Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

CƠ sở lý LUẬN QUẢN LÝTHỰC HIỆN xã hội hóa GIÁO dục ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG đáp ỨNG mục TIÊU xây DỰNG TRƯỜNG CHUẨN QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.64 KB, 52 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝTHỰC
HIỆN XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU XÂY DỰNG
TRƯỜNG CHUẨN QUỐC GIA

1


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Hoạt động quản lý công tác XHHGD là nội dung quan
trọng trong hoạt động của các trường TPHT hiện nay ở Việt
Nam và trên thế giới. Quá trình XHHGD nếu thành công sẽ tạo
động lực thúc đẩy chất lượng giáo dục nâng cao hơn. Do đó,
hoạt độngXHHGD đã nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước.
- .Các nghiên cứu ở trong nước
Trong thời gian gần đây, việc tham gia của các lực lượng
XH trong XHHGD nói riêng và sự nghiệp giáo dục (GD) nói
chung đã được Đảng và Nhà nước động viên, khuyến khích.
Các tư liệu nghiên cứu đã đề cập rất nhiều sự cần thiết phối hợp
giữa các LLXH tham gia thực hiện XHHGD. Thủ tướng chính
phủ đã ban hành các Nghị định, nghị quyết về chiến lược về
XHHGD trong giai đoạn hiện nay và định hướng tương lai. Bên
cạnh đó, Bộ GD&ĐT cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng
dẫn các trường phổ thông thực hiện các biện pháp tổ chức hoạt
động XHHGD như: Điều lệ tổ chức và hoạt động của HĐGD
các cấp chính quyền địa phương; Hướng dẫn thực hiện Điều lệ
và hoạt động của HĐGD. Có thể thấy, những văn bản này là cơ
2



sở pháp lý để các địa phương tiến hành tổ chức, vận động các tổ
chức kinh tế - xã hội tham gia vào GD. Từ đó, góp phần đẩy
mạnh quá trình XHHGD một cách thiết thực và hiệu quả hơn.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành TW khóa
VIII đã chính thức đề cập đến nội dung công tác XHHGD:
“Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục nhưng vấn đề
quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt các nguồn
đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng, phát triển giáo dục trong
nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội… Phải coi
đầu tư cho phát triển là một trong những hướng chính, tạo điều
kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự phát triển
KT-XH. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự
quản lý của nhà nước”… [20, tr.11, 61]
Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn 2011-2020 tiếp tục
nhấn mạnh “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội
nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa
học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt
chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
3


năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội” [9, tr.4].
Luật Giáo dục sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại điều 13 quy
định “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” và “Nhà nước
ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt

Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư
cho giáo dục”[43, tr.55].
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò
quan trọng của GD&ĐT đồng thời xác định định hướng nâng
cao hiệu quả đầu tư phát triển GD&ĐT. Nghị quyết số 29NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế”[24] đã xác định rõ các quan điểm, mục
tiêu phát triển GD&ĐT trong thời gian tới. Trong đó, Nghị
quyết chú trọng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư
phát triển giáo dục và định hướng các mục tiêu, đối tượng cần
ưu tiên đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đổi mới chính
sách, cơ chế tài chính để huy động sự tham gia đóng góp của xã
4


hội vào phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Qua đó, XHHGD
sẽ góp phần hoàn thành mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay.
Thực hiện các văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước,
các cơ quan liên bộ, các nhà khoa học, các nhà QLGD đã bàn
nhiều về công tác thực hiện XHHGD.Giáo sư Viện sĩ Phạm
Minh Hạc khẳng định: “Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư
tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối chiến lược, một
con đường phát triển giáo dục của nước ta…Sự nghiệp giáo
dục không chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi
người cùng làm giáo dục, nhà nước và xã hội, TW và địa
phương cùng làm giáo dục”[30, tr.15] và trong cuốn “Giáo dục
Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI” tác giả đã khẳng

định: “Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của nhà nước mà
là của toàn xã hội; mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và
xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục”[30,
tr.71].
Nhà nghiên cứu GD Phạm Tất Dong cho rằng: “Trong thực
tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam, khái niệm XHHGD ngày
càng được mở rộng và phong phú hơn. Đây không phải là giải
pháp tình thế nhằm tháo gỡ khó khăn của nước nghèo. Ngay khi
5


