Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ trang phục (trên tư liệu tiếng việt và tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 213 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ OANH

ĐẶC ĐIỂM TRƢỜNG TỪ VỰNG NGỮ NGHĨA CHỈ TRANG PHỤC
(TRÊN TƢ LIỆU TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH)

Ngành: Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu
Mã số: 9 22 02 41

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM TẤT THẮNG
TS. ĐỖ THỊ HIÊN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
được sử dụng trong luận án này hoàn toàn trung thực. Những kết luận trong
luận án chưa được công bố ở bất kì công trình khoa học khác.
Tác giả luận án

Bùi Thị Oanh


LỜI CẢM ƠN
Luận án được nghiên cứu sinh (NCS) thực hiện tại Khoa Ngôn ngữ học, Học
viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam dưới sự hướng dẫn


của GS.TS. Phạm Tất Thắng và TS. Đỗ Thị Hiên.
NCS xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Tất Thắng - người
có vai trò dẫn đường, chỉ lối và tận tình chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm giúp NCS hoàn
thành nội dung luận án và tiếp thêm bản lĩnh cũng như khả năng nghiên cứu độc lập
cho NCS.
NCS cũng xin được thể hiện lòng biết ơn tới TS. Đỗ Thị Hiên với vai trò như
một người thầy, một người chị đã luôn kề vai, sát cánh, động viên và khích lệ giúp
NCS đi được tới chặng cuối của cuộc hành trình.
NCS xin được bày tỏ lòng tri ân đến Ban giám đốc và các thầy cô khoa Ngôn
ngữ học của Học viện Khoa học Xã hội. Có thể nói, những bài giảng trong khoá học
bổ sung kiến thức đã cung cấp NCS những kiến thức cơ bản đầu tiên về ngôn ngữ và
ngôn ngữ học so sánh đối chiếu đặt nền móng cho luận án. Sự nhiệt tình, tinh thần
trách nhiệm và tình yêu khoa học của các thầy cô đã truyền thêm ngọn lửa đam mê
nghiên cứu khoa học cho NCS.
NCS xin được dành lời cảm ơn đặc biệt tới TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh - người
đồng hành không thể tuyệt vời hơn của tất cả các bạn NCS và học viên cao học. Nếu
không có sự hỗ trợ, hướng dẫn tận tình của chị thì chắc hẳn NCS đã không thể có được
những giây phút như thế này.
Lời cuối cùng, NCS xin gửi lời cảm ơn từ tận đáy lòng tới toàn thể gia đình,
đồng nghiệp và bạn bè - những người đã luôn ở bên để chia sẻ, giúp đỡ về mặt tinh
thần giúp NCS vượt qua những thời khắc khó khăn nhất.
Một lần nữa, nghiên cứu sinh xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 2

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ............................................................ 7
7. Những đóng góp mới của luận án..................................................................... 7
8. Bố cục của luận án ........................................................................................... 8
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT............................................................................................................... 9
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ............................................................... 9
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ trang phục trên thế giới .................... 9
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ trang phục ở Việt Nam ................... 11
1.2. Một số vấn đề về lí thuyết liên quan đến đề tài............................................. 15
1.2.1. Khái quát về trường từ vựng - ngữ nghĩa .............................................. 15
1.2.2. Khái quát về trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục .................. 20
1.2.3. Khái quát về định danh ......................................................................... 22
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ................................................ 27
1.2.5. Khái quát về văn hoá trang phục .......................................................... 29
1.2.6. Lí thuyết về nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ .................................... 31
1.3. Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 34
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO, NGUỒN GỐC VÀ PHƢƠNG THỨC
ĐỊNH DANH CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ TRANG PHỤC TRONG TIẾNG
VIỆT VÀ TIẾNG ANH ...................................................................................... 35
2.1. Đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh...35
2.1.1. Đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt .......... 35
2.1.2. Đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Anh .... 37
2.1.3. So sánh đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ chỉ trang phục trong hai
ngôn ngữ ....................................................................................................... 38
2.2. Đặc điểm nguồn gốc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng
Anh ................................................................................................................... 40
2.2.1. Đặc điểm nguồn gốc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt ..... 40



2.2.2. Đặc điểm nguồn gốc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Anh 42
2.2.3. So sánh đặc điểm nguồn gốc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng
Việt và tiếng Anh ............................................................................................ 43
2.3. Các phương thức định danh của từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và
tiếng Anh .......................................................................................................... 45
2.3.1. Các phương thức định danh tiểu trường chỉnh thể trang phục trong tiếng
Việt và tiếng Anh ............................................................................................ 45
2.3.2. Các phương thức định danh tiểu trường chỉ trang phục phần thân trên
trong tiếng Việt và tiếng Anh .......................................................................... 52
2.3.3. Các phương thức định danh tiểu trường chỉ trang phục phần thân dưới
trong tiếng Việt .............................................................................................. 61
2.3.4. Các phương thức định danh tiểu trường chỉ mũ nón trong tiếng Việt và
tiếng Anh ....................................................................................................... 69
2.3.5. Các phương thức định danh tiểu trường chỉ giày dép trong tiếng Việt và
tiếng Anh ....................................................................................................... 78
2.3.6. Các phương thức định danh tiểu trường chỉ đồ trang sức trong tiếng Việt
và tiếng Anh ................................................................................................... 86
2.3.7. So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và
tiếng Anh ........................................................................................................ 91
2.4. Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 93
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA - DÂN TỘC CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ
TRANG PHỤC TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH .............................. 94
3.1. Đặc điểm văn hoá - dân tộc qua các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và
tiếng Anh theo từng thời kì lịch sử ..................................................................... 94
3.1.1. Đặc điểm văn hoá - dân tộc qua các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng
Việt theo từng thời kì lịch sử .......................................................................... 94
3.1.2. Đặc điểm văn hoá - dân tộc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng
Anh theo từng thời kì lịch sử ......................................................................... 100
3.1.3.So sánh đặc điểm văn hoá - dân tộc của người Việt và người Anh qua các
từ ngữ chỉ trang phục trong hai ngôn ngữ .................................................... 109

3.2. Đặc điểm văn hoá - dân tộc qua tư duy liên tưởng trong định danh từ ngữ chỉ
trang phục của người Việt và người Anh.......................................................... 110


3.2.1. Đặc điểm văn hoá - dân tộc qua tư duy liên tưởng trong định danh từ ngữ
chỉ trang phục của người Việt ...................................................................... 110
3.2.2. Đặc điểm văn hoá - dân tọc qua tư duy liên tưởng trong định danh từ ngữ
chỉ trang phục của người Anh ...................................................................... 113
3.2.3. So sánh các đặc điểm văn hoá - dân tộc qua tư duy liên tưởng trong
định danh từ ngữ chỉ trang phục của người Việt và người Anh ................ 118
3.3. Đặc điểm văn hoá - dân tộc qua nghĩa biểu trưng của thành ngữ, tục ngữ
có từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh ................................ 121
3.3.1. Hướng nghĩa biểu trưng cho giá trị đạo đức xã hội ........................ 123
3.3.2. Hướng nghĩa biểu trưng cho cho đẳng cấp xã hội .......................... 136
3.3.3. Hướng nghĩa biểu trưng cho giới tính ............................................. 141
3.4. Tiểu kết chương 3 ................................................................................... 146
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 151
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 160


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Số lượng các tiểu trường chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh ......22
Bảng 2.1: So sánh đặc điểm cấu tạo của các tiểu trường chỉ trang phục trong tiếng
Việt và tiếng Anh ...........................................................................................................39
Bảng 2.2: So sánh độ phân bố các tên gọi trang phục xét theo nguồn gốc ..................44
trong tiếng Việt và tiếng Anh ........................................................................................44
Bảng 2.3: Tương quan của các đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh chỉnh thể
trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh ......................................................................48
Bảng 2.4: Tương quan của các đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh trang phục

phần thân trên trong tiếng Việt và tiếng Anh ................................................................ 57
Bảng 2.5: Tương quan của các đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh trang phục
phần thân dưới trong tiếng Việt và tiếng Anh ...............................................................66
Bảng 2.6: Tương quan của các đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh mũ nón
trong tiếng Việt và tiếng Anh ........................................................................................73
Bảng 2.7: Tương quan của các đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh giày dép
trong tiếng Việt và tiếng Anh ........................................................................................83
Bảng 2.8: Tương quan của các đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh đồ trang sức
trong tiếng Việt và tiếng Anh ........................................................................................89
Bảng 2.9: So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và
tiếng Anh .......................................................................................................................91
Bảng 3.2: Giá trị biểu trưng về đạo đức xã hội của người Việt ..................................123
Bảng 3.3: Giá trị biểu trưng về đạo đức xã hội của người Anh .................................129
Bảng 3.4: Giá trị biểu trưng về đẳng cấp của người Việt ...........................................136
Bảng 3.5: Giá trị biểu trưng về đẳng cấp của người Anh ...........................................139
Bảng 3.6: Giá trị biểu trưng về hình ảnh người phụ nữ của người Việt .....................141
Bảng 3.7: Giá trị biểu trưng về giới tính của người Anh ...........................................143


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ chỉ chỉnh thể trang phục trong
tiếng Việt và tiếng Anh ..................................................................................................49
Biểu đồ 2.2: So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ chỉ trang phục phần thân trên
trong tiếng Việt và tiếng Anh ........................................................................................58
Biểu đồ 2.3: So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ chỉ trang phục phần thân dưới
trong tiếng Việt và tiếng Anh ........................................................................................67
Biểu đồ 2.4: So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ chỉ mũ nón trong tiếng Việt và
tiếng Anh .......................................................................................................................74
Biểu đồ 2.5: So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ giày dép trong tiếng Việt và tiếng
Anh ................................................................................................................................ 84

Biểu đồ 2.6: So sánh các đặc trưng định danh từ ngữ chỉ đồ trang sức trong tiếng Việt
và tiếng Anh...................................................................................................................90


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến trình phát triển của lịch sử và văn minh nhân loại đã chứng minh trang phục
là một tri thức văn hóa, một loại hình nghệ thuật giúp thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa, đặc
điểm vùng miền, môi trường sống, chế độ chính trị, diện mạo kinh tế của xã hội. Trang
phục đã trở thành biểu tượng văn hóa và mang trong mình những đặc trưng văn hóa dân
tộc của các quốc gia với nhiều mặt tích cực.
Các từ ngữ chỉ trang phục thuộc hạt nhân của hệ thống từ vựng trong mọi ngôn
ngữ và được con người nhận thức khá sớm so với các lớp từ khác. Chúng có số lượng
lớn, phản ánh rõ nét các đặc trưng văn hóa dân tộc và có sự biến đổi nghĩa phong phú.
Nghiên cứu hệ thống tên gọi về trang phục của mỗi quốc gia là một việc làm không chỉ
có giá trị về mặt ngôn ngữ học mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc tìm hiểu bản sắc văn
hóa dân tộc thông qua các kí hiệu ngôn ngữ.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu trang phục và tên gọi trang phục từ góc độ ngôn ngữ
chưa thực sự được giới chuyên môn quan tâm chú ‎ý. Phần lớn các công trình nghiên cứu
về trường trang phục hiện nay mới chỉ được xét trên một bình diện ngữ nghĩa như tìm
hiểu ý nghĩa biểu trưng trang phục trong thơ ca, quan hệ cấp loại hay đặc điểm định danh
các từ ngữ chỉ trang phục. Việc khảo sát một cách có hệ thống, chuyên sâu và toàn diện
trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục trong tiếng Việt trong sự so sánh đối chiếu với
tiếng Anh là một khoảng trống nghiên cứu còn bỏ ngỏ khi có sự khác biệt khá lớn trên
nhiều phương diện giữa hai dân tộc như đặc điểm loại hình ngôn ngữ, các điều kiện kinh
tế, chính trị, lịch sử, văn hóa, xã hội...
Với những lí do trên, chúng tôi đã chọn: "Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa
chỉ trang phục (trên tư liệu tiếng Việt và tiếng Anh) làm đề tài nghiên cứu của luận án.
Hy vọng rằng các kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thêm cứ liệu minh chứng cho
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá dân tộc, trở thành nguồn tham khảo hữu ích cho

công tác biên soạn từ điển Việt - Anh nói chung và từ điển trang phục Việt - Anh nói
riêng cũng như góp phần vào việc biên soạn sách tham khảo phục vụ giảng dạy văn hoá
học và ngôn ngữ học nhân học cho người Việt và người nước ngoài học tiếng Việt.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu về mặt lí thuyết của các nghiên cứu trong và
ngoài nước liên quan đến đề tài để ứng dụng vào việc nghiên cứu các từ ngữ chỉ trang phục
trong tiếng Việt và đối chiếu với tiếng Anh, luận án hướng tới các mục đích cụ thể sau:
(1) Khảo sát đặc điểm cấu tạo, đặc điểm nguồn gốc và các phương thức định danh
của từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh;
(2) Tìm hiểu đặc điểm văn hóa-dân tộc của các từ ngữ chỉ trang phục thể hiện qua
văn hoá trang phục, tư duy liên tưởng và nghĩa biểu trưng của thành ngữ, tục ngữ có từ ngữ
chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đươc các mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
cụ thể sau:
(1) Hệ thống lại những vấn đề liên quan đến đề tài luận án;
(2) Khảo sát đặc điểm cấu tạo, đặc điểm nguồn gốc và các phương thức định danh
của từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh;
(3) Tìm hiểu đặc điểm văn hóa - dân tộc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng
Việt và tiếng Anh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là 955 từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và
926 từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Anh-Anh bao gồm các từ ngữ chỉ tên gọi chỉnh thể
trang phục, đồ mặc ở phần thân trên; đồ mặc ở phần thân dưới; mũ nón; giày dép và đồ trang
sức.

Phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm: đặc điểm nguồn gốc, cấu tạo, các phương
thức định danh và đặc điểm văn hóa-dân tộc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt
và tiếng Anh.
Các đối tượng nghiên cứu trên được luận án thống kê, khảo sát từ rất nhiều nguồn
như sách, giáo trình, luận văn, luận án, từ điển đơn ngữ, từ điển song ngữ cũng như các trang
mạng thời trang có uy tín.

2


4. Ngữ liệu nghiên cứu
Các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh được thu thập và thống kê từ
các nguồn ngữ liệu cụ thể sau:
Tiếng Việt:
* Từ điển:
- Từ điển tiếng Việt (2010), Hoàng Phê (chủ biên), Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.
- Từ điển Anh-Việt, English-Vietnamese dictionary (2001), Viện ngôn ngữ học, Nhà
xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.
- Từ điển dệt may Anh -Việt (1996), Tô Đăng Hải, Lê Mạnh Chiến và Phạm Hồng,
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
- Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (1997), Chaevalier và Gheerbrant, Nhà xuất
bản Đà Nẵng.
- Hán-Việt tự điển (2015), Thiều Chửu, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Từ điển Hán-Việt từ nguyên (1999), Bửu Kế, Nhà xuất bản Thuận Hóa.
- Từ điển từ nguyên giải nghĩa (2003), Vũ Ngọc Khánh và Nguyễn Thị Huế, Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin.
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (2000), Vũ Dung, Vũ Thúy Anh và Vũ
Quang Hào, Nhà xuất bản Văn hóa.
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (2011), Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Văn

học.
- Từ điển thành ngữ Anh-Việt, Dictionary of English-Vietnamese Idioms (2010), Lã
Thành, Trịnh Thu Hương và Trung Dũng, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
* Sách và giáo trình:
- Giáo trình mỹ thuật trang phục (2002), Trần Thủy Bình, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Ngàn năm áo mũ (2013), Trần Quang Đức, Nhà xuất bản Thế giới.
- Trang phục Việt Nam qua các thời kỳ (2006), Đoàn Thị Tình, Nhà xuất bản Mỹ
thuật.

3


- Từ vựng tiếng Anh theo chủ điểm (2016), Nguyễn Thị Thu Huế, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia.
- Từ vựng tiếng Anh theo chủ điểm (2015), Đức Tín, Nhà xuất bản Thế giới.
Tiếng Anh:
- Oxford Advanced Dictionary (2006), A.S.Hornby, Oxford University Press.
- An Illustrated Dictionary of Historic Costume from the First Century B.C to C.1760
(2003), James Robinson Planché, Dover Publications, INC, Mineola, New York.
- A Dictionary of Costume and Fashion-Historic and Modern (1999), Mary Brooks
Picken, Dover Publications, INC.Mineola, New York.
- Clothing, Costume and Culture: Clothing, Headwear, Body decorations, and
Footwear through the Ages (2004), Sara Pendergast And Tom Pendergast Library of
Congress Cataloging-In Publication-Data, the USA.
- Encyclopedic Dictionary of Clothing and Textiles (2007), Maitra, K, Mittal
Publications.
- Dictionary of Symbols (1971), Cirlot, J.E, Routledge and Kegan Paul Ltd.
- English Idioms (1989), Seidle and Mordie, Oxford University Press.
- English Idioms in Use (2003), Michael McCarthy and Felicity O&Dell, Cambridge
University Press.

- A Book of Proverbs (2012), Josef S.Vershese, Satyam Enterprise, New Delhi, India.
- The Concise Oxford Dictionary of English Etymology (2003), T.F Hoad, Oxford
University Press.
- The Oxford Dictionary of Proverbs (2009), John Simpson and Jennifer Speake,
Oxford University Press.
- Dictionary of Word Origins (2011), John Ayto, Arcade Publishing, an imprint of
Skyhouse Publishing, Inc.
Các trang mạng:
- http: www.cambridgedictionary.com (retrieved on August 15th, 2015)
- http: www.etymonline.com (retrieved on January 20th, 2016)
- http: www.macmillandictionary.com (retrieved on March 3rd 2016)

4


- http: www.elle.harper‟s (retrieved on April 25th 2016)
- http: www.bazaarvietnam.vn (retrieved on September 10th 2016)
- http: www.elle.vn (retrieved on February 13th 2017)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm giải quyết được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận án đã sử
dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp miêu tả
Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt để giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Dựa vào nguồn ngữ liệu thu thập được, luận án tiến hành
phân tích miêu tả đặc điểm cấu tạo, nguồn gốc và các phương thức định danh của từ ngữ
chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh.
5.2. Phương pháp phân tích thành tố nghĩa
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu về mặt nội dung của các đơn vị có
nghĩa nhằm phân giải ý nghĩa ra thành các đặc trưng ngữ nghĩa.
Thứ nhất, tiến hành tập hợp, sắp xếp các từ ngữ chỉ trang phục theo nguyên tắc

đồng nhất hay gần gũi về ý nghĩa từ vựng để phân chia chúng thành các tiểu trường có
liên quan với việc biểu thị trang phục như: tiểu trường chỉ đồ mặc trên người, đồ đội đầu,
đồ đi dưới chân… Sau đó, dùng thủ pháp phân tích dọc-ngang nghĩa biểu vật và cấu trúc
nghĩa biểu niệm để đối chiếu chúng theo hai chiều: chiều dọc - các ý nghĩa cấp trên với ý
nghĩa cấp dưới và chiều ngang - các ý nghĩa thuộc cùng một cấp độ tôn ti.
Thứ hai, phân tích thành tố nghĩa dựa vào định nghĩa của từ trong từ điển cũng
được sử dụng nhằm phát hiện ra các nét độc đáo về văn hóa, ngôn ngữ và tư duy dân tộc
dựa trên những đặc trưng ngữ nghĩa khu biệt và các thông tin có sẵn đã lập thành ý nghĩa
của từ.
Có thể nói, phương pháp phân tích thành tố nghĩa là phương pháp đi sâu vào phân
tích mối quan hệ bình diện hệ thống - cấu trúc và bình diện hoạt động, chỉ ra sự khác
nhau giữa nghĩa bản thể và nghĩa liên hội, nghĩa sự vật - logic và nghĩa biểu trưng, sự
biến đổi ý nghĩa theo cả trục đồng đại và lịch đại.

5


Như vậy, khi xem xét nghĩa biểu trưng trong thành ngữ cần so sánh đối chiếu các
yếu tố trên trục hệ hình để thấy rõ nghĩa biểu trưng của từng yếu tố dựa trên những đặc
điểm tương đồng và dị biệt.
5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã sử dụng phương pháp
so sánh đối chiếu hai chiều trong đó cả hai ngôn ngữ đều được dành tỉ trọng chú ý thích
hợp, bắt đầu từ tiếng Việt rồi đối chiếu với tiếng Anh. Đây được coi là một trong những
phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận án. Phương pháp này được tiến hành cụ thể
theo các bước như sau:
1) Quy các từ ngữ chỉ trang phục vào từng tiểu trường phù hợp (căn cứ vào nghĩa
biểu vật và biểu niệm của chúng);
2) Phát hiện các đặc điểm của từng tiểu trường dựa trên hệ thống các tiêu chí có
sẵn;

3) Chỉ ra những đặc điểm tương đồng và khác biệt của các từ ngữ chỉ trang phục
trong tiếng Việt và tiếng Anh; từ đó lí giải các đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ
và tư duy đằng sau các lớp từ chỉ trang phục.
Sở dĩ từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt trong luận án được so sánh đối chiếu
với tiếng Anh bởi lẽ chúng tôi mong muốn hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những nét đặc
trưng mang tính ngôn ngữ - văn hoá của tiếng Việt cũng như những nét phổ quát mà
tiếng Việt chia sẻ với tiếng Anh - ngôn ngữ quốc tế. Hiểu biết đó chính là hành trang vô
cùng quí giá và không thể thiếu trong quá trình hội nhập quốc tế sao cho vẫn giữ được
bản sắc văn hoá và linh hồn của dân tộc.
5.4. Thủ pháp thống kê
Các hiện tượng ngôn ngữ không chỉ có những đặc trưng về chất mà còn có cả
những đặc trưng về lượng. Đôi khi, những sự khác biệt về lượng lại giúp lý giải cho sự
khác biệt về chất của các cấu trúc ngôn ngữ. Rõ ràng là những số liệu cụ thể và chính xác
có được từ thủ pháp thống kê sẽ làm tăng hàm lượng khoa học cũng như tính thuyết phục
của các luận điểm được trình bày trong các nghiên cứu. Vì lẽ đó, các tư liệu có được của

6


luận án chủ yếu là nhờ quá trình thống kê và phân loại các từ ngữ chỉ trang phục từ nhiều
nguồn như sách báo, giáo trình, từ điển và các trang mạng đáng tin cậy.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của một số công trình từ nguyên học theo phương
pháp so sánh - lịch sử cũng được sử dụng để tìm ra những quy luật, khuynh hướng đặc
trưng và tiêu biểu của hai ngôn ngữ Việt - Anh.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa lí luận, các kết quả của đề tài sẽ góp phần củng cố lí thuyết về trường
từ vựng - ngữ nghĩa, làm rõ thêm một số vấn đề trong quan hệ bộ ba ngôn ngữ, văn hóa
và tư duy thể hiện qua trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục trong tiếng Việt và
tiếng Anh. Đồng thời, kết quả nghiên cứu còn cung cấp thêm nguồn ngữ liệu về bản sắc
văn hóa của hai dân tộc Việt - Anh.

Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả của đề tài sẽ góp phần nâng cao công tác biên soạn
sách dạy tiếng Việt cho người nói tiếng Anh và ngược lại; giúp biên soạn giáo trình
giảng dạy từ vựng-ngữ nghĩa tiếng Việt nhằm phục vụ cho đào tạo ngôn ngữ học ở bậc
cử nhân và bậc sau đại học; biên soạn sách tham khảo phục vụ giảng dạy văn hóa học và
ngôn ngữ học nhân học; cung cấp dữ liệu cho công tác biên soạn từ điển trang phục ViệtAnh, Anh-Việt.
Đặc biệt, việc sử dụng các mục từ được sắp xếp theo từng tiểu trường vào việc
tiến hành các hoạt động dạy và học theo chủ đề liên quan đến trang phục là cách ứng
dụng rất hiệu quả giúp nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt và tiếng Anh.
7. Những đóng góp mới của luận án
Có thể coi đây là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống,
toàn diện và chuyên sâu đặc điểm cấu tạo, nguồn gốc và các phương thức định danh của
các từ ngữ thuộc trường trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh.
Luận án cũng đã khảo sát đặc điểm văn hóa-dân tộc qua từ ngữ chỉ trang phục, tư
duy liên tưởng trong định danh tên gọi trang phục và nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ
trang phục trong thành ngữ và tục ngữ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy chính sự ảnh hưởng và tác động qua lại giữa con
người - tự nhiên - xã hội đã tạo nên bản sắc riêng của mỗi dân tộc và bản sắc dân tộc

7


đã lưu dấu ấn ở lớp từ ngữ chỉ trang phục mà tiếng Việt và tiếng Anh không phải là
ngoại lệ.
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, bố cục luận án gồm
3 chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo, nguồn gốc và các phương thức định danh của từ
ngữ chỉ trang phục trong tiếng Việt và tiếng Anh
Chương 3: Đặc điểm văn hóa - dân tộc của các từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng

Việt và tiếng Anh.

8


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Chương này trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ trang phục
trên thế giới và ở Việt Nam cũng như điểm luận một số vấn đề lí thuyết liên quan trực
tiếp đến đề tài như các lí thuyết về so sánh đối chiếu, trường từ vựng - ngữ nghĩa, định
danh và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ trang phục trên thế giới
Trên thế giới, việc nghiên cứu trang phục chủ yếu được tiếp cận từ góc độ văn
hóa và lịch sử. Hầu như chưa có công trình nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống
về trường nghĩa chỉ trang phục từ bình diện ngôn ngữ học mà phần lớn mới tiếp cận
chúng từ một xu hướng nghiên cứu như: phương thức cấu tạo từ và từ nguyên học, tiêu
chí phân loại và đặc trưng ngôn ngữ dân tộc.
Xu hướng thứ nhất: Nghiên cứu phương thức cấu tạo từ và từ nguyên học liên
quan đến từ đồng nghĩa trong tiếng Anh của người Anh và tiếng Anh của người Mỹ phải
kể đến công trình của David Kozisek (2011) với một số phát hiện sau:
Có một số từ đồng nghĩa chỉ quần áo và phụ kiện được sử dụng trong cả tiếng
Anh - Anh và Anh - Mỹ nhưng chúng lại biểu thị những khái niệm khác nhau và điều
này đôi khi dẫn đến những hiểu lầm, nhầm lẫn đáng tiếc trong hai ngôn ngữ. Chẳng hạn
như từ “pants” và “vest” đều dùng để chỉ đồ lót trong tiếng Anh - Anh; từ “purse” trong
tiếng Anh - Mỹ đã được chuyển từ ý nghĩa ban đầu (túi nhỏ để mang đồng xu, nghĩa này
vẫn được sử dụng trong tiếng Anh - Anh) và được sử dụng như từ đồng nghĩa với từ
“handbag” chỉ túi xách của nữ; từ “mackintosh” và “welling boots” trong tiếng Anh Anh (có nguồn gốc từ tên gọi của nhà phát minh) mang ý nghĩa giống từ “raincoat” (áo
mưa) và “rubber boots” (ủng/bốt cao su) trong tiếng Anh - Mỹ song người Mỹ lại hoàn
toàn không biết đến những từ này;

Phần lớn các từ ngữ chỉ trang phục của người Mỹ và người Anh có nguồn gốc từ
tiếng Pháp như “suspenders, turtle neck, underpants, vest”... và tiếng Đức như “spike
heels, overalls, undershirt”... song trong tiếng Anh - Anh có một số từ ngữ chỉ trang

9


phục được du nhập vào nước Anh trong thời kì thuộc địa có nguồn gốc từ Ấn Độ như:
“dungarees” (đặt tên theo một phần của thành phố Bombay, Ấn Độ) và Pakistan như:
“polo neck”. [67].
Như vậy có thể thấy công trình này mới chỉ tập trung vào đặc điểm nguồn gốc
của các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh - Anh và tiếng Anh - Mỹ. Các đặc điểm nổi bật
khác như định danh và đặc điểm văn hoá - dân tộc không phải là đối tượng nghiên cứu
của đề tài.
Xu hướng thứ hai: Nghiên cứu từ ngữ chỉ trang phục từ góc độ nghiên cứu tiêu
chí phân loại. Đại diện cho xu hướng này là công trình: “Lexical categorization of
language units of the sphere “clothes” in the English language” của hai tác giả Volha
Murashka &Viktoriya Pasenka (2013).
Cho rằng tiêu chí chính trong phân loại từ vựng là phải dựa vào kinh nghiệm cá
nhân bởi lẽ trong quá trình nhận thức thế giới khách quan, kinh nghiệm của mỗi người
giúp hình thành các phạm trù phân loại trong tư tưởng họ trước tiên, Volha Murashka
&Viktoriya Pasenka (2013) đã tiến hành phân loại các từ ngữ chỉ trang phục thành
những nhóm khác nhau dựa theo các tiêu chí như:
+ Giới tính (female, male, girls’, women’s, men’s, maternity...);
+ Tuổi tác (baby clothes, teenager clothes, clothes for middle-aged people,
clothes for elderly people...);
+ Mục đích sử dụng (everyday clothes, sports clothes, uniform...)
+ Mùa khí hậu (summer clothes, winter clothes, autumn-spring clothes);
+ Kiểu dáng (classic/traditional clothes, folk style clothes, romantic clothes,
sports style clothes...);

+ Cách thức cắt may (draped clothes, sewed clothes...).
Dựa trên dữ liệu phân tích, hai tác giả đã rút ra các kết luận dưới đây:
Nhóm từ ngữ chỉ trang phục trong tiếng Anh là một hệ thống mở và vẫn không
ngừng phát triển và để phân loại chúng cần phải dựa vào những đặc điểm tri nhận khác
nhau của từng dân tộc cũng như kinh nghiệm cá nhân. Những đặc điểm đó mang bản sắc
văn hóa và không giống nhau giữa các vùng miền;

10


Các tên gọi mới chỉ trang phục chủ yếu được hình thành dựa trên những tên gọi
có sẵn trong tiếng Anh. Điều đó có nghĩa là định danh phái sinh diễn ra thường xuyên
hơn định danh trực tiếp (52% các từ chỉ tên gọi trang phục được cấu tạo bằng hình thức
phái sinh hình thái học chủ yếu từ động từ, tính từ và danh từ). [94, tr.1189-1201].
Qua đây, chúng tôi thấy rằng tiêu chí phân loại này chủ yếu áp dụng với trường
biểu vật. Việc tìm hiểu từ ngữ chỉ trang phục qua trường liên tưởng trên cơ sở so sánh
đối chiếu với các ngôn ngữ khác còn bỏ ngỏ.
Xu hướng thứ ba: Nghiên cứu về đặc trưng ngôn ngữ của các từ ngữ chỉ trang
phục. Đại diện cho xu hướng này là tác phẩm của Zulfiya G.Khanoval (2017) với đề tài:
“Linguistic features of clothing terminology in Tatar language”.
Bằng việc sử dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa định lượng và phương pháp
miêu tả, tác giả đã chia 220 đơn vị từ vựng chỉ trang phục thu thập được từ các cuốn từ
điển tiếng Tatar và từ điển nguyên học thành các tiểu trường như: tên gọi quần áo (gồm
110 đơn vị), tên gọi phụ trang đội đầu như mũ nón (gồm 50 đơn vị), tên gọi giày dép và
các bộ phận của chúng (gồm 50 đơn vị), tên gọi phụ kiện mang trên tay (gồm 10 đơn vị).
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Ngoài các từ có nguồn gốc từ tiếng Tatar, các từ ngữ chỉ
trang phục trong tiếng Tatar còn có nguồn gốc từ tiếng Ả rập – Ba Tư như “chalbar,
ihram”...và ngôn ngữ Châu Âu như “scarf, beret, vest, camisole, mantle, coat, skirt,
tights, pants”...; Tên gọi trang phục tiếng Tatar chủ yếu được cấu tạo bằng phương thức
ghép. [97, tr.1550-1554].

Như vậy, điểm khác biệt với các công trình nghiên cứu ở trên là tác giả đã tập
trung tìm hiểu đặc điểm nguồn gốc và cấu tạo của các từ ngữ chỉ trang phục theo từng
tiểu trường của một loại hình ngôn ngữ. Tuy nhiên, các đặc trưng văn hoá - dân tộc thể
hiện tư duy liên tưởng trong sự so sánh đối chiếu với ngôn ngữ khác cũng vẫn là một
hướng đi mới cần được tiếp cận.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ trang phục ở Việt Nam
Có thể thấy từ ngữ chỉ trang phục được các nhà nghiên cứu trong nước tiếp cận
chủ yếu từ hai phương diện chính: văn hóa - nghệ thuật học và ngôn ngữ học.

11


Nghiên cứu trang phục được các nhà văn hóa học hay nghệ thuật học đặc biệt chú
ý như các công trình [1], [11], [19], [41].
Vấn đề về trang phục từ truyền thống đến hiện đại hiện được coi là những biểu
hiện của đời sống văn hóa và thẩm mỹ của mỗi cộng đồng dân tộc. Nghiên cứu về trang
phục của người Việt qua các thời kì để thấy được sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện
đại cũng như tính dân tộc và tính quốc tế trong bối cảnh giao lưu văn hóa đa dạng và
thường xuyên là đối tượng nghiên cứu chính của tác giả Đoàn Thị Tình (2006) với đề tài:
“Trang phục Việt Nam qua các thời kì (Vietnamese costume through the ages)”.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Thông qua cái nhìn lịch đại kết hợp với đồng đại có
thể thấy trang phục người Việt vừa giản dị, đơn sơ vừa có tính thích nghi cao với môi
trường khắc nghiệt của thiên nhiên; Trang phục người Việt có giá trị sử liệu và có chức
năng phòng bệnh; Trang phục của người Việt có sự chọn lọc về hình dáng, kiểu thức,
màu sắc, chất liệu, hoa văn trang trí. [41].
Cùng cách thức tiếp cận từ bình diện văn hoá học, thông qua việc tìm hiểu trang
phục cung đình Việt từ triều Lý tới triều Nguyễn (1009-1945), Trần Quang Đức (2013)
đã miêu tả cụ thể kiểu dáng, quy chế của các loại áo mũ từng được sử dụng phổ biến
trong cung đình và dân gian Việt Nam ở những thời kì này.
Những nét rất khái quát về trang phục như nguồn gốc và chức năng của quần áo,

khái niệm trang phục và hệ thống các chủng loại trang phục được trình bày một cách khá
chi tiết và đầy đủ trong “Giáo trình Mỹ thuật Trang phục” của Trần Thủy Bình (2002).
Đặc biệt là một lược khảo về trang phục phương Tây qua các thời đại cũng được thể hiện
trong khảo cứu.
Nghiên cứu về họa tiết “ốc rồng” và họa tiết “bàn chân” trong thổ cẩm người
H‟Mông có đề tài về hoa văn trang trí vải của Nguyễn Thị Bích Hạnh (2016). Qua ngữ
liệu nghiên cứu có thể thấy những dạng họa tiết mang tính biểu tượng đa nghĩa trong
nghệ thuật tạo hình trên vải của dân tộc này đã bước đầu lý giải sự xuất hiện của chúng
trên nền yếu tố tâm thức văn hóa bản địa và lịch sử phát triển tộc người.
Trong ngôn ngữ học, việc nghiên cứu các từ ngữ chỉ trang phục chưa được chú
trọng nhiều, chủ yếu theo ba xu hướng sau:

12


Xu hướng thứ nhất: Nghiên cứu từ ngữ chỉ trang phục từ góc độ ngữ nghĩa hoặc
quan hệ về nghĩa. Đại diện tiêu biểu cho xu hướng này là tác giả Lê Thị Hà (1998) với
công trình: “Mô hình các từ ghép và ngữ định danh chỉ y phục của tiếng Việt xét về mặt
cấu tạo và ngữ nghĩa”. Có lẽ, đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về từ ngữ chỉ trang
phục đi sâu vào nghiên cứu quan hệ cấp loại và quan hệ toàn bộ - bộ phận trong các từ
ghép chính phụ phân nghĩa chỉ y phục.
Lê Thị Hà (2014) đã tiến hành phân chia các từ trong trường trang phục theo
quan hệ cấp loại và đưa ra nhận định như sau: “Hai quan hệ phân loại loại - loại và phân
loại chính thể - bộ phận luôn đan chéo vào nhau và không một loại quan hệ nào đi suốt
quá trình phân chia cấp loại từ bậc một cho đến bậc tận cùng. Một từ ghép hay ngữ định
danh chỉ bộ phận của trang phục lại có thể là một đơn vị chỉ chỉnh thể trên cấp bao gồm
các bộ phận phân chia theo quan hệ chỉnh thể - bộ phận”. [14, tr.21-26].
Xu hướng thứ hai: Nghiên cứu về đặc điểm định danh của các từ ngữ chỉ trang
phục như các công trình của Lý Toàn Thắng (2009), Phạm Thị Hồng (2007) và Hoàng
Thị Huệ (2017).

Đề cập đến đặc điểm định danh trong các câu đố động thực vật, trong bài viết Về
cách thức tri nhận thế giới của người Việt (trên ngữ liệu câu đố về động vật và thực vật),
Lý Toàn Thắng (2009) chỉ ra rằng trong số 305 câu đố động vật có 46 câu đố chỉ trang
phục của con người như: áo giáp, áo khoác, áo bào, áo gấm, yếm thắm, khăn trắng…
(chiếm 15%); Trong 291 câu đố thực vật có 43 câu đố liên quan đến trang phục như:
nón, mũ, áo lụa, áo kép, yếm thắm, quần dài, đai bạc…(chiếm 15%). [49, tr.313-314].
Từ góc độ nghiên cứu đối chiếu đặc điểm định danh tên gọi trang phục trong
tiếng Nga và tiếng Việt từ bình diện cách thức biểu thị của tên gọi có lý do và không có
lý do, Phạm Thị Hồng (2007) cho rằng: “Với đặc điểm là một loại hình ngôn ngữ tổng
hợp tính tiếng Nga thường thêm các phụ tố vào thân từ của tên gọi chỉ trang phục để cấu
tạo nên một từ mới (chiếm 68,6%). Cấu trúc bên trong của tên gọi trang phục trong ngôn
ngữ này có lý do hầu như không thấy có dấu hiệu đặc trưng chỉ cách thức sử dụng, nhiệt
độ, đặc điểm người sử dụng trang phục, kiểu dáng, cấu tạo trang phục, đặc điểm màu
sắc, đặc điểm lứa tuổi. Trái lại, tiếng Việt với đặc điểm là một loại hình ngôn ngữ đơn

13


lập thường sử dụng một yếu tố sẵn có làm tên gọi chỉ loại bằng cách thêm một gốc từ
(tính từ hoặc cụm tính từ, động từ hoặc cụm động từ, danh từ hoặc cụm danh từ) để biểu
hiện đặc trưng được lựa chọn, ví dụ như áo len - áo (tên gọi chỉ loại) và len (gốc danh từ
biểu hiện đặc trưng chất liệu)”. [23, tr.19-24].
Tiếp cận vấn đề nghiên cứu thuật ngữ chỉ tên gọi thời trang trên cơ sở phân tích
đặc điểm cấu tạo và phương thức định danh, Hoàng Thị Huệ (2017) đã chọn ngẫu nhiên
718 thuật ngữ chỉ tên gọi thời trang về trang phục và những phụ kiện, trang sức đi kèm
trang phục trong tiếng Việt hiện đại để làm ngữ liệu nghiên cứu và tập trung làm nổi bật
những đặc điểm cấu tạo và phương thức định danh của thuật ngữ này.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các thuật ngữ thời trang là từ ghép trong tiếng
Việt được cấu tạo theo mô hình cụ thể hóa bản chất và thuộc tính của sự vật. Ngoài ra,
người Việt có xu hướng chọn những đặc điểm gần gũi nhất với cuộc sống đời thường

làm cơ sở định danh thời trang. [25, tr.103-109].
Có thể thấy, đối tượng nghiên cứu của Hoàng Thị Huệ có một số nét tương đồng
với đối tượng nghiên cứu của chúng tôi vì đều lựa chọn nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo
và phương thức định danh của các từ ngữ chỉ trang phục song chúng tôi tập trung nhiều
hơn đến bình diện ngôn ngữ và văn hoá thay vì chỉ tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ đơn
thuần.
Xu hướng thứ ba: Nghiên cứu từ ngữ chỉ trang phục từ góc độ nghĩa biểu trưng
có các tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa (2007) và Trần Thị Hồng Hạnh (2017).
Tìm hiểu về mối quan hệ giữa hệ biểu tượng trang phục và các hệ biểu tượng văn
hoá khác, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2007) cho rằng: “ Đặc điểm bản thể của hệ biểu tượng
trang phục là cơ sở định hướng cho các kiểu quan hệ kết hợp nhất định: trang phục - loã
thể, trang phục - màu sắc, trang phục - thiên nhiên. Đây là những kiểu quan hệ cơ bản
nhất, hoàn toàn không mang tính ngẫu nhiên mà được hình thành từ những thuộc tính tất
yếu của trang phục trong vai trò là yếu tố trung gian giữa con người và tự nhiên, con
người và môi trường xã hội, con người và vũ trụ, con người và những giá trị đạo đức, tín
ngưỡng mà nó hướng tới, con người và sự khám phá, điều chỉnh những sức mạnh thuộc
về bản năng, vô thức trong chính nó”.

14


Coi nghĩa biểu trưng của những câu thành ngữ tiếng Việt có chứa từ liên quan
đến “lúa gạo” làm đối tượng nghiên cứu, Trần Thị Hồng Hạnh (2017) nhận định: “Câu
thành ngữ: Áo vải cơm rau biểu trưng cho cuộc sống thanh bạch, giản dị trong khi câu:
Giá áo túi cơm lại biểu trưng cho người không có năng lực hoặc vô dụng”. [20, tr.90-91].
Xét một cách tổng thể, các công trình nghiên cứu về từ ngữ chỉ trang phục ở trong
và ngoài nước chưa nhiều song cũng cho thấy sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học
dành cho lớp từ này. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu
đặc điểm của các từ ngữ chỉ trang phục theo từng tiểu trường một cách toàn diện và
chuyên sâu, đặc biệt trên cơ sở đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh. Vì lí do đó, chúng tôi

đã chọn: “Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục (trên tư liệu tiếng Việt và
tiếng Anh)” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Một số vấn đề về lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái quát về trường từ vựng - ngữ nghĩa
1.2.1.1. Khái niệm trường từ vựng - ngữ nghĩa
Nghĩa cơ bản của trường là khoảng không gian. Trong vật lý học, trường được hiểu là
“dạng vật chất tồn tại trong một khoảng không gian mà vật nào trong đó cũng chịu tác dụng
của một lực”. Ví dụ như từ trường, điện trường, trường hấp dẫn…Ngôn ngữ học mượn khái
niệm trường từ vật lý học để nghiên cứu ngữ nghĩa; vì thế mà xuất hiện trường ngữ nghĩa
(fields of semantic - lexical). Khái niệm này còn được gọi là trường từ vựng - ngữ nghĩa,
trường từ vựng, trường nghĩa.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm trường nghĩa nhưng chung quy lại có thể
quy vào hai khuynh hướng chủ yếu sau:
Khuynh hướng thứ nhất quan niệm trường nghĩa là toàn bộ các khái niệm mà các từ
trong ngôn ngữ biểu hiện. Đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này là L.Weisgerber và
J.Trier. Theo quan điểm của Trier và những nhà nghiên cứu có cùng quan điểm giống ông,
mặt nghĩa của ngôn ngữ là một kết cấu chặt chẽ và được phân chia thành các trường hoặc các
phạm vi khái niệm một cách rõ ràng. Tất cả thành phần từ vựng đều được phân bố theo những
trường hoặc phạm vi đó. Một từ chỉ có ý nghĩa khi nó nằm ở trong trường và ý nghĩa của nó

15


chỉ được xác định dựa vào những quan hệ của nó với các từ khác thuộc trường ấy. [dẫn theo
12, tr.39].
Khuynh hướng thứ hai cố gắng xây dựng lí thuyết trường nghĩa trên cơ sở tiêu chí
ngôn ngữ học. Trường nghĩa không phải là phạm vi các khái niệm mà là phạm vi tất cả các từ
có quan hệ với nhau về nghĩa. Đại diện chính cho khuynh hướng này là Ipsen. Ipsen đã căn cứ
xây dựng lí thuyết trường nghĩa dựa vào hình thái của các từ. Theo ông, trường nghĩa bao gồm
các từ có cùng tiêu chí về hình thái và ý nghĩa. Ví dụ một loạt các tên gọi các kim loại trong

ngôn ngữ Ấn Âu có hình thái giống chung và hoạt động ngữ pháp giống nhau. Đây được coi
là trường từ vựng ngữ pháp hay nhóm từ vựng ngữ pháp. [dẫn theo 12, tr.40].
Có thể thấy việc sử dụng nền tảng cấu trúc luận khi tiếp cận trường từ vựng của Trier
một mặt được các nhà nghiên cứu tiếp nhận rộng rãi nhưng một mặt lại vấp phải những lời chỉ
trích về việc phân biệt quá rạch ròi các đơn vị trong trường cũng như việc đồng nhất các khái
niệm trường từ vựng (lexical field), trường nghĩa (semantic field) và trường từ (word field)
Sau này Lyons (1977) đã phân biệt trường từ vựng (lexical field) - một tập hợp các
đơn vị từ vựng bao phủ lên một trường khái niệm cụ thể với trường khái niệm (conceptual
field) - một cấu trúc khái niệm ở cấp độ ngữ nghĩa, tức một vùng khái niệm đã được cấu trúc
hóa. Cái gọi là ô trống từ vựng xuất hiện khi trường từ vựng không phủ kín được trường khái
niệm. Chẳng hạn như từ horse (ngựa) phủ kín cả từ stallion (ngựa đực) và mare (ngựa cái)
song điều này lại không xảy ra với từ bull (bò đực) và từ cow (bò cái). [dẫn theo 6, tr.253]
Lyons (1977) còn phân biệt giữa trường từ vựng (lexical field) và trường nghĩa
(semantic field). Nếu một trường bao gồm tập hợp các biểu thức phủ lên trường khái niệm như
các thành ngữ bên cạnh các đơn vị từ khác trong trường thì trường này nên được gọi là trường
nghĩa hơn là trường từ vựng. Ví dụ như trường nói về “sự tức giận”, ngoài các đơn vị từ vựng
như rage (giận dữ), fume (nổi đóa), seethe (sôi sùng sục) còn có các biểu thức ngôn ngữ như
boil over (sôi lên, trào ra), look daggers (nhìn trừng trừng) thì nên được gọi là trường nghĩa hơn
là trường từ vựng. [dẫn theo 6, tr.268]
Theo Laurel (2000), trường nghĩa là tập hợp các từ có quan hệ với nhau về nghĩa. Các
từ trong một trường có chung đặc điểm ngữ nghĩa nhất định. Phần lớn các trường nghĩa được
định nghĩa theo chủ đề như bộ phận cơ thể, bệnh tật, màu sắc, thức ăn, quan hệ thân tộc... .

16


Đỗ Việt Hùng (2011) nhận định: “Từ vựng là tập hợp các từ và đơn vị tương đương
với từ của một ngôn ngữ. Song, từ vựng không phải là một tập hợp ngẫu nhiên các đơn vị này.
Từ vựng là một hệ thống. Do đó, giữa các đơn vị của hệ thống từ vựng tồn tại những mối quan
hệ nhất định. Một trong những mối quan hệ cơ bản giữa các đơn vị từ vựng là quan hệ đồng

nhất về nghĩa. Các đơn vị từ vựng đồng nhất với nhau về nghĩa tập hợp thành trường nghĩa”.
1.2.1.2. Phân biệt khái niệm trường nghĩa với khung nghĩa và mạng từ
Để hiểu sâu sắc hơn về bản chất của khái niệm trường nghĩa, cần phân biệt trường
nghĩa với những khái niệm dễ gây nhầm lẫn như khung nghĩa và mạng từ.
Fillmore (1975) cho rằng: “Mỗi khung nghĩa là một sơ đồ hóa sự trải nghiệm” và ông
cũng chỉ ra rằng: “Khung là một bộ các từ mà mỗi từ trong đó biểu thị một phần nhất định hay
một bình diện của một chỉnh thể khái niệm hoặc hành động nào đó".
Như vậy, trong lý thuyết trường nghĩa, một từ được xác định nhờ vào mối quan hệ ngữ
nghĩa của nó với các từ khác trong trường. Còn một từ trong khung nghĩa được được xác định
dựa vào khung nghĩa của từ đó. Nói cách khác, lý thuyết trường nghĩa dựa trên quan hệ ngữ
nghĩa giữa các từ ngữ thuộc trường trong khi lý thuyết khung nghĩa lại dựa trên những hiểu
biết, tri thức nền cần thiết cho việc sử dụng từ ngữ một cách thích hợp.
Lý thuyết mạng từ được khởi xướng đầu tiên bởi George Miller, một nhà tâm lý học
người Mĩ. Sau đó nó được phát triển bởi Christiane Fellbaum. Theo Christiane Christiane
Fellbaum (1998), mạng từ (wordnet) là một cơ sở dữ liệu về từ trong đó các từ được nhóm lại
thành các loạt đồng nghĩa và các loạt đồng nghĩa đó lại được gắn kết nhờ các quan hệ ngữ
nghĩa. Có thể ví mạng từ như một đồ thị rời rạc khổng lồ trong đó mỗi nút là một tập đồng
nghĩa (synset) và mỗi cạnh là một quan hệ ngữ nghĩa giữa các synset. Ví dụ, trong tiếng Anh
các từ “clothes, clothing, garment, dress” tạo thành một synset vì các từ đó tuy khác nhau
nhưng chỉ cùng một khái niệm những thứ mà bạn mặc như áo, váy, quần.... Như vậy, mỗi
synset thường được miêu tả bằng một định nghĩa và các synset liên hệ với nhau bằng các quan
hệ ngữ nghĩa như quan hệ giữa khái niệm cụ thể và tổng quát (hyponymy); quan hệ giữa các
bộ phận và tổng thể (meronymy); quan hệ nguyên nhân…

17


×