 11
1.4.1.2 Nghĩa vụ của bên cầm giữ ......................................................................... 13
1.4.2 Quyền và nghĩa vụ của bên có tài sản bị cầm giữ ............................................ 14
1.5. Chấm dứt cầm giữ tài sản ................................................................................... 15
1.6 Phân biệt biện pháp cầm giữ và biện pháp cầm cố tài sản ............................... 16
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CẦM GIỮ TÀI SẢN DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA MỘT
SỐ QUỐC GIA. .......................................................................................................... 18
2
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về cầm giữ tài sản ................... 18
2.1.1 Phạm vi cầm giữ tài sản ................................................................................... 18
2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ ................................................................ 18
2.1.3 Chấm dứt cầm giữ tài sản khi bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên
thực tế ........................................................................................................................ 19
2.1.4 Thời hạn cầm giữ tài sản .................................................................................. 19
2.1.5 Rủi ro cho bên nhận thế chấp ........................................................................... 20
2.2 Quy định của pháp luật nước ngoài về câm giữ tài sản. ................................... 21
2.2.1 Pháp luật Pháp .................................................................................................. 21
2.2.1.1 Khái niệm cầm giữ tài sản ......................................................................... 21
2.2.1.2 Hệ quả pháp lý đối với bên thứ ba ............................................................. 23
2.2.2 Pháp luật Anh ................................................................................................... 24
2.2.2.1 Khái niệm cầm giữ tài sản ......................................................................... 24
2.2.2.2 Hệ quả pháp lý đối với bên thứ ba ............................................................. 25
2.3 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cầm giữ tài sản ........................................... 26
2.3.1 Phạm vi của cầm giữ tài sản ............................................................................. 26
2.3.2 Đối tượng cầm giữ tài sản và hạn chế rủi ro cho bên nhận thế chấp ............... 26
2.3.3 Căn cứ phát sinh yêu cầu chấm dứt cầm giữ ................................................... 27
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của bài viết nghiên cứu
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được sử dụng từ khá lâu trong đời
sống thực tiễn và phát huy tác dụng rõ rệt nhất là trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Có
thể nói rằng, các biện pháp bảo đảm đóng vai trò mang tính sống còn trong sự vận hành
của lĩnh vực này.
Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại song song hai hệ thống các quy định về giao dịch
bảo đảm, hệ thống các quy định về giao dịch bảo đảm nói chung áp dụng với tất cả các
giao dịch dân sự và hệ thống các biện pháp bảo đảm áp dụng tại các tổ chức tín dụng.
Từ Bộ luật dân sự (BLDS) đầu tiên của Việt Nam năm 1995 đến BLDS năm 2015, chế
định về giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã trải qua khá nhiều
sự thay đổi (cả về tư tưởng chủ đạo trong việc xây dựng chế định cũng như các quy định
cụ thể trong lĩnh vực này).
Có nhiều cách phân loại khác nhau đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, như:
– Căn cứ vào đối tượng của biện pháp bảo đảm: Bảo đảm đối nhân, bảo đảm đối
vật;
– Căn cứ vào sự hình thành của biện pháp bảo đảm: Biện pháp bảo đảm hình
thành trên cơ sở hợp đồng, biện pháp bảo đảm hình thành trên cơ sở các quy định của
pháp luật.
So với quy định của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã có khá nhiều thay đổi
liên quan đến các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, ở
góc độ tổng thể, có thể thấy sự thay đổi rõ ràng nhất đến từ các quy định của pháp luật
liên quan đến hai biện pháp bảo đảm, đó là cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu.
Hiện tại cơ sở pháp lý của biện pháp cầm giữ tài sản còn khá đơn giản và nhiều
bất cập. Trong khuôn khổ bài viết, nhóm tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về cầm giữ
4
tài sản” để phân tích nội dung cũng như đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về cầm giữ tài sản.
2. Mục đích của bài viết nghiên cứu
Bài viết này nhằm mục đích nghiên cứu thực trạng pháp lý quy định về cầm giữ
tài sản, cũng như chỉ ra những bất cập còn tồn đọng và mong muốn những kiến nghị
đưa ra có thể hoàn thiện hơn quy định pháp luật. Nhóm tác giả mong muốn thông qua
bài viết này, nhóm sẽ cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về hoạt động
pháp lý và thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật đó theo sự điều chỉnh của pháp
luật hiện hành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về cầm giữ tài sản
Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề chung liên quan đến cầm giữ tài sản, pháp
luật cầm giữ tài sản tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật đó.
Đồng thời, nhóm tác giả cũng quan tâm tới pháp luật về cầm giữ tài sản của một số nước
trên thế giới, cụ thể là Anh và Pháp, từ đó cho người đọc một góc nhìn sâu rộng nhất về
hoạt động cầm giữ tài sản theo pháp luật mỗi quốc gia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện bài viết về chủ đề “Pháp luật về cầm giữ tài sản” này, nhóm tác giả
đã kết hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
Phương pháp so sánh và đối chiếu
Phương pháp tư duy có phân tích
Phương pháp liệt kê
Phương pháp phân tích
Phương pháp tìm kiếm thông tin
5
Phương pháp tổng hợp nhằm đưa ra những bất cập và kiến nghị giải quyết
5. Bố cục bài viết nghiên cứu
Ngoài phần giới thiệu chung này, bài viết nghiên cứu về chủ đề “Pháp luật về
cầm giữ tài sản” sẽ được chia thành hai phần và làm rõ nội dung của từng phần, bao
gồm:
CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẦM GIỮ TÀI SẢN
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CẦM GIỮ TÀI SẢN DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA.
Nhóm tác giả hi vọng trong khuôn khổ bài viết này, người đọc sẽ nắm rõ hơn về
những vấn đề chung liên quan đến hoạt động cầm giữ tài sản, quy định hiện tại của pháp
luật cũng như nhìn thấu đáo những bất cập còn tồn đọng để từ đó có những góp ý, cùng
nhau hoàn thiện quy định của pháp luật đối với hoạt động này.
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn!
6
CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẦM GIỮ TÀI SẢN
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của biện pháp cầm giữ tài sản
1.1.1 Khái niệm
Biện pháp cầm giữ lần đầu tiên được quy định tại Điều 30 Bộ luật hàng hải Việt
Nam năm 1990. Theo đó, chủ nợ có quyền cầm giữ hàng hải theo luật định đối với tàu
biển để bảo đảm cho các khoản nợ ưu tiên, mặc dù tàu biển đó đã được cầm giữ, cầm
cố, thế chấp để bảo đảm cho các khoản nợ khác trên cơ sở hợp đồng hoặc quyết định
của Tòa án.1
Theo tiến trình phát triển, biện pháp cầm giữ tài sản đã được ghi nhận và thể hiện
trong BLDS 1995 và 2005 nhưng không phải ở góc độ biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, mà là một cơ chế pháp lý để bảo vệ bên có quyền được thanh toán
trong các hợp đồng mà hai bên đều có nghĩa vụ.2 Theo quy định của BLDS 2005, cầm
giữ tài sản được quy định tại Điều 416 tại “Phần II. Thực hiện hợp đồng” với ý nghĩa là
cách thức mà bên có quyền sử dụng đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ để
bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo thỏa thuận giữa các bên. Theo
quy định tại Khoản 1 Điều 416 BLDS 2005 “Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền (sau
đây gọi là bên cầm giữ) đang chiếm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng
song vụ được cầm giữ tài sản khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực
hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận”. Đổi mới so với BLDS 2005, hiện nay BLDS
2015 đã tiếp cận cầm giữ tài sản với tư cách là một biện pháp bảo đảm được xác lập
theo quy định của luật. Cụ thể, biện pháp cầm giữ tài sản được quy định tại tiểu mục 9,
Mục 3 Chương XV, Phần thứ ba, bao gồm 05 điều (từ Điều 346 đến 350) của BLDS
2015.
Điều 346 BLDS 2015 đưa ra khái niệm cầm giữ tài sản như sau: " Cầm giữ tài
sản là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản
Chín biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng, Luật sư Trương Thanh Đức, NXB Chính trị quốc gia Sự thật,
trang 255
2
Trích từ , truy cập ngày 24/10/2018
1
7
là đối tượng của hợp đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.” Trong đó, hợp đồng
song vụ theo quy định tại Khoản 1 Điều 402 BLDS 2015 là hợp đồng mà mỗi bên đều
có nghĩa vụ đối với nhau.
Về nội hàm, Điều 346 BLDS 2015 có sự thay đổi về cách sử dụng từ so với
khoản 1 Điều 416 BLDS 2005, đó là dùng từ “nắm giữ” rồi đến “chiếm giữ” so với
“chiếm giữ” và “cầm giữ”, tuy nhiên, điều này không mang đến những cách hiểu khác
nhau, mà chỉ đơn giản là tạo ra sự thống nhất trong cách sử dụng thuật ngữ xuyên suốt
BLDS 2015. Đồng thời, BLDS 2015 cũng đã dùng cụm từ “thực hiện không đúng nghĩa
vụ” thay cho cụm từ “thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận”. Đây là điểm đổi
mới nổi bật. Lý do các nhà làm luật bỏ từ “theo thoả thuận” là vì nghĩa vụ và các yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ không được phát sinh từ thoả thuận giữa các bên mà phát sinh
do luật định. Việc thay thế này cho phép áp dụng cầm giữ tài sản trong cả trường hợp
thực hiện không đúng nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nếu như các biện pháp
khác như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh chỉ áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận
thì cầm giữ tài sản là biện pháp duy nhất áp dụng mà không có thỏa thuận của các bên
liên quan, pháp luật chính là cơ sở trực tiếp phát sinh quyền cầm giữ tài sản.3
Bên cạnh BLDS, quyền cầm giữ còn được nêu trong Luật Thương mại. Theo quy
định tại Điều 149 Luật Thương mại, bên đại diện cho thương nhân có quyền cầm giữ
tài sản, tài liệu được giao để bảo đảm việc thanh toán các khoản thù lao và chi phí đã
đến hạn. Tương tự, Điều 239 và 240 của văn bản luật này trao cho thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics quyền cầm giữ hàng hóa và chứng từ liên quan để đòi nợ đã đến
hạn của khách hàng và đi xa hơn BLDS là trao cho bên cầm giữ quyền định đoạt hàng
hóa và chứng từ sau thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ cho khách hàng để
trừ khoản nợ liên quan.
Kinh doanh và pháp luật số 160 về Biện pháp bảo đảm mới trong BLDS 2015, trích dẫn từ
/>NyQFP-KKFRxPrXwkKxptk1EKtQuHejc4ExMk , truy cập ngày 24/10/2018
3
8
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp cầm giữ tài sản
Từ khái niệm cũng như những quy định liên quan, nhóm nghiên cứu nhận thấy
biện pháp cầm giữ tài sản gồm có những đặc điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, đây là một biện pháp bảo đảm mang tính đối vật, bên cầm giữ tài sản
có quyền từ chối hoàn trả tài sản đang chiếm giữ khi bên có nghĩa vụ chưa thực hiện
xong nghĩa vụ của mình. Luật không giới hạn khoảng thời gian mà bên có quyền được
quyền cầm giữ tài sản.
Ví dụ: A có nghĩa vụ phải thanh toán cho B 15 triệu đồng. Nếu A đã thanh toán
cho B 10 triệu đồng thì B vẫn có quyền chiếm giữ tài sản của A đã nắm giữ từ trước
cho đến lúc A trả đủ 15 triệu đồng.
Thứ hai, cầm giữ tài sản phát sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng song vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ của mình. Ví dụ khi A mang xe thuộc quyền sở hữu của mình sửa chữa tại cửa hàng
của B, tuy nhiên, khi B hoàn thành nghĩa vụ sửa xe của mình và A phải thực hiện nghĩa
vụ trả tiền cho B thì A không có tiền hoặc không có đủ tiền trả cho B, và tại thời điểm
đó, tức là thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ của A, nhưng A đã thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình thì B có quyền cầm giữ chiếc xe của A.
Thứ ba, nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản và phát sinh
trực tiếp từ tài sản đó. Cầm giữ tài sản là một hành vi kiểm soát tài sản là đối tượng của
hợp đồng song vụ của bên có quyền. Có nghĩa là tài sản cầm giữ phải có mối “liên quan
mật thiết” với nghĩa vụ cần được bảo đảm bằng việc cầm giữ.
Có thể hình dung qua giả thiết sau, A vay của B 500 triệu đồng và chưa trả được
nợ. Sau đó A lại mua một chiếc xe ô tô của B với giá 400 triệu đồng, tiền mua xe đã
được thanh toán đầy đủ nhưng B lại không giao xe và yêu cầu A phải trả hết toàn bộ
khoản nợ 500 triệu đồng đã vay thì mới giao xe. Căn cứ vào quy định hiện hành của
pháp luật dân sự, trong tình huống nêu trên, việc cầm giữ tài sản là không thể thực hiện
được. Bởi vì, chiếc xe ô tô là đối tượng của hợp đồng song vụ, và nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng này (nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản) đã được thực hiện xong, vì thế,
9
việc cầm giữ là không phù hợp với quy định của pháp luật. Với giả thuyết nêu trên, có
thể xác định rằng, tài sản cầm giữ và nghĩa vụ được bảo đảm cần thiết phải phát sinh
trong cùng một quan hệ thì việc cầm giữ mới có giá trị.
1.2. Đối tượng cầm giữ tài sản
Điều 346 BLDS 2015 trình bày khái niệm cầm giữ tài sản, theo đó ta có thể hiểu
rằng đối tượng cầm giữ của biện pháp cầm giữ tài sản là tài sản, mà cụ thể là tài sản này
là đối tượng của hợp đồng song vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Trong đó, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài
sản bao gồm bất động sản và động sản theo quy định tại Điều 105 BLDS 2015.
1.3. Xác lập cầm giữ tài sản
Thứ nhất, cầm giữ tài sản phát sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Thời điểm đến
hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có quyền có quyền cầm giữ tài sản chỉ xảy ra khi bên có
nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận.
Thời điểm này, tài sản cầm giữ thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ đang được bên có
quyền chiếm giữ một cách liên tục và hợp pháp. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các
bên thỏa thuận hoặc do luật định.
Thứ hai, việc xác định thời điểm xác lập quyền của bên cầm giữ cũng là căn cứ
phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm
hữu tài sản (Điều 347 BLDS 2015).
10
1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên
1.4.1 Quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ
1.4.1.1 Quyền của bên cầm giữ
Bên cầm giữ với tư cách là bên có quyền lợi bị xâm phạm do việc không thực
hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận do bên có nghĩa vụ
gây ra, có các quyền sau: 4
Thứ nhất, yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng song vụ.
Việc yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ là mục đích ban đầu của bên có
quyền. Ngay cả khi quyền cầm giữ không phát sinh thì khi có sự vi phạm nghĩa vụ xảy
ra, bên có quyền cũng có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ của mình. Bên có quyền cầm giữ tài sản nhằm yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ giữa 2 bên. Chừng nào nghĩa vụ trong hợp
đồng song vụ chưa được thực hiện đúng và đầy đủ, thì bên có quyền vẫn được quyền
cầm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ.
Bộ luật dân sự 2015 không quy định bên cầm giữ có quyền ưu tiên thanh toán,
mà chỉ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trong đó có
nghĩa vụ thanh toán, phát sinh từ hợp đồng song vụ. Tuy nhiên, vì bên cầm giữ lại có
quyền cầm giữ, có quyền không giao tài sản cho bên nhận thế chấp hoặc bất kỳ bên nào
khác cho đến khi thanh toán đầy đủ khoản nợ phát sinh, gồm cả chi phí cần thiết cho
việc bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ, nên thành ra trở thành quyền ưu tiên cao nhất
trên thực tế, kể cả trường hợp cầm giữ diễn ra sau thời điểm đăng ký thế chấp. Hay nói
cách khác, bên nhận thế chấp chỉ có thể thu hồi, xử lý tài sản thế chấp sau khi bên cầm
giữ đã nhận được tiền thanh toán trong mối quan hệ cầm giữ. Nghị định 163/2006/NĐCP được sửa đổi bởi nghị định 11/2012/NĐ-CP, quy định: “Trong trường hợp tài sản
thế chấp đang bị cầm giữ thì bên cầm giữ có trách nhiệm giao tài sản mà mình đang
4
Điều 348, Bộ luật Dân sự 2015
11
cầm giữ cho bên nhận thế chấp để xử lý theo quy định của pháp luật sau khi bên nhận
thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ đã hoàn thành nghĩa vụ đối với bên cầm giữ”.
Thứ hai, yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán chi phí cần thiết cho việc bảo
quản, giữ gìn tài sản cầm giữ.
Một số loại tài sản, trong quá trình cầm giữ có thể phát sinh các chi phí bảo
quản, cầm giữ tài sản, do đó, bên có quyền hoàn toàn có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ
thanh toán những chi phí này. Chi phí này phải là chi phí hợp lý và thực sự “cần thiết”
cho việc bảo quản, gìn giữ tài sản. Thông thường, chi phí này chỉ phát sinh nếu bên cầm
giữ phải gửi giữ tài sản ở nơi thực hiện hoạt động trông giữ tài sản. Trường hợp bên
cầm giữ tự bảo quản tài sản thì thường sẽ không phát sinh chi phí hoặc nếu có thì sẽ rất
thấp.
Thứ ba, được khai thác tài sản cầm giữ để thu hoa lợi, lợi tức nếu được bên có
nghĩa vụ đồng ý.
Bên cầm giữ tài sản chỉ được khai thác tài sản để thu hoa lợi, lợi tức nếu được
bên có nghĩa vụ đồng ý. Giá trị từ việc khai thác tài sản cầm giữ được bù trừ vào giá trị
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Quy định này tạo thuận lợi cho cả bên bảo đảm và bên
nhận bảo đảm trong trường hợp chủ sở hữu của tài sản chưa có điều kiện thực hiện nghĩa
vụ của mình, qua đó, có thể sẽ rút ngắn được thời gian cầm giữ tài sản, và bên cầm giữ
cũng có thể khai thác giá trị của tài sản, chứ không đơn thuần là thực hiện hành vi cầm
giữ.
Trong BLDS 2005, việc thu hoa lợi từ tài sản cầm giữ để bù trừ nghĩa vụ là quyền
đương nhiên của bên cầm giữ. Tuy nhiên, trong BLDS 2015, bên cầm giữ tài sản chỉ
được thu hoa lợi, lợi tức để bù trừ nghĩa vụ nếu được bên có nghĩa vụ đồng ý. Quy định
này vừa là ưu điểm, vừa là bất cập của cầm giữ tài sản.5 Ưu điểm là đảm bảo sự thông
nhất giữa các biện pháp bảo đảm có đối tượng là tài sản. Bởi vì, việc bên nhận bảo đảm
quản lý tài sản là để nhằm ngăn ngừa bên bảo đảm tẩu tán tài sản chứ không nhằm sử
Bên cầm giữ tài sản có quyền gì, được lấy từ: , truy
cập ngày 24/10/2018
5
12
dụng tài sản. Nhược điểm của quy định này thể hiện ở chỗ bên cầm giữ tài sản không
được quyền xử lý tài sản cầm giữ như các bên nhận bảo đảm khác. Do đó, nếu bên có
nghĩa vụ lại không đồng ý cho bên cầm giữ tài sản thu hoa lợi, lợi tức thì việc cầm giữ
tài sản không có giá trị thực tiễn. Khi đó, biện pháp cầm giữ chỉ là biện pháp bảo đảm
trên giấy tờ. Ngoài ra, việc phải bỏ ra chi phí cho việc trông giữ, bảo quản tài sản cầm
giữ và việc tài sản cầm giữ có thể giảm sút giá trị cũng là những vấn đề mà bên cầm giữ
buộc phải lưu tâm.
1.4.1.2 Nghĩa vụ của bên cầm giữ
Khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ, bên có quyền được cầm giữ tài sản theo
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc cầm giữ tài sản có thể ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ hoặc của người thứ ba. Do đó, bên cầm giữ tài sản
cũng phải tuân thủ các nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 và các luật khác
có liên quan. Bên cầm giữ tài sản cần phải thực hiện những nghĩa vụ sau: 6
Giữ gìn, bảo quản tài sản cầm giữ. Đây là nghĩa vụ tương ứng với quyền được
yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán chi phí cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài
sản cầm giữ của bên cầm giữ.
Không được thay đổi tình trạng của tài sản cầm giữ. Trong quá trình cầm giữ tài
sản, bên cầm giữ không được thay đổi tình trạng của tài sản. Giả sử, trong ví dụ B cầm
giữ chiếc ô tô của A do A không thực hiện nghĩa vụ trả tiền sửa chữa đối với B, trong
quá trình thực hiện cầm giữ tài sản, B không được thay đổi tình trạng của chiếc ô tô, ví
dụ thay đổi màu sơn, hoặc lắp ráp thêm những thiết bị khác trong xe.
Không được chuyển giao, sử dụng tài sản cầm giữ nếu không có sự đồng ý của
bên có nghĩa vụ. Khi cầm giữ tài sản, bên có quyền chỉ có quyền chiếm hữu đối với tài
sản đó, vì vậy, nếu bên có quyền muốn sử dụng tài sản thì phải được sự đồng ý của bên
có nghĩa vụ, tức chủ sở hữu tài sản.
6
Điều 349, Bộ luật dân sự 2015.
13
Giao lại tài sản cầm giữ khi nghĩa vụ đã được thực hiện. Ý nghĩa của việc cầm
giữ tài sản là nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
song vụ liên quan đến chính tài sản đó, vì vậy, khi nghĩa vụ dược thực hiện, thì biện
pháp cầm giữ đương nhiên chấm dứt, và bên cầm giữ phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Bồi thường thiệt hại nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm giữ. Nghĩa vụ của
bên cầm giữ là phải giữ gìn, bảo quản tài sản. Trường hợp gây mất mát hư hỏng tài sản
thì phải bồi thường. Nghĩa vụ nêu trên giúp bên có quyền sẽ phải thận trọng trong việc
quyết định cầm giữ tài sản, đặc biệt là đối với những tài sản dễ hư hỏng, biến chất (như
hàng đông lạnh, nông sản…).7
Mặc dù cầm giữ tài sản là biện pháp phát sinh theo quy định của pháp luật, và
các bên không cần có sự thoả thuận với nhau, tuy nhiên, khi phân tích quyền và nghĩa
vụ của bên cầm giữ tài sản, các bên cần phải có những thoả thuận và thông báo cụ thể
để tránh những tranh chấp phát sinh trong quá trình cầm giữ.
1.4.2 Quyền và nghĩa vụ của bên có tài sản bị cầm giữ
Tương ứng với quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ tài sản, bên có tài sản bị cầm
giữ có những quyền và nghĩa vụ của mình.
Quyền của bên có tài sản bị cầm giữ bao gồm:
- Được yêu cầu bên cầm giữ tài sản giữ nguyên tình trạng tài sản cầm giữ;
- Được yêu cầu bên cầm giữ tài sản không được chuyển giao, sử dụng tài sản
cầm giữ khi chưa có sự đồng ý
- Được bồi thường thiệt hại nếu bên cầm giữ tài sản làm mất, hư hỏng tài sản của
mình
TS. Đoàn Thị Phương Diệp, 2017, “Cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu theo Bộ luật Dân sự
2015”, tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử, được lấy từ:
truy cập ngày 24/10/2018
7
14
- Được yêu cầu bên cầm giữ tài sản trả lại tài sản sau khi đã hoàn thành xong
nghĩa vụ.
Bên cạnh những quyền của mình, bên có tài sản cầm giữ có nghĩa vụ phải thanh
toán chi phí cần thiết cho việc bảo quản, gìn giữ tài sản trong quá trình cầm giữ.
1.5. Chấm dứt cầm giữ tài sản
Chấm dứt cầm giữ được quy định tại Điều 350 BLDS 2015. Cầm giữ tài sản
chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
Một là, bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên thực tế.
Hai là, các bên thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm khác để thay thế cho cầm
giữ tài sản. Tức là bên cầm giữ đồng ý trả tài sản mà mình đang cầm giữ cho bên có
nghĩa vụ và thực hiện biện pháp bảo đảm thay thế khác. Trong trường hợp này, nghĩa
vụ trong hợp đồng song vụ vẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ.
Ba là, nghĩa vụ đã được thực hiện xong: tức là bên có tài sản bị cầm giữhoàn
thành nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ thì chấm dứt quyền cầm giữ của bên có quyền,
vì lúc này, điều kiện để pháy sinh quyền cầm giữ đã không còn; bên cạnh đó, nghĩa vụ
cũng có thể được thực hiện xong trong trường hợp khi bên có quyền khai thác tài sản
cầm giữ, thu hoa lợi, lợi tức do tài sản mang lại và những giá trị này bù trừ toàn bộ giá
trị nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ.
Bốn là, tài sản cầm giữ không còn. Trong trường hợp tài sản cầm giữ không còn,
bên có quyền sẽ không còn căn cứ để gây sức ép đối với bên có nghĩa vụ, vì vậy, biện
pháp cầm giữ tài sản cũng không thể thực hiện được.
Năm là, cầm giữ tài sản chấm dứt theo thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp
này, bên cầm giữ đồng ý trả tài sản cho bên có nghĩa vụ. Để đạt được sự thỏa thuận này
có thể xuất phát từ sự tin cậy giữa các bên trong giao kết hợp đồng hoặc bên có nghĩa
vụ phải đáp ứng các điều kiện khác do hai bên thỏa thuận, hoặc bên có nghĩa vự thực
hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác.
15
Có thể nhận thấy, so với quy định chấm dứt cầm giữ tài sản tại Khoản 3 Điều
416 BLDS 2005 thì BLDS 2015 đã loại bỏ “trường hợp bên cầm giữ vi phạm nghĩa vụ
bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ” khỏi căn cứ chấm dứt cầm giữ, vì khi có sự vi phạm
nghĩa vụ bảo quản, gìn giữ tài sản cầm giữ thì bên cầm giữ có nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại, chứ không dẫn đến chấm dứt cầm giữ.8
1.6 Phân biệt biện pháp cầm giữ và biện pháp cầm cố tài sản
Nếu so sánh biện pháp “cầm cố tài sản” và cầm giữ tài sản thì cả hai đều là biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự với mục đích đảm bảo nghĩa vụ thực hiện đúng.
Tuy nhiên, đi vào nghiên cứu các quy định của hai biện pháp này thì nhận thấy rằng đây
là hai biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có nhiều điểm khác nhau. Cụ thể:
- Về thời điểm phát sinh: Nếu cầm cố tài sản được thực hiện trước hoặc ngay từ
khi giao kết hợp đồng thì cầm giữ tài sản chỉ phát sinh khi nghĩa vụ không được thực
hiện hoặc thực hiện không đúng.
- Về ý chí của các bên: Nếu cầm cố tài sản được phát sinh các bên thỏa thuận từ
thời điểm thỏa thuận để ký kết hợp đồng thì cầm giữ tài sản có thể phát sinh mà không
cần có sự thỏa thuận của các bên ngay từ khi giao kết hợp đồng (hay nói cách khác là
không thể thỏa thuận ngay từ khi giao kết hợp đồng vì các bên không thể biết được
nghĩa vụ có được thực hiện hay không).
- Về cơ sở phát sinh: Đối với cầm cố tài sản thì theo thỏa thuận các bên hoặc
pháp luật quy định, còn cầm giữ tài sản thì pháp luật quy định.
- Về đối tượng: Tài sản được cầm cố phải thuộc sở hữu của bên cầm cố thì tài
sản được cầm giữ chính là đối tượng của hợp đồng song vụ để bảo đảm cho chính việc
thực hiện nghĩa vụ liên quan đến tài sản bị cầm giữ đó.
Ví dụ: Theo hợp đồng mua bán xe máy giữa anh A (bên mua) và chị B (bên bán)
giao kết ngày 20/8/2016: chị B bán cho anh A một chiếc xe máy trị giá 30 triệu đồng.
Theo thỏa thuận, anh A trả trước cho chị B 15 triệu đồng và chị B giao xe cho anh A,
8
Đỗ Văn Đại 2015, tr.347
16
đến ngày 31/8/2016 anh A phải trả nốt cho chị B 15 triệu đồng còn lại. Đến ngày
31/8/2016, anh A không trả cho chị B số tiền còn lại thì chị B có quyền cầm giữ chiếc
xe máy đã bán cho anh A để đảm bảo anh A phải có nghĩa vụ phải trả số tiền còn lại
cho mình.
- Về quyền chiếm giữ tài sản: Nếu ở biện pháp cầm cố tài sản thì việc chiếm giữ
tài sản do các bên thỏa thuận, bên cầm cố hoặc người thứ ba giữ tài sản cầm cố thì đối
với biện pháp cầm giữ tài sản bên có quyền có thể tự mình cầm giữ hoặc giao cho người
thứ ba mà không cần sự thỏa thuận của bên bị cầm giữ tài sản.
- Về xử lý tài sản: Nếu ở biện pháp cầm cố tài sản bên nhận cầm cố tài sản có
quyền xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thỏa thuận, không được hưởng hoa lợi,
lợi tức từ tài sản cầm cố nếu không được bên cầm cố đồng ý thì ở biện pháp cầm giữ tài
sản bên cầm giữ không có quyền xử lý tài sản cầm giữ bởi vì đây chỉ là một biện pháp
tình thế “bắt giữ” để đòi hỏi quyền lợi chứ không phải là một thỏa thuận giao dịch bảo
đảm từ trước nên bên cầm giữ không có quyền xử lý tài sản cầm giữ9, nhưng theo Khoản
3 Điều 348 BLDS 2015 lại được thu hoa lợi và lợi tức từ tài sản cầm giữ, được dùng số
hoa lợi, lợi tức này để bù trừ nghĩa vụ nếu được bên có nghĩa vụ đồng ý.10
9
Chín biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng, Luật sư Trương Thanh Đức, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, trang
258
10
Tìm hiểu về bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, Nghiên cứu trao
đổi, đăng ngày 17/10/2016, Bộ Tư pháp, trích từ , truy cập ngày 24/10/2018
17
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CẦM GIỮ TÀI SẢN DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA MỘT
SỐ QUỐC GIA.
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về cầm giữ tài sản
2.1.1 Phạm vi cầm giữ tài sản
Việc BLDS 2015 chỉ quy định cầm giữ đối với quan hệ hợp đồng song vụ, nên
một người giữ gìn tài sản hay chăm sóc súc vật thất lạc của người khác không có quyền
yêu cầu chủ sở hữu tài sản trả chi phí bằng biện pháp cầm giữ tài sản. Việc chỉ quy định
áp dụng biện pháp cầm giữ tài sản đối với hợp đồng song vụ là quá chặt chẽ, không giải
quyết được các yêu cầu tương tự rất chính đáng trên thực tế. Như vậy, đối với trường
hợp không có hợp đồng song vụ, nếu bên có quyền yêu cầu thanh toán giữ tài sản của
chủ sở hữu thì không thuộc trường hợp cầm giữ tài sản.11
Một vấn đề nữa cần xem xét đó là có phải tất cả các hợp đồng song vụ đều có
thể áp dụng biện pháp cầm giữ hay không? Theo quy định tại Điều 346 BLDS năm
2015, Hợp đồng song vụ này áp dụng với mọi biện pháp cầm giữ. Tuy nhiên, với những
hợp đồng như “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng
dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền
dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ” (Điều 513 BLDS năm 2015). Với loại hợp đồng
song vụ này, bên có quyền không có gì để cầm giữ cả12.
2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ
Quyền được khai thác tài sản cầm giữ để thu hoa lợi, lợi tức nếu được bên có
nghĩa vụ đồng ý. Trong BLDS 2005, việc thu hoa lợi từ tài sản cầm giữ để bù trừ nghĩa
vụ là quyền đương nhiên của bên cầm giữ. Tuy nhiên, trong BLDS 2015, bên cầm giữ
tài sản chỉ được thu hoa lợi, lợi tức để bù trừ nghĩa vụ nếu được bên có nghĩa vụ đồng
ý. Quy định này vừa là ưu điểm, vừa là bất cập của cầm giữ tài sản.13Ưu điểm là đảm
11
Trang 261 giáo trình chín biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự.
Trích từ />13
Bên cầm giữ tài sản có quyền gì, được lấy từ: , truy
cập ngày 24/10/2018
12
18
bảo sự thông nhất giữa các biện pháp bảo đảm có đối tượng là tài sản. Bởi vì, việc bên
nhận bảo đảm quản lý tài sản là để nhằm ngăn ngừa bên bảo đảm tẩu tán tài sản chứ
không nhằm sử dụng tài sản. Nhược điểm của quy định này thể hiện ở chỗ bên cầm giữ
tài sản không được quyền xử lý tài sản cầm giữ như các bên nhận bảo đảm khác. Do đó,
nếu bên có nghĩa vụ lại không đồng ý cho bên cầm giữ tài sản thu hoa lợi, lợi tức thì
việc cầm giữ tài sản không có giá trị thực tiễn. Khi đó, biện pháp cầm giữ chỉ là biện
pháp bảo đảm trên giấy tờ. Ngoài ra, việc phải bỏ ra chi phí cho việc trông giữ, bảo
quản tài sản cầm giữ và việc tài sản cầm giữ có thể giảm sút giá trị cũng là những vấn
đề mà bên cầm giữ buộc phải lưu tâm. Vì bên cầm giữ có thể phải bồi thường thiệt hại
nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm giữ
2.1.3 Chấm dứt cầm giữ tài sản khi bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên
thực tế
Điều 21 của Nghị định 163 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm ngày
29/12/2006 được bổ sung, sửa đổi bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 (Nghị
định 163) đặt việc thực thi quyền cầm giữ tài sản lên trên quyền của bên nhận thế
chấp, nhưng cũng cần hiểu đúng bản chất của việc ưu tiên này tức là trong trường hợp
này bên cầm giữ tiếp tục được thực hiện việc cầm giữ (không trả tài sản bảo đảm để xử
lý thế chấp) đến khi nào chủ tài sản (hay bên nhận thế chấp) thanh toán khoản nợ của
bên có nghĩa vụ (bên thế chấp) cho bên cầm giữ. Vấn đề xảy ra, nếu bên cầm giữ vô
tình trả lại tài sản cho bên thế chấp hay bên nhận thế chấp để xử lý, thì khi đó, việc
thanh toán sẽ chỉ dựa vào tính chất của khoản nợ mà người có nghĩa vụ phải trả cho bên
cầm giữ tài sản. Tương tự, nếu bên cầm giữ bỏ tài sản và giao nó cho một người thứ ba
thì bên cầm giữ cũng không thể thực hiện quyền truy đòi tài sản của mình;
2.1.4 Thời hạn cầm giữ tài sản14
Bộ luật dân sự 2015 chưa quy định về thời hạn cầm giữ tài sản. Căn cứ theo
khoản 3, Điều 348 có thể xác định thời hạn cầm giữ tài sản chấm dứt khi bên cầm giữ
đã bù trừ được nghĩa vụ từ việc thu hoa lợi. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở chỗ là không
Được lấy từ: truy cập ngày 01/11/2018
14
19
phải tài sản cầm giữ nào cũng sinh ra được hoa lợi để có thể bù trừ. Hoặc dựa trên căn
cứ chấm dứt cầm giữ tài sản tại Điều 350 BLDS 2015 cũng có thể hiều thời hạn cầm
giữ kéo dài cho đến khi nghĩa vụ hoàn thành. Nếu bên vi phạm nghĩa vụ vẫn không thực
hiện nghĩa vụ thì giải quyết vấn đề này như thế nào? Đây là một trong những điểm hạn
chế của quy định về cầm giữ tài sản, chính điều này đã làm vô hiệu hóa giá trị về cầm
giữ tài sản vì thực tế bên cầm giữ tài sản không được phép xử lý tài sản bảo đảm.
2.1.5 Rủi ro cho bên nhận thế chấp
Điều 21 của Nghị định 163 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm ngày
29/12/2006 được bổ sung, sửa đổi bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 quy
định: “Trong trường hợp tài sản thế chấp đang bị cầm giữ thì bên cầm giữ có trách
nhiệm giao tài sản mà mình đang cầm giữ cho bên nhận thế chấp để xử lý theo quy định
của pháp luật sau khi bên nhận thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ đã hoàn thành nghĩa vụ
đối với bên cầm giữ”. Theo đó, khi tài sản bảo đảm bị bên thứ ba cầm giữ theo trường
hợp trên thì ngân hàng không được quyền thu hồi tài sản hoặc không được quyền yêu
cầu bên cầm giữ tài sản giao tài sản cho mình mà ngân hàng chỉ có thể yêu cầu bên có
nghĩa vụ (khách hàng- bên có tài sản bị cầm giữ) thực hiện nghĩa vụ với bên cầm giữ
tài sản hoặc ngân hàng chủ động thanh toán chi phí sửa xe cho bên cầm giữ tài sản để
nhận lại tài sản để xử lý thu hồi nợ. Tuy nhiên, vấn đề sẽ phức tạp hơn nếu khách hàng
và bên cầm giữ tài sản cấu kết với nhau để nâng khống chi phí sửa chữa nhằm buộc
ngân hàng phải bỏ ra số tiền nhiều hơn mới có thể nhận được tài sản bảo đảm để xử
lý.15
Luật sư Trần Quang Vinh, 2016, “Hạn chế rủi ro từ quy định cầm giữ tài sản”, được lấy từ:
/>truy cập ngày 1/11/2018
15
20
2.2 Quy định của pháp luật nước ngoài về câm giữ tài sản.
2.2.1 Pháp luật Pháp
2.2.1.1 Khái niệm cầm giữ tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 416 BLDS, quyền cầm giữ tài sản chỉ phát sinh
trong quan hệ hợp đồng, cụ thể là hợp đồng song vụ. Hiện nay BLDS 2015 đã tiếp cận
cầm giữ tài sản với tư cách là một biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của
luật. Điều 346 BLDS 2015 đưa ra khái niệm cầm giữ tài sản như sau: " Cầm giữ tài sản
là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối
tượng của hợp đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ."