chúng ta đạt được mức tăng trưởng nhiều lần so với hiện nay
thì tư tưởng XHHGD vẫn giữ được giá trị chủ đạo cơ bản”[15,
tr.27].
Bên cạnh đó, Các nhà nghiên cứu khác như Võ Tấn Quang,
Nguyễn Minh Phương, GS-TSKH Thái Duy Tuyên, TSKH
Nguyễn Mậu Bành, TS Huy Ất, TS Huy Ngân…có nhiều bài
viết về công tác XHHGD. Viện Khoa học giáo dục nước ta
nhiều năm qua đã tiến hành hệ thống các đề tài nghiên cứu về
XHHGD, đúc kết kinh nghiệm để phát triển lý luận và đề xuất
chính sách nhằm hoàn thiện nhận thức lý luận, ban hành một số
văn bản hướng dẫn các địa phương, các đơn vị giáo dục thực
hiện và xây dựng những đề án về công tác XHHGD.
Thời gian gần đây, dưới sự hướng dẫn của các nhà khoa
học, các thầy cô giáo trường ĐHSP Hà Nội, ĐHSP Thành phố
Hồ Chí Minh, Viện Khoa học GD, nhiều luận văn thạc sĩ, luận
văn tiến sĩ đã đề cập đến xã hội hóa và XHHGD ở nhiều khía
cạnh khác nhau, trong đó có đề cập đến đáp ứng mục tiêu xây
dựng trường chuẩn quốc gia.
Những công trình nghiên cứu trong nước đã chứng minh

được vai trò và quy luật phát triển của nền giáo dục Việt Nam
6


hiện nay là phải tiến hành XHHGD. Việc làm này vừa góp phần
giảm nhẹ ngân sách quốc gia đầu tư cho giáo dục, vừa thúc đẩy
sự tham gia và trách nhiệm của xã hội đối với giáo dục. Từ đó,
xã hội sẽ chung tay góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Việt
Nam. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi kế thừa và
vận dụng vào điều kiện thực tế tại huyện Di Linh (Lâm Đồng).
- Các nghiên cứu ở nước ngoài
Trong khoảng 30 năm cuối của thế kỷ XX và những năm
đầu thế kỷ XXI, quá trình XHHGD đã được chú ý, quan tâm
nghiên cứu ở các nước có nền giáo dục phát triển như Nhật Bản,
Trung Quốc, Hoa Kì…Đối với các nước này, giáo dục là nền
tảng của mọi sự phát triển xã hội. Vì vậy, sự đầu tư cho giáo dục
được nhà nước dành rất nhiều ưu tiên phát triển. Nhiều chương
trình cải cách GD được thực hiện, nhằm đổi mới toàn diện nền
GD, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng với yêu cầu
phát triển và sự thay đổi nhanh chóng trong xu hướng toàn cầu
hóa tri thức. Để thực hiện thành công cải cách giáo dục, chính
phủ các nước ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tập trung
thu hút và tăng cường sự tham gia của các LLXH, các tổ chức
trong và ngoài nước cùng với nhà nước tham gia vào GD nói
chung và giáo dục THPT nói riêng.
7


Sự tham gia của các LLXH như các tổ chức đoàn thể cộng
đồng địa phương, các doanh nghiệp, hội PHHS….vào quá trình

cải cách giáo dục đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Quá trình
này đã phát huy được vai trò của xã hội đối với nền giáo dục tại
địa phương. Qua đó, vai trò của gia đình trong GD được nâng
cao hơn. Mặt khác, sự mở rộng mối quan hệ giữa gia đình, nhà
trường và cộng đồng cũng làm gia tăng trách nhiệm của mọi
người đối với sự nghiệp giáo dục cộng đồng.
Ở Nhật Bản, khi thực hiện XHHGD, nhà nước đưa ra chính
sách “không để trẻ em nào trong gia đình và không để gia đình
nào trong cộng đồng không được GD”. Nhà nước Nhật Bản đã
xây dựng hệ thống chính sách XHH GD như: “Tăng cường và
đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho GD. Hiện nay, nguồn
ngân sách đầu tư cho GD của Nhật Bản chiếm 6,8% GDP. Các
trường tư cũng được nhà nước cấp 10% ngân sách” [26, tr.197].
Ngoài ra, GD còn nhận được đầu tư từ ngân sách địa phương, từ
các doanh nghiệp, công ty, từ đóng góp của người học. Nhật
Bản rất coi trọng việc phát triển nhân lực và bồi dưỡng nhân tài
để bắt kịp nền GD tiên tiến của thế giới
Ở Trung Quốc, từ năm 1985, nhà nước thực hiện việc cải
cách tài chính và đầu tư cho giáo dục. Cơ cấu tài chính cho giáo
8


dục đã có những thay đổi cơ bản từ hệ thống tập trung trên cơ
sở nguồn ngân sách hẹp chuyển sang hệ thống phân cấp trên cơ
sở nguồn ngân sách đa dạng. Cải cách tài chính bao gồm hai
chiến lược chính là phân cấp và đa dạng. Sự đa dạng hóa các
nguồn tài chính gồm việc mở rộng nguồn thu mới của chính phủ
và nguồn ngoài chính phủ. Những nguