Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Đề tài Trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ cảm xúc, thái độ trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.94 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN ĐÌNH MỸ GIANG

TRƯỜNG TỪ VỰNG NGỮ NGHĨA
CHỈ CẢM XÚC, THÁI ĐỘ TRONG SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN ĐÌNH MỸ GIANG

TRƯỜNG TỪ VỰNG NGỮ NGHĨA
CHỈ CẢM XÚC, THÁI ĐỘ TRONG SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG

Chuyên ngành:

LÍ LUẬN NGÔN NGỮ

Mã số:

60.22.02.40


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Việt Hùng

HÀ NỘI, NĂM 2014


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, ngoài nỗ lực của bản thân, chúng tôi đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn và các thầy
cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Vì vậy, chúng tôi xin bày tỏ lòng
cảm ơn chân thành đến:
- Thầy Đỗ Việt Hùng, người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi tận tình
trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn này.
- Các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm nói chung và các thầy cô
bộ môn Ngôn ngữ nói riêng đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện cũng như đóng góp các ý kiến thiết thực để luận văn
này hoàn chỉnh hơn.
Với sự nghiêm túc, sự đam mê, tìm tòi, học hỏi, chúng tôi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của Quý thầy cô.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Học viên thực hiện

Nguyễn Đình Mỹ Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Ý nghĩa của đề tài .............................................................................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 5
7. Bố cục................................................................................................................................ 5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................. 6
1.1 Một số quan niệm về từ ................................................................................................... 6
1.2 Nghĩa của từ ..................................................................................................................... 8
1.3 Sự kết hợp từ .................................................................................................................. 12
1.4 Nét nghĩa ........................................................................................................................ 16
1.5 Trường nghĩa ................................................................................................................. 18
1.5.1 Một số quan niệm về trường nghĩa ........................................................................ 18
1.5.2 Phân loại trường nghĩa ........................................................................................... 21
1.5.2.1 Trường nghĩa ngang ....................................................................................... 22
1.5.2.2 Trường nghĩa biểu vật .................................................................................... 22
1.5.2.3 Trường nghĩa biểu niệm ................................................................................. 24
1.5.2.4 Trường nghĩa liên tưởng ................................................................................. 25
1.6 Phân bổ các từ ngữ trong trường nghĩa và hoạt động của chúng ................................... 26
1.6.1 Phân bổ các từ ngữ trong trường nghĩa ................................................................. 26
1.6.2 Hoạt động của từ ngữ theo quan hệ trường nghĩa .................................................. 27
1.7 Đặc điểm của nhóm từ chỉ tình cảm, cảm xúc trong tiếng Việt..................................... 27
1.7.1 Khái niệm ............................................................................................................... 27
1.7.2 Đặc điểm ngữ pháp ................................................................................................. 29
1.7.3 Đặc điểm ngữ nghĩa................................................................................................ 31
1.8 Vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng ......................................................................... 33
1.8.1 Cuộc đời ................................................................................................................. 33
1.8.2 Sự nghiệp sáng tác .................................................................................................. 34
Chƣơng 2: TRƢỜNG TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA THUỘC NHÓM TỪ ĐỊNH DANH
CHỈ CẢM XÚC TRONG CÁC SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG ........... 36

2.1 Hệ thống từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng............ 36
2.2 Phân loại theo từ loại .................................................................................................... 57
2.2.1 Danh từ - ngữ danh từ ............................................................................................. 58


2.2.2 Động từ - ngữ động từ ............................................................................................ 63
2.3 Phân loại theo ngữ nghĩa................................................................................................ 65
2.3.1 Từ ngữ chỉ tình cảm, thái độ tích cực .................................................................... 66
2.3.2 Từ ngữ chỉ tình cảm, thái độ tiêu cực .................................................................... 67
2.3.3 Từ ngữ chỉ tình cảm, thái độ trung hoà .................................................................. 70
2.4 Từ ngữ trung tâm của trường nghĩa chỉ thái độ, tình cảm trong sáng tác của Nguyễn
Quang Sáng .......................................................................................................................... 71
2.5 Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng ............ 72
2.5.1 Từ diễn tả cảm xúc của con người được dùng cho đối tượng là sự vật ................. 72
2.5.2 Từ diễn tả cảm xúc của con người được dùng để chỉ giọng nói ............................ 73
2.5.3 Từ chỉ cảm xúc con người được dùng để chỉ cho đối tượng mặt .......................... 74
2.5.4 Từ ngữ chỉ cảm xúc được dùng để chỉ cho đôi mắt ............................................... 75
2.5.5 Từ ngữ chỉ trọng lượng được dùng để chỉ cảm xúc con người .............................. 76
2.6 Màu sắc văn hoá thể hiện qua cảm xúc nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Quang
Sáng ..................................................................................................................................... 77
2.7 Cảm xúc, tâm lí con người biểu hiện thông qua phản ứng về mặt sinh học .................. 83
2.8 Gía trị biểu đạt của từ ngữ định danh chỉ cảm xúc, thái độ trong các sáng tác của
Nguyễn Quang Sáng ............................................................................................................ 85
2.9 Tiểu kết .......................................................................................................................... 93
CHƢƠNG 3: TRƢỜNG TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA THUỘC NHÓM TỪ PHI ĐỊNH
DANH CHỈ CẢM XÚC, THÁI ĐỘ TRONG CÁC SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN
QUANG SÁNG .................................................................................................................. 95
3.1 Thán từ ........................................................................................................................... 95
3.1.1 Khái niệm ................................................................................................................ 95
3.1.2 Phân loại ................................................................................................................. 95

3.1.2.1 Thán từ gần nguyên dạng ............................................................................... 95
3.1.2.2 Thán từ không nguyên dạng ........................................................................... 95
3.1.2.3 Từ gọi – đáp ................................................................................................... 96
3.1.3 Vị trí ....................................................................................................................... 96
3.2 Gía trị biểu đạt của trường từ vựng – ngữ nghĩa thuộc nhóm từ phi định danh trong
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng ........................................................................................ 97
3.3 Đặc điểm phong cách ngôn ngữ Nguyễn Quang Sáng ................................................ 102
3.4 Tiểu kết ........................................................................................................................ 107
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 110


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi một ngôn ngữ trên thế giới đều có một khối lượng từ vựng riêng.
Dựa vào hệ thống từ vựng đó, con người tham gia hoạt động giao tiếp và một
số hoạt động khác trong đời sống, trong đó có quá trình sáng tác văn chương.
Một trong những mối quan hệ được các nhà nghiên cứu quan tâm là quan hệ
về nghĩa giữa các đơn vị từ vựng. Việc xác lập và phân tích trường từ vựng
giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giao tiếp cũng như một số loại hình
nghệ thuật khác. Đặc biệt, việc xác lập trường nghĩa ở các tác phẩm văn học
có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu đề tài, nội dung được nói đến
trong tác phẩm. Trường từ vựng – ngữ nghĩa là một vấn đề thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà Ngôn ngữ học trên thế giới và trong nước như
F.Saussare, M. Pokrovxkij, J. Trier, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Bùi
Minh Toán…Song, chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu trường từ
vựng ngữ nghĩa trong các sáng tác văn chương để làm rõ tư tưởng chủ đạo mà
tác giả muốn hướng đến người đọc.
Nguyễn Quang Sáng là tác giả Nam Bộ đặt nhiều tâm huyết vào các sáng
tác diễn tả cuộc sống của con người với những tâm trạng, cảm xúc đời

thường. Vì vậy, việc nghiên cứu trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ cảm xúc trong
sáng tác của ông sẽ giúp ta hiểu được nội dung, tư tưởng, tình cảm mà ông
gửi gắm qua các nhân vật. Từ đó ta sẽ thấy được tâm hồn, cốt cách, tâm lý
con người Việt Nam. Ngoài ra, đề tài còn là tư liệu tham khảo phục vụ cho
quá trình giảng dạy, học tập của giáo viên, học sinh. Bên cạnh đó, đề tài là cơ
sở để các nhà nghiên cứu vận dụng vào một số công trình liên quan.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ cảm xúc trong các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng làm đề tài
luận văn của mình.

1


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lý thuyết về trường từ vựng - ngữ nghĩa được đưa ra bởi hai nhà Ngôn
ngữ người Đức J.Trier và L.Weisgerber. Trước đó đã có những lý thuyết
khẳng định về quan hệ giữa các từ trong một ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, giáo sư Đỗ Hữu Châu là người nghiên cứu sớm và có nhiều
công trình về lý thuyết trường. Định nghĩa trường của ông được rất nhiều
người chấp nhận và sử dụng phổ biến: Trường từ vựng là một tập hợp các đơn
vị từ vựng căn cứ vào một nét đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa.
- Năm 1973, ông có công trình Trường từ vựng và hiện tượng đồng
nghĩa, trái nghĩa.
- Năm 1975, Giáo sư Đỗ Hữu Châu tiếp tục trình bày cụ thể về trường và
việc nghiên cứu từ vựng.
Các công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu đã cung cấp một hệ thống
lý thuyết về trường từ vựng - ngữ nghĩa.
Theo quan niệm của Đỗ Hữu Châu và một số nhà nghiên cứu Việt Nam,
trường từ vựng ngữ nghĩa được chia làm bốn loại căn cứ vào các loại ý nghĩa
của từ bao gồm: Trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm, trường nghĩa
tuyến tính và trường nghĩa liên tưởng.

Các nhà nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết này để nghiên cứu tiếng Việt.
Đặc biệt, trường nghĩa liên tưởng được áp dụng nhiều khi nghiên cứu tác
phẩm văn học. Ví dụ một số công trình tiêu biểu như:
- Năm 1988, Nguyễn Đức Tồn có luận án Trường từ vựng bộ phận cơ
thể người.
- Năm 1974, Đỗ Hữu Châu có bài viết "Trường từ vựng ngữ nghĩa và
việc dùng từ trong tác phẩm hệ thống".

2


- Năm 2002, Nguyễn Đức Tồn xuất bản công trình Tìm hiểu đặc trưng
văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt. Ở chương thứ 8 đã
chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa của trường gọi thực vật.
- Năm 2007, GS. TS. Đỗ Thị Kim Liên có bài báo Trường ngữ nghĩa
biểu hiện quan niệm về nữ giới trong tục ngữ Việt (Đăng trên Tạp chí Ngôn
ngữ và đời sống, số 6 (140) - 2007).
- Năm 2007, Phan Thị Thúy Hằng bảo vệ luận văn Thạc sĩ Trường từ
vựng tên gọi các loại cây trong ca dao của người Việt.
- Năm 2008, Lê Thị Thanh Nga bảo vệ luận văn Thạc sĩ Đặc điểm lớp từ
ngữ thuộc trường nghĩa chỉ vật dụng - biểu tượng tình yêu trong ca dao tình
yêu lứa đôi.
- Năm 2009, TS. Hoàng Anh, Nguyễn Thị Yến có bài báo Trường nghĩa
ẩm thực trong các bài báo viết về bóng đá (Đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số 7 (165) - 2009).
- Năm 2010, Trần Thị Mai có bài báo Trường từ vựng chỉ không gian
trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận (Đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số 1+2 (171+172) - 2010)

Ở các công trình trên lý thuyết trường được vận dụng vào nghiên cứu với

vai trò là cơ sở tập hợp từ để phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác
nhau. Các công trình của tác giả Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thúy Khanh,
Phan Thị Thúy Hằng, Đỗ Thị Kim Liên tập hợp các trường từ để nghiên
cứu về đặc trưng văn hóa. Tác giả Đinh Thị Oanh nghiên cứu theo hướng
ngôn ngữ về mặt ngữ nghĩa nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi các vị từ. Tác
giả Lê Thị Thanh Nga nghiên cứu về mặt đặc điểm của từ ngữ. Tiến sĩ
Hoàng Anh và Lê Thị Yến nghiên cứu trường nghĩa ẩm thực trong các bài
viết về bóng đá để chỉ ra sự sinh động trong cách sử dụng từ ngữ. Bài viết

3


của tác giả Trần Thị Mai áp dụng lý thuyết trường từ vựng ngữ nghĩa để
nghiên cứu về ngôn ngữ thơ.
Có thể nhận thấy rằng việc áp dụng lý thuyết trường từ vựng - ngữ nghĩa
vào việc nghiên cứu tác phẩm của một tác giả cụ thể chỉ mới xuất hiện những
năm gần đây và với số lượng không nhiều.
Với lịch sử nghiên cứu vấn đề trên, có thể khẳng định luận văn của
chúng tôi là công trình đầu tiên áp dụng lý thuyết về trường từ vựng - ngữ
nghĩa vào sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Vậy nên đây là một
công trình nghiên cứu hoàn toàn mới, không trùng lặp và sao chép với bất kỳ
công trình nghiên cứu ngôn ngữ học nào khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Việc nghiên cứu đề tài nhằm xác lập trường từ vựng chỉ cảm xúc trong
các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng, từ đó chỉ ra đặc điểm hoạt động của
nhóm từ này khi tham gia vào giao tiếp. Đồng thời thấy được nét đặc sắc
trong cách sử dụng từ ngữ chỉ tình cảm, cảm xúc của Nguyễn Quang Sáng.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đề ra, chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ sau:

- Sưu tầm, nghiên cứu, tổng hợp các công trình nghiên cứu, các đề tài,
bài viết của những nhà nghiên cứu đi trước để xây dựng phần cơ sở lý thuyết
cho đề tài của chúng tôi.
- Tổng hợp các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng, thống kê các đơn vị từ
vựng thuộc trường nghĩa chỉ cảm xúc trong các sáng tác đó.
- Phân tích, miêu tả để thấy được tần số xuất hiện của các đơn vị từ
vựng, cảm xúc chủ đạo của tác phẩm.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Các từ ngữ chỉ cảm xúc, tình cảm, tâm trạng được sử dụng trong các
sáng tác của Nguyễn Quang Sáng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trường từ vựng chỉ cảm xúc trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng, giá
trị của chúng về mặt ngữ nghĩa và biểu hiện.
5. Ý nghĩa của đề tài
5.1 Ý nghĩa lí luận
Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho quá trình nghiên cứu của các nhà
Ngôn ngữ học và những người quan tâm đến vấn đề trường từ vựng – ngữ nghĩa.
5.2 Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu sẽ được sử dụng phục vụ cho giáo viên trong
việc giảng dạy tác phẩm văn học. Đồng thời, học sinh cũng có thể dựa vào đề
tài để có được những kiến thức cơ bản trong việc xác lập trường từ vựng phục
vụ cho quá trình giao tiếp, làm văn và lĩnh hội tác phẩm văn học. Từ đó, hiểu
được cảm xúc chủ đạo, tư tưởng, tình cảm tác giả gửi gắm qua các sáng tác.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả đồng đại và

một số thủ pháp như: Thống kê, phân loại, phân tích ngữ nghĩa…
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài của chúng tôi
gồm các phần sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Trường từ vựng – ngữ nghĩa thuộc nhóm từ định danh chỉ
cảm xúc trong sáng tác Nguyễn Quang Sáng
Chương 3: Trường từ vựng – ngữ nghĩa thuộc nhóm từ phi định danh
chỉ cảm xúc trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Một số quan niệm về từ
Từ là khái niệm quan trọng đã được bàn luận nhiều trong suốt quá trình
lịch sử của ngôn ngữ học. Cho đến nay, có hàng trăm định nghĩa về từ, song
chưa có định nghĩa nào thoả mãn các nhà nghiên cứu. Bởi lẽ trong khoảng
trên 5000 ngôn ngữ đang được sử dụng trên thế giới, từ được biểu hiện dưới
những hình thái rất đa dạng. Viện sĩ L.V.Sherba đã viết: Trong thực tế, từ là
gì? Thiết nghĩ rằng trong các ngôn ngữ khác nhau, từ sẽ khác nhau. Do đó, tất
sẽ không có khái niệm từ nói chung.
F.de.Saussure nhận xét: “Ngôn ngữ có tính chất kỳ lạ và đáng kinh ngạc
là không có những thực thể mà thoạt nhìn có thể thấy ngay được, thế nhưng
người ta vẫn biết chắc là nó tồn tại và chính sự giáo lưu giữa những thực thể
đó mà làm thành ngôn ngữ”. [23, tr.133]. Đó chính là từ.
Từ có vai trò quan trọng đối với đời sống ngôn ngữ và đời sống con
người. Sự biểu hiện của từ là biểu hiện sự tồn tại của ngôn ngữ. Ngôn ngữ
càng có nhiều từ thì khả năng diễn đạt của ngôn ngữ đó càng đa dạng, càng dễ

dàng trong việc biểu hiện nhận thức và tình cảm của con người. Với vai trò
quan trọng trên, từ được các nhà nghiên cứu quan tâm từ rất sớm.
Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ, đơn vị trung tâm
của toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ, là chất liệu cơ bản dùng để tạo ra các thông
điệp. Trong hệ thống ngôn ngữ, các đơn vị từ vựng không tách biệt rời nhau
mà luôn có những mối quan hệ nhất định về hình thức và cả về ý nghĩa.
Trong lịch sử phát triển, nhiều nhà Ngôn ngữ học đã có những quan
niệm khác nhau về từ tiếng Việt. Họ đều khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của
từ, đều thừa nhận tính chất trung tâm cơ bản của từ trong ngôn ngữ. Thế

6


nhưng để đi đến một định nghĩa thoả đáng về từ thì đa số các nhà nghiên cứu
vẫn cảm thấy khó khăn.
Có nhiều lý do dẫn đến việc khó có thể tìm một định nghĩa về từ có tính
chất phổ quát cho tất cả các ngôn ngữ. Trước hết là tính chất thoạt nhìn không
thể thầy ngay được của từ đã khiến cho việc nhận diện từ thật sự gặp rất nhiều
khó khăn. Việc nhận diện từ khó khăn kéo theo việc định nghĩa về từ cũng
không thể đi đến thống nhất. Lý do thứ hai, từ vựng là một hệ thống lớn và
phức tạp. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới bắt buộc phải có tên gọi ngắn
gọn, cố định, mang tính quy ước chung của cộng đồng. Chúng đã trở thành
đơn vị tinh thần được nhận thức và được sử dụng trong giao tiếp và tư duy.
Bên cạnh đó, từ trong mỗi ngôn ngữ sẽ khác nhau về loại hình, nguồn gốc,
đặc trưng nên việc đưa ra một định nghĩa sẽ không dễ dàng.
Theo Nguyễn Thiện Giáp, hiện nay có trên 300 định nghĩa về từ nhưng
không có định nghĩa nào phản ánh bao quát hết được bản chất của từ trong
mỗi ngôn ngữ.
Từ điển do Asher chủ biên đã định nghĩa: “Từ là một trong hai đơn vị cơ
bản của ngữ pháp kết hợp với nhau để tạo nên các cụm từ, mệnh đề hay tiểu

câu và câu, đôi khi từ được phân biệt như là câu nhỏ nhất có thể có”.
Còn từ điển do W.Bright chủ biên đã cho rằng: “Từ là một đơn vị để tạo
nên các biểu thức trong ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết…Ở một bậc (level)
trừu tượng hơn thì từ là một đơn vị ngữ pháp do các hình vị tạo thành (có thể
tối thiểu là một hình vị) và hành chức (functioning) để tạo nên các cụm từ,
tiểu câu và câu”.
Nguyễn Kim Thản đưa ra một định nghĩa về từ như sau: “Từ là đơn vị cơ
bản của ngôn ngữ, có thể tách ra khỏi các đơn vị khác của lời nói để vận dụng
một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, về nghĩa (từ vựng
hoặc ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp”.

7


Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Từ tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất,
có ý nghĩa, dùng để tạo nên câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một chữ
viết rời”. [11, tr 69]
Trước tình hình có nhiều quan niệm khác nhau về từ như vậy thì việc
đưa ra một định nghĩa về từ cho chính xác và thống nhất là rất khó. Mặt khác
các quan niệm khác nhau về từ trên đây xét ở góc độ nào đó đều đúng bởi thật
sự là chúng đều xuất phát từ những sự kiện quan sát được trong nhiều ngôn
ngữ thuộc về các loại hình khác nhau.
Ở đây chúng tôi không tranh luận đến vấn đề định nghĩa nào về từ là
chính xác và phù hợp nhất. Để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu trong luận
văn này, chúng tôi dựa vào định nghĩa về từ của Đỗ Hữu Châu như sau: Từ
của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến về hình thức ngữ
âm theo các quan hệ hình thái học (như quan hệ về số và giống…) và cú pháp
trong câu, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu
cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, sẵn có đối với
mỗi thành viên của xã hội Việt Nam, lớn nhất trong hệ thống tiếng Việt và

nhỏ nhất để tạo câu.
1.2 Nghĩa của từ
Nghĩa của từ thuộc về bình diện tinh thần nên là một khái niệm khó có
được định nghĩa chính xác. Xung quanh vấn đề nghĩa của từ, có nhiều khái
niệm được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nước ngoài và trong nước đưa ra.
A.I.Smirniski quan niệm: Nghĩa của từ là sự phản ánh hiển nhiên của sự
vật, hiện tượng hay quan hệ trong ý thức (hay là sự cấu tạo tâm lý tương tự về
tính chất hình thành trên sự phản ánh những yếu tố riêng lẻ của thực tế) nằm
trong cấu trúc của từ với tư cách là mặt bên trong của từ.
Trong ngôn ngữ học hiện đại, quan điểm coi nghĩa của từ là chính cái sự
vật, hiện tượng… mà từ biểu thị đã bị phản bác. P.H. Nowell – Smith đã chỉ

8


ra: “Nói rằng từ có ý nghĩa không phải chính là nói từ biểu thị một cái gì đó,
còn nói ý nghĩa là gì thì không phải là nói nó biểu thị cái gì”. Còn L.
Wittgenstein khẳng định: “Gọi vật tương ứng với từ là ý nghĩa thì cách dùng
này của từ ý nghĩa mâu thuẫn với các quy tắc ngôn ngữ. Điều này có nghĩa là
lẫn lộn ý nghĩa của tên gọi với cái mang tên gọi; khi nói ngài NN chết thì
người ta có ý nói người mang tên này đã chết chứ không phải ý nghĩa của tên
gọi đã chết. Mặt khác, trong vốn từ của một ngôn ngữ có nhiều kiểu loại từ
khác nhau và nghĩa của chúng cũng khác nhau. Cách định nghĩa về nghĩa của
từ như nêu trên chỉ mới có thể có vẻ phù hợp với các thực từ (chủ yếu gồm
danh từ, động từ và tính từ…) có nghĩa cụ thể. Còn những từ loại khác như:
đại từ (này, kia, ấy, nọ, sao…), cảm từ (ôi, ối, á…), hư từ (nếu, thì, tuy,
nhưng, với…) thì nghĩa của chúng không lọt vào các định nghĩa như thế”.
Quan niệm nghĩa của từ như một quá trình nhận thức thực tại được nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tán thành. Tuy nhiên, bên cạnh các yếu tố
liên quan đến nhận thức, các nhà khoa học còn bổ sung các yếu tố liên quan

đến quá trình tâm lý. Hoàng Văn Hoành cho rằng: “Nghĩa của từ không phải
chỉ là hệ quả của quá trình nhận thức mà còn là hệ quả của các quá trình có
tính chất tâm lý xã hội, có tính chất lịch sử nữa”.
Trên thực tế, trong lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ có khá nhiều các định
nghĩa về nghĩa của từ. Khó có thể điểm lại một cách đầy đủ và toàn diện về
nghĩa của từ. Ở luận văn này, chúng tôi tiếp thu định nghĩa: “Nghĩa của từ là
toàn bộ nội dung tinh thần xuất hiện trong suy nghĩ của một người bản ngữ
khi người đó tiếp xúc (tạo lập hoặc lĩnh hội) với một hình thức âm thanh ngôn
ngữ nhất định”..
Nội dung tinh thần rất đa dạng và có nhiều thành phần khác nhau. Trong
nội dung đó có những thành phần chung cho cộng đồng và có những thành
phần mang tính cá nhân, phụ thuộc vào kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tiếp
xúc với các sự vật, sự việc, hiện tượng liên quan tới vỏ âm thanh của từ.

9


Chẳng hạn từ lũ, ngoài định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê
chủ biên): Nước lũ dâng cao ở vùng nguồn, dồn vào dòng sông trong một thời
gian tương đối ngắn, do mưa hoặc tuyết tan gây ra thì khi nhắc đến lũ, thường
gợi ra những ý nghĩa như: phá huỷ, thiệt hại, chết chóc… Nếu chỉ công nhận
nghĩa của từ thuộc về phần nội dung định nghĩa trong từ điển thì chúng tôi
nghĩa rằng quan niệm như vậy là hẹp và chỉ mới tập trung vào nghĩa của từ
trong hệ thống, tức còn ở trạng thái tĩnh, chưa đi vào sử dụng. Như vậy, bên
cạnh những nội dung ổn định chung cho cả cộng đồng, gắn với nghĩa trong từ
điển thì ta cũng cần chú ý đến những yếu tố nội dung khác liên quan đến kinh
nghiệm của cá nhân hoặc hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Trong hoạt động, mỗi
khi chúng ta phát ra từ hoặc lĩnh hội từ trong lời nói của người khác thì từ
luôn mang lại những ý nghĩa khác, không ổn định. Các nhà nghiên cứu đi
trước gọi trường hợp này là nghĩa liên hội của từ.

Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm nghĩa của từ không chỉ ở
phần nội dung ổn định, chung cho cộng đồng (gọi là nghĩa hạt nhân) mà còn
cả những phần nội dung xuất hiện trong suy nghĩ của người sử dụng hoặc
người tiếp nhận (phần nghĩa liên hội). Theo quan niệm này, tồn tại từ điển
giải thích nghĩa của từ chung cho cả cộng đồng giải thích phần nghĩa hạt nhân
của từ, nhưng cũng tồn tại những từ điển của cá nhân mỗi người sử dụng, liên
quan đến nghĩa liên hội của từ.
Việc nắm được và phân tích được ý nghĩa liên hội của từ giúp ta tìm ra
những quan niệm, nhận thức của cộng đồng, của thời đại và của chủ thể sáng
tác. Chẳng hạn hình ảnh trầu cau trong tư duy người Việt tượng trưng cho sự
hoà quyện, gắn bó và đi vào văn hoá Việt với ý nghĩa tình duyên. Chính vì
vậy, ta thấy trong lời ăn tiếng nói hàng ngày và trong văn học, hình ảnh trầu
cau xuất hiện với những ý nghĩa liên quan đến hoàn cảnh giao tiếp, văn hoá
cộng đồng và cả cảm quan nghệ thuật của cá nhân sáng tác:

10


Miếng trầu là đầu câu chuyện
Trầu cau trở thành nét văn hoá giao tiếp, trở thành một nghi thức không
thể thiếu trong sinh hoạt của người Việt:
Có trầu thì giở giầu ra
Trước là đãi bạn, sau ta với mình
Trầu cau thể hiện khát vọng, mong muốn về tình yêu đôi lứa và kết tóc
se duyên:
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em vun ké dây trầu một bên
Chừng nào trầu nọ bén lên
Cau kia sai trái lập nên cửa nhà
Trầu cau trở thành đối tượng để nhân vật nói bóng gió về tình cảm của mình:

Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm
Những ví dụ trên cho ta thấy rằng nghĩa của từ còn phụ thuộc vào nhận
thức của thời đại, văn hoá của dân tộc. Bên cạnh đó, nó còn bị chi phối bởi tư
tưởng của tác giả:
Qủa cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Nếu như trầu cau trong ca dao là hình ảnh thiêng liêng gắn liền với
phong tục tập quán thì trầu cau trong thơ Hồ Xuân Hương lại trở thành những
sự vật rất đỗi bình thường, thậm chí là tầm thường: “Qủa cau nho nhỏ, miếng
trầu hôi”. Lúc này hình ảnh trầu cau bị chi phối bởi tư tưởng, tính cách đầy
cá tính của Hồ Xuân Hương, tức nó không còn mang nội dung chung cho cả
cộng đồng mà đã in dấu ấn cá nhân tác giả.

11


1.3 Sự kết hợp từ
Ngôn ngữ là phương tiện phục vụ cho hoạt động giao tiếp. Qúa trình
giao tiếp ấy bao gồm cả giao tiếp bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Dù là
nói hay viết thì các từ sẽ không đứng độc lập, riêng rẽ mà phải kết hợp với
nhau để tạo nên các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn như: cụm từ, câu.
Trong “Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt” (1999, Nxb GD), Bùi
Minh Toán cho rằng: “Khi nói hay viết, đối với từ, ngoài việc lựa chọn từ thì
việc kết hợp các từ thành cụm từ và câu là việc thường xuyên cần tiến hành.
Có kết hợp các từ thì mới tạo thành các cụm từ để diễn đạt được các nội dung
cụ thể hơn và cũng phức tạp hơn; đặc biệt là có kết hợp các từ thì mới tạo
được câu – đơn vị mà bắt đầu từ đó ngôn ngữ mới thực hiện được chức năng

thông báo”. [19, tr. 192]
Như chúng ta đã biết tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, khác
với các ngôn ngữ Ấn – Âu. Do đó, đơn vị cơ sở của ngữ pháp là tiếng. Từ
trong tiếng Việt không thể đồng thời xuất hiện mà phải được sắp xếp theo trật
tự tuyến tính, tức có từ đi trước, có từ đi sau. Đối với ngôn ngữ viết, các từ sẽ
được tách biệt bằng các khoảng trống không gian. Đối với ngôn ngữ nói, từ sẽ
được tách biệt bởi thời gian. Ngoài ra, hư từ và ngữ điệu cũng là các phương
tiện để biểu hiện sự kết hợp của từ.
Trong từ có hai loại ý nghĩa lớn là ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp.
Ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa của riêng từng từ, ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa
mang tính đồng loạt, chung cho nhiều từ. Ý nghĩa ngữ pháp liên quan đến khả
năng kết hợp của từ với những từ khác, cũng như khả năng đảm nhiệm các
chức năng ngữ pháp trong câu.
Tuy có sự phân biệt ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp của từ nhưng
chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ. Chỉ có thể biết được khả năng hoạt động
ngữ pháp của từ khi biết được ý nghĩa từ vựng của từ và ngược lại, nhờ vào

12


hoạt động ngữ pháp của từ trong câu cụ thể, ta có thể xác định được đặc điểm
ý nghĩa ngữ pháp của từ. [8, tr.198]
Khi kết hợp các từ với nhau để tạo nên cụm từ và câu thì giữa chúng
hình thành các mối quan hệ ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp. Vì vậy, khi kết hợp
các từ lại với nhau ta cần thiết lập được quan hệ ý nghĩa hợp lý và quan hệ
ngữ pháp chuẩn của tiếng Việt. [8 , tr.192]
Muốn kết hợp được với nhau, các từ cần phải có sự tương hợp về ý
nghĩa. Sự tương hợp này có thể ở mức độ rất chặt chẽ, lúc đó gần như mỗi từ
chỉ có khả năng kết hợp với một từ duy nhất trong vốn từ vựng chung của
ngôn ngữ. Nếu kết hợp với các từ khác thì giữa chúng không thể hình thành

quan hệ ý nghĩa hoặc quan hệ ý nghĩa không thể chấp nhận được về mặt logic.
Tức là có những từ sử dụng được cho đối tượng này nhưng không thể sử dụng
cho đối tượng khác.
Chẳng hạn: Từ “cười” chỉ có thể kết hợp phía sau từ “miệng” mà không
thể kết hợp với các bộ phận khác trên cơ thể người như: mắt, mũi, tai, tay,
chân…và từ “cườ”i cũng không thể kết hợp với các từ chỉ sự vật khác như:
chó, mèo, xe, bút, sách…
Những từ có khả năng kết hợp hạn chế như vậy là những từ có nghĩa rất
cụ thể, xác định. Nghĩa của từ càng cụ thể, càng xác định thì sự kết hợp với
các từ khác càng hạn chế. Lý giải cho hiện tượng này, Đỗ Việt Hùng cho rằng
chính đặc trưng vị trí của nét nghĩa được hiện thực hoá đã quy định hoạt động
ngữ pháp của từ.
Ví dụ:
Sủa: (hoạt động) (phát ra âm thanh) (của chó)
Hót: (hoạt động) (phát ra âm thanh) (của chim)
Hí: (hoạt động) (phát ra âm thanh) (của ngựa)

13


Qua ví dụ trên ta thấy chính nét nghĩa cuối cùng đã quy định sự kết hợp
của các từ đang nói đến với những từ khác. Đó là lý do giải thích tại sao từ
“sủa , hót” và “hí” không thể kết hợp với bất kỳ từ nào mà cần phải kết hợp
một cách hợp lý và chính xác.
Ở đây chúng tôi không kể đến trường hợp cách kết hợp từ của các tác giả
trong các tác phẩm văn chương hay cách kết hợp từ có chủ ý trong giao tiếp
hàng ngày. Ví dụ như:
Hắn sủa lên mấy tiếng rồi phóng xe đi
Vợ tôi hót cả ngày…
Sự tương hợp về ngữ nghĩa giữa các từ dựa trên mối quan hệ giữa các sự

vật, các đối tượng hay hoạt động, trạng thái, tính chất mà từ gọi tên. Cho nên
khi các từ kết hợp với nhau không phản ánh đúng mối quan hệ thì sự kết hợp
đó là sai và không thể chấp nhận.
Ví dụ:
Trung Quốc hiên ngang đặt giàn khoan Hải Dương 981 lên vùng lãnh
thổ đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Sở dĩ sự kết hợp trên là không thể chấp nhận vì theo Từ điển tiếng Việt
do Hoàng Phê chủ biên thì hiên ngang có nghĩa là: đường hoàng, tự tin, không
chịu cúi đầu khuất phục trước những sự đe doạ. Mặt khác, với nội dung của
câu, việc dùng từ hiên ngang cho Trung Quốc là hoàn toàn không hợp lý.
Trong trường hợp này, cần thay từ “hiên ngang” bằng từ “ngang nhiên” thì
mới phản ánh đúng, khách quan vấn đề.
Với sự phân tích trên, có thể khẳng định rằng sự kết hợp từ có quan hệ
chặt chẽ với sự lựa chọn từ: nếu lựa chọn từ đúng thì sự kết hợp từ được chấp
nhận, nếu chọn không đúng thì kết hợp sai. Tuy nhiên từ trong ngôn ngữ có
thể có nhiều nghĩa, và nghĩa của từ còn có sự chuyển hoá ngay trong quá trình
giao tiếp. Như chúng ta đã khẳng định nghĩa của từ luôn được xét ở hai trạng

14


thái là từ ở trạng thái tĩnh (bình diện hệ thống) và từ ở trạng thái động (hoạt
động). Do đó, có nhiều trường hợp nếu xét theo nghĩa gốc và tách rời khỏi
hoàn cảnh giao tiếp thì sự kết hợp từ đó là sai. Nhưng nếu xét theo nghĩa
chuyển hoá hay đặt trong hoàn cảnh diễn ra giao tiếp thì sự kết hợp đó là có
thể chấp nhận được.
Ví dụ:
Anh ấy tốn bao nhiêu tiền để chạy việc mà vẫn không được
Cậu cưa cô ấy lâu thế mà cô ấy không đổ à?
Nếu chỉ xét nghĩa của từ chạy và cưa ở trạng thái tĩnh thì ta có các định

nghĩa sau:
Chạy: (hoạt động) (người hoặc động vật) (di chuyển thân thể bằng
những bước nhanh)
Cƣa (1): (dụng cụ) (dùng để xẻ, cắt gỗ, kim loại và vật liệu cứng khác)
(lưỡi bằng thép mỏng, có nhiều răng sắc nhọn)
Cƣa (2): (hoạt động) (tác động vào sự vật) (chia sự vật thành nhiều phần)
Dựa vào nghĩa của từ ở trạng thái tĩnh thì sự kết hợp trên hoàn toàn
không thể chấp nhận được. Nhưng khi xét từ ở bình diện hoạt động, tức từ
trong quá trình sử dụng và chuyển nghĩa thì ta thấy các trường hợp trên
nghiễm nhiên được cộng đồng chấp nhận.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng: Sự kết hợp giữa các từ là
dựa trên cơ sở sự tương hợp về nghĩa của các từ và trên cơ sở mối quan hệ
trong thực tế giữa các đối tượng, hoạt động, tính chất…mà từ biểu thị. Do đó,
muốn kết hợp đúng cần có sự lựa chọn các từ thích hợp. Đồng thời, một sự
kết hợp đúng còn phụ thuộc vào sự hiện thực hoá nghĩa của từ (nghĩa nào
trong số các nghĩa của từ nhiều nghĩa được hiện thực hoá trong hoạt động
giao tiếp) và sự chuyển hoá nghĩa của từ (nghĩa chuyển hoá có thể thích hợp
với sự kết hợp mà nghĩa gốc lại không thích hợp)

15


1.4 Nét nghĩa
Vì nét nghĩa không được thể hiện ra bằng vỏ vật chất của từ, chúng được
phân xuất một cách gián tiếp trên cơ sở đối chiếu nghĩa của các từ khác nhau
nên quan niệm về nét nghĩa và cách xác định nét nghĩa chưa có sự thống nhất
giữa các nhà nghiên cứu.
V.G. Gak cho rằng: “Mỗi nét nghĩa là một sự thể hiện trong nhận thức
người bản ngữ những đặc điểm khác nhau tồn tại khách quan cho sự vật hoặc
được môi trường ngôn ngữ gán cho nó, và do đó, nó là khách quan với người

dùng”. Tuy nhiên, sự vật tồn tại với nhiều đặc điểm khác nhau. Vậy, đặc điểm
nào là nét nghĩa, đặc điểm nào không phải là nét nghĩa? Chẳng hạn tính chất
chuyển hoá thành hơi của nước ở một nhiệt độ nhất định có phải là nét nghĩa
của từ nước hay không? Định nghĩa về nét nghĩa của V.G. Gak khó có thể trả
lời được những câu hỏi như vậy.
Khi bàn về nét nghĩa, Hoàng Phê cho rằng nét nghĩa là những yếu tố ngữ
nghĩa chung cho nghĩa của các từ thuộc cùng một nhóm từ hoặc riêng cho
nghĩa của một từ, đối lập với nghĩa của những từ khác trong cùng một nhóm.
Nét nghĩa được diễn đạt bằng từ (hoặc tổ hợp từ). Bản thân mỗi nét nghĩa lại
cũng có thể coi như là nghĩa và cũng có thể phân tích thành những nét nghĩa.
Sự phân tích có thể tiếp tục cho đến khi đạt đến những yếu tố ngữ nghĩa cơ
bản, không còn có thể phân tích được nữa (gọi là những nghĩa vị). Tuy nhiên
tác giả cũng lưu ý rằng: Đó là nói trên lý thuyết chứ trong thực tế, sự phân
tích này vô cùng khó khăn, phức tạp.
Đỗ Hữu Châu trong các công trình nghiên cứu về từ vựng – ngữ nghĩa
tiếng Việt cho rằng: “Chỉ những thuộc tính nào tạo nên sự đồng nhất và đối lập
về mặt ngữ nghĩa giữa các từ thì thuộc tính đó mới trở thành nét nghĩa trong cấu
trúc nghĩa biểu niệm. Do đó, để phát hiện ra nét nghĩa, cần phải tìm ra những nét
nghĩa chung, đồng nhất trong nhiều từ rồi lại đối lập những từ có nét nghĩa

16


chung đó với nhau để tìm ra những nét nghĩa cụ thể hơn, cứ như vậy cho đến khi
chúng ta gặp những nét nghĩa chỉ có riêng trong một từ”. [2, tr. 117]
Quan niệm của Đỗ Hữu Châu rõ hơn so với quan niệm của V. G. Gak.
Nhờ đó, chúng ta có thể dễ dàng tìm được những nét nghĩa của từ.
Theo Đỗ Việt Hùng, ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp. Một trong
những đặc điểm thể hiện sự phức tạp của ngôn ngữ là tính phân đoạn hai bậc.
Kết quả phân đoạn ở bậc một cho các đơn vị có tính hai mặt (vừa có mặt hình

thức, vừa có mặt nội dung), phân đoạn tiếp theo ở bậc hai cho kết quả là các
đơn vị một mặt (hoặc chỉ có mặt hình thức, hoặc chỉ có mặt nội dung).
Từ quan niệm của Đỗ Hữu Châu, Đỗ Việt Hùng đã so sánh các nét nghĩa
trong cấu trúc nghĩa của một từ với mô hình phân loại nghĩa từ vựng trong
một ngôn ngữ theo chủ đề và đi đến định nghĩa về nét nghĩa. Theo đó, giữa
cấu trúc các nét nghĩa trong một từ và mô hình phân loại từ vựng thành các
nhóm từ vựng – ngữ nghĩa có một sự tương ứng rõ rệt.
Để một từ có thể thuộc một nhóm nào đó, nó phải có đặc điểm mà dựa
vào đó, ta có thể xếp nó vào nhóm đó. Đặc điểm này chính là nét nghĩa trong
cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ.
Như vậy, nét nghĩa có thể được định nghĩa là những phần nghĩa thể hiện
thuộc tính sự vật mà từ biểu thị, dựa vào đó mà từ có thể thuộc vào một trong
các nhóm từ vựng – ngữ nghĩa được phân chia theo chủ đề.
Theo đó, từ lưu giữ trong nghĩa của mình những thông tin về các nhóm
từ vựng – ngữ nghĩa ở các cấp độ khác nhau mà nó thuộc vào. Trong đó,
thông tin về mỗi nhóm là một nét nghĩa. Lý tưởng nhất là số lượng nét nghĩa
trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của một từ bằng đúng số nhóm từ vựng – ngữ
nghĩa mà nó thuộc vào [13 ,tr. 66]. Mỗi nét nghĩa sẽ phản ánh một đặc trưng
nhất định của sự vật, hiện tượng trong thế giới được gọi tên và đồng thời mỗi

17


nét nghĩa luôn chiếm một vị trí nhất định trong cấu trúc lời giải nghĩa. Theo
đó, nét nghĩa sẽ có hai đặc trưng là đặc trưng bản chất và đặc trưng vị trí.
Chẳng hạn khi xét từ “máy bay”, ta sẽ có định nghĩa như sau:
Máy bay là phương tiện vận tải hay chiến đấu, bay trên không nhờ động cơ.
Với định nghĩa trên ta thấy một số tính chất, đặc điểm của máy bay được
phân biệt so với các sự vật khác. Ta có thể thấy rõ đặc trưng này khi so sánh
với định nghĩa “xe đạp” như sau:

Xe đạp là xe người đi, có hai hoặc ba bánh, tay lái nối với bánh trước,
dùng sức người đạp cho quay bánh (hoặc hai bánh) sau.
Ngoài đặc trưng bản chất, nét nghĩa còn có đặc trưng vị trí. Mỗi nét
nghĩa phải chiếm một vị trí xác định trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ.
Trật tự của các nét nghĩa thay đổi có thể làm thay đổi nghĩa của từ. Vị trí của
nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu niệm quy định giá trị, tính chất của nét
nghĩa. Nét nghĩa càng cao thì giá trị hệ thống càng lớn, nét nghĩa càng thấp
thì giá trị chức năng càng cao.
1.5 Trƣờng nghĩa
1.5.1 Một số quan niệm về trường nghĩa
Theo “Nhập môn ngôn ngữ học”, từ vựng là tập hợp các từ và đơn vị
tương đương với từ của một ngôn ngữ. Song, từ vựng không phải là một tập
hợp ngẫu nhiên các đơn vị này. Từ vựng là một hệ thống. Do đó, giữa các đơn
vị của hệ thống từ vựng tồn tại những mối quan hệ nhất định. Một trong
những mối quan hệ cơ bản giữa các đơn vị từ vựng là quan hệ về nghĩa. Các
đơn vị từ vựng đồng nhất với nhau về nghĩa tập hợp thành trường nghĩa.
Hoạt động giao tiếp của con người gồm hai quá trình cơ bản là quá trình
tạo lập (sản sinh) và quá trình tiếp nhận (lĩnh hội) diễn ngôn. Để tạp lập diễn
ngôn, người giao tiếp phải biết huy động vốn từ ngữ có liên quan đến hiện
thực được nói tới, trên cơ sở đó, lựa chọn các từ ngữ phản ánh chính xác nhất

18


nội dung cần diễn đạt. Qúa trình huy động từ ngữ để tạo lập diễn ngôn chính
là quá trình xác lập trường nghĩa.
Trong cuốn “Ngữ nghĩa học từ bình diện hệ thống đến hoạt động”, Đỗ
Việt Hùng đã trình bày rõ các quan niệm khác nhau của các nhà Ngôn ngữ
học nước ngoài và trong nước.
Ju. X. Xtepanov là một trong những tác giả người Nga quan tâm đến mối

quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị trong từ vựng. Ông cho rằng trong vốn từ
của một ngôn ngữ có các kiểu nhóm từ có quan hệ chặt lỏng khác nhau, như
loạt đồng nghĩa, loạt trái nghĩa; các nhóm nội dung như nhóm từ tính cách,
nhóm các động từ chuyển động của người…là biểu hiện của một hiện tượng
gọi là trường từ vựng hay trường ngữ nghĩa.
Tuy nhiên, bản thân hiện tượng được gọi là trường như vậy có cách hiểu
khá rộng, tuỳ mỗi tác giả, tuỳ mỗi quan điểm nghiên cứu mà có thể có những
cách xác lập các trường từ vựng khác nhau.
Nhà bác học người Nga M.M. Pokrovxki cho rằng: “Từ và ý nghĩa của
chúng không tồn tại tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng của
chúng ta và độc lập với ý thức của chúng ta thành những nhóm nhất định. Cơ
sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất và trái ngược trực tiếp với
chúng về nghĩa”. Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các từ như vậy
hoặc giống nhau, hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý nghĩa và trong
lịch sử của chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng biết rằng những
từ này được dùng trong tổ hợp cú pháp giống nhau [Đỗ Hữu Châu (1998), cơ
sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD, tr. 243]. Đây là quan niệm vào loại sớm
nhất về trường từ vựng – ngữ nghĩa được nghiên cứu những năm 20 của thế
kỷ XX, bắt nguồn từ những lý thuyết ngôn ngữ học của W. Humboldt và F.
De. Saussure. Sau đó các nhà nghiên cứu khác như G. Ipsen (1924), A. Jolle

19


(1934), W. Porzig (1934)… và đặc biệt là J. Trier (1934) được coi là người đã
mở ra một giai đoạn trong lịch sử ngữ nghĩa học.
J. Trier là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ trường vào ngôn ngữ học.
Song, bản thân Trier không dùng khái niệm trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới
trường khái niệm và trường từ vựng. Theo J. Trier, trường khái niệm là một
hệ thống rộng gồm những khái niệm có quan hệ với nhau, được tổ chức lại

xung quanh một khái niệm trung tâm. Mỗi trường khái niệm được các từ phủ
lên trên, mỗi từ tương ứng với một khái niệm. Ông cho rằng: “Trong ngôn
ngữ, mỗi từ tồn tại trong một trường, giá trị của nó là do quan hệ với các từ
khác trong trường quyết định, rằng trường là những hiện thực ngôn ngữ nằm
giữa từ (riêng lẻ) với toàn bộ từ vựng, trường quan hệ với toàn bộ từ vựng
cũng như quan hệ với trường của mình”. Mặc dù còn có những điểm cần
tranh luận như vấn đề phân biệt giữa ý nghĩa của từ với khái niệm nhưng
những đề xuất của J. Trier thực sự là nền móng quan trọng cho những nghiên
cứu về trường từ vựng – ngữ nghĩa sau này.
L. Weisgerber là một tác giả quan tâm nhiều đến mối quan hệ trường
nghĩa giữa các đơn vị từ vựng. Theo ông, cần phải tính đến các góc nhìn khác
nhau mà tác động giữa chúng sẽ cho kết quả là sự ngôn ngữ hoá một lĩnh vực
nào đó trong cuộc sống.
Các quan niệm của J. Trier và L. Weisgerber đều có những hạn chế nhất
định. Khắc phục những hạn chế dó, W. Porzig đã phân chia trường thành
những nguyên tắc khác. Từ năm 1934, W. Porzig đã đề nghị nguyên tắc liên
tưởng. Theo quan niệm của ông, một từ nào đó xuất hiên thể nào cũng gợi đến
sự tồn tại của những từ khác. Chẳng hạn từ “ăn uống” sẽ gợi đến sự tồn tại
của từ “miệng”, nhưng quan hệ ngược không xảy ra vì miệng không nhất thiết
là phải ăn – uống mà còn thực hiện rất nhiều hoạt động khác như nói,
cười…Dựa trên cơ sở này, từ vựng được chia ra thành các trường nghĩa cơ

20


×