Pháp luật của một số nước công nhận cả các tình huống không mang tính chất
song vụ. Chẳng hạn theo Điều 2277 của BLDS Pháp, người đang chiếm giữ một tài sản
bị đánh cắp hay bị mất nếu đã mua tài sản này tại một hội chợ, chợ, một buổi bán đấu
giá hay từ một người bán hàng bán các tài sản tương tự chỉ phải hoàn trả tài sản này cho
người chủ ban đầu khi người chủ này hoàn trả cho anh ta số tiền anh ta đã phải trả khi
mua tài sản, tức là, nếu không được hoàn trả số tiền bằng giá mua thì người đang chiếm
giữ được tiếp tục cầm giữ tài sản. Ở đây không có quan hệ hợp đồng trực tiếp giữa người
đang chiếm giữ tài sản và chủ sở hữu tài sản. Một ví dụ khác liên quan đến hợp đồng
thuê nhà ở, nếu trong hợp đồng thuê có quy định quyền của bên cho thuê được bán căn
nhà cho thuê và yêu cầu bên thuê ra khỏi địa điểm thuê trong thời hạn của hợp đồng
thuê thì bên thuê chỉ phải rời địa điểm thuê khi được bên cho thuê hay bên mua nhà
thanh toán các khoản bồi thường thiệt hại được quy định trong hợp đồng hay theo quy
định của pháp luật16.
Ngoài các trường hợp cầm giữ tài sản đặc biệt như trong hai ví dụ vừa nêu, BLDS
Pháp dành riêng Điều 2286 để khái quát hóa phạm vi áp dụng của quyền cầm giữ tài
sản, theo đó các đối tượng sau được hưởng quyền cầm giữ tài sản : (i) bên mà tài sản đã
16
Các Điều 1744 và 1749 BLDS Pháp.
21
được chuyển giao cho tới khi quyền đòi nợ của bên này được thanh toán (đây chính là
trường hợp cầm giữ tài sản trong khuôn khổ quan hệ cầm cố); (ii) bên mà quyền đòi nợ
chưa được thanh toán phát sinh từ hợp đồng trong đó có quy định nghĩa vụ của bên này
phải chuyển giao tài sản (trường hợp này giống với cầm giữ tài sản theo quy định của
pháp luật Việt Nam); (iii) bên mà quyền đòi nợ chưa được thanh toán được xác lập trong
quá trình bên này nắm giữ tài sản (chẳng hạn nếu chủ sở hữu một bất động sản yêu cầu
người chiếm hữu bất động sản trả lại bất động sản đó cho anh ta thì người chiếm hữu
bất động sản có quyền tiếp tục chiếm giữ đối với bất động sản đó nếu chưa được bồi
thường các phí tổn mà anh ta đã bỏ ra để sửa chữa hay đầu tư vào bất động sản đó); (iv)
bên nhận cầm cố tài sản mà không có chuyển giao tài sản (cầm cố ô tô, cầm cố bất động
sản…)17. Các học giả Pháp gọi đây là quyền cầm giữ ảo.
Tại Pháp hiện nay đang có tranh luận về mặt học thuật, liệu cầm giữ tài sản có
áp dụng cho các tài sản vô hình như quyền đòi nợ hay không. Chẳng hạn để giải thích
cho việc bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có độc quyền nhận ưu tiên thanh toán, một số
tác giả cho rằng, sau khi thông báo với bên có nghĩa vụ trả nợ về việc thế chấp, bên
nhận thế chấp có quyền cầm giữ đối với quyền đòi nợ được thế chấp. Tuy nhiên, cách
tiếp cận như vậy có nguy cơ đi ngược lại với bản chất pháp lý của cầm giữ vốn gắn liền
với việc nắm giữ về mặt vật chất và do đó, chỉ có thể thực hiện được với các tài sản hữu
hình mà thôi.
Điều 2286 nói trên nằm trong phần quy định chung về các biện pháp bảo đảm
của BLDS Pháp. Dù coi quyền cầm giữ tài sản là một biện pháp bảo đảm, các nhà lập
pháp của Pháp vẫn còn dè dặt trong cách tiếp cận biện pháp bảo đảm này. Về điểm này,
tại Việt Nam trước khi BLDS 2005 ra đời, một số học giả cho rằng, cầm giữ tài sản có
thể được xem một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự18. Tuy nhiên, BLDS
2005 không đưa cầm giữ tài sản vào phần quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự (các điều từ Điều 318 đến Điều 373) mà đề cập khái niệm này trong phần quy định
chung về thực hiện hợp đồng dân sự (các điều từ Điều 412 đến Điều 422). Theo quy
Trong trường hợp này, không có việc cầm giữ về mặt vật chất tài sản theo cách hiểu truyền thống nữa mà chỉ
là việc cầm giữ về mặt pháp lý.
18
TS. Nguyễn Văn Vân, “Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số
2/2005.
17
22
định tại BLDS 2005 cầm giữ tài sản là một trong các chế tài dân sự áp dụng trong trường
hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Hiện nay, BLDS 2015 đã đưa cầm giữ tài sản vào phần
quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (các điều từ Điều 346 đến Điều 350).
2.2.1.2 Hệ quả pháp lý đối với bên thứ ba
Theo quy định của pháp luật Pháp, quyền cầm giữ tài sản có tính đối kháng đối
với người thứ ba mua tài sản đang bị cầm giữ, với người thừa kế của người có tài sản
bị cầm giữ. Đặc biệt, nó có tính đối kháng với người có nghĩa vụ đang được hưởng
quyền tạm không bị các chủ nợ đòi nợ khi mới bị mở thủ tục phá sản, hay khi đã bị Tòa
án tuyên bố áp dụng các biện pháp phục hồi hoạt động hay thanh lý tài sản. Thực vậy,
theo quy định tại khoản 2 Điều L. 622-7-II, Bộ luật Thương mại Pháp, thẩm phán phụ
trách thủ tục phá sản có thể ra quyết định thanh toán một quyền đòi nợ phát sinh trước
khi mở thủ tục phá sản để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể lấy về một
tài sản được cầm giữ hợp pháp khi mà việc lấy về tài sản này cần thiết cho hoạt động
của doanh nghiệp, tức là bên cầm giữ chỉ phải trao tài sản cầm giữ sau khi đã được thanh
toán. Án lệ Pháp công nhận quyền ưu tiên tuyệt đối này trong trường hợp bán tài sản
cầm giữ khi thực hiện phương án phục hồi hoạt động của doanh nghiệp quy định tại
khoản 1, Điều L.626-22 của Bộ luật Thương mại. Nói cách khác, quyền của bên cầm
giữ tài sản được đề cao hơn quyền của mọi chủ nợ có bảo đảm hoặc không có bảo đảm
khác. Chính vì lý do này mà tại Pháp, các giao dịch bảo đảm làm phát sinh quyền cầm
giữ thường được các chủ nợ có bảo đảm ưu tiên sử dụng.
Xét một cách tổng thể, quy định về mối liên hệ giữa giữa quyền đòi nợ và khả
năng chiếm giữ theo quy định của pháp luật Việt Nam như vừa phân tích ở trên là tương
đối hẹp. Pháp luật của Pháp công nhận cả mối liên hệ mang tính vật chất và mối liên hệ
mang tính chất thỏa thuận giữa quyền đòi nợ và khả năng chiếm giữ. Mối liên hệ vật
chất phát sinh khi quyền đòi nợ phát sinh trong quá trình chiếm giữ tài sản. Mối liên hệ
mang tính chất thỏa thuận phát sinh khi người có nghĩa vụ giao một tài sản cho người
có quyền nhằm bảo đảm việc trả khoản nợ của mình mà không cầm cố tài sản này.
Chẳng hạn một người vay tiền của một người khác để mua một chiếc xe máy có thể
giao cho người cho vay giấy tờ xe. Việc giao giấy tờ này rõ ràng không phải là việc cầm
23
cố nhưng lại làm phát sinh quyền cầm giữ. Người cho vay sẽ chỉ trả lại giấy tờ xe khi
người đi vay đã hoàn trả khoản nợ. Tuy không trao cho bên cầm giữ quyền ưu tiên thanh
toán hay quyền được yêu cầu Tòa án trao tài sản nhưng quyền cầm giữ mang tính chất
thỏa thuận này ít nhiều mang một vài đặc điểm của cầm cố. Cho nên, việc xác lập quyền
cầm giữ theo thỏa thuận về mặt logic sẽ tuân thủ một vài nguyên tắc vốn áp dụng cho
cầm cố tài sản đặc biệt là yêu cầu xác lập thỏa thuận bằng văn bản để việc cầm giữ có
hiệu lực và việc trao tài sản cho người cầm giữ để đảm bảo tính đối kháng với các bên
thứ ba. Chính vì vậy, cầm giữ tài sản có phạm vi áp dụng rộng hơn rất nhiều so với quy
định của pháp luật Việt Nam và là một công cụ pháp luật khá hiệu quả giúp bảo vệ
quyền lợi của người có quyền (người cầm giữ tài sản) tại Pháp.
2.2.2 Pháp luật Anh
2.2.2.1 Khái niệm cầm giữ tài sản
Khác với pháp luật Pháp, trong pháp luật Anh, cầm giữ tài sản (lien) trước hết là
một biện pháp bảo đảm được tạo ra trên cơ sở mặc nhiên được pháp luật thừa nhận (by
operation of law) chứ không cần phải có thỏa thuận. Các bên cũng có thể tạo ra quyền
cầm giữ thông qua hợp đồng (contractual lien). Biện pháp cầm giữ không cần phải được
đăng ký để đảm bảo giá trị pháp lý với các bên thứ ba.
Bốn dạng cầm giữ tài sản phổ biến nhất của hệ thống pháp luật này bao gồm:
– Quyền cầm giữ theo án lệ (legal liens): là biện pháp bảo đảm được tạo ra trong
một số trường hợp khi bên có quyền đang có quyền chiếm hữu tài sản của bên có nghĩa
vụ và có thể là quyền cầm giữ cụ thể (particular liens) hay quyền cầm giữ chung (general
liens). Quyền cầm giữ cụ thể phát sinh khi (i) theo quy định của pháp luật chung một
người có nghĩa vụ tiếp nhận tài sản động sản hữu hình chẳng hạn như chủ khách sạn
phải cho khách lưu trú cùng với hành lý hay bên chuyên chở có nghĩa vụ chở hàng hóa
được giao hoặc (ii) một người cải thiện một tài sản động sản hữu hình bằng công việc
và kỹ năng của mình. Quyền cầm giữ chung được xác lập từ các tập quán thương mại
và cho phép một số đối tượng như bên môi giới chứng khoán, ngân hàng hay luật sư tư
24
vấn được cầm giữ mọi tài sản đang nắm giữ cho tới khi bên có nghĩa vụ thanh toán hết
cho mình các khoản tiền còn nợ.
– Quyền cầm giữ theo thỏa thuận: hợp đồng có thể mở rộng quyền của bên có
quyền cầm giữ theo án lệ trong việc xử lý biện pháp bảo đảm thông qua việc trao cho
bên này quyền bán tài sản động sản hữu hình khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ.
Các bên cũng có thể thỏa thuận mở rộng phạm vi của quyền cầm giữ theo án lệ bằng
cách tăng phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm (chẳng hạn chuyển một quyền cầm giữ cụ
thể thành một quyền cầm giữ chung) hoặc mở rộng phạm vi của tài sản là đối tượng
cầm giữ.
– Quyền cầm giữ theo văn bản pháp luật (statutory liens): một số văn bản pháp
luật nêu cụ thể quyền cầm giữ đã được án lệ thừa nhận. Chẳng hạn quyền cầm giữ của
một người bán hàng chưa được thanh toán tiền hàng được nêu trong Luật về Mua bán
hàng hóa năm 1979 (Sale of Goods Act 1979) hay quyền cầm giữ của bên môi giới bảo
hiểm hàng hải trong Luật Bảo hiểm hàng hải năm 1960 (Marine Insurance Act 1906).
Một số quyền cầm giữ khác phát triển độc lập với án lệ như quyền của sân bay được
giữ máy bay theo Điều 88 của Luật Hàng không dân dụng 1982 (Civil Aviation Act
1982).
– Quyền cầm giữ công bình (equitable liens) thường có đối tượng là đất đai và
khác các dạng cầm giữ nêu trên ở chỗ không đòi hỏi phải cầm giữ về mặt vật chất tài
sản. Cần lưu ý là việc có hay không quyền cầm giữ công bình đối với một số tài sản vô
hình như phần vốn góp hay văn bằng sáng chế vẫn chưa thực sự rõ ràng trong pháp luật
Anh.
2.2.2.2 Hệ quả pháp lý đối với bên thứ ba
Bên cầm giữ tài sản có quyền chiếm giữ tài sản cho tới khi nghĩa vụ được bảo
đảm được thanh toán. Ngược lại, bên cầm giữ không được bán tài sản trừ khi các bên
có thỏa thuận khác và cũng không được yêu cầu Tòa án ra quyết định bán tài sản. Quy
định này khá tương đồng với Luật Việt Nam không cho bên cầm giữ được xử lý tài sản
cầm giữ.
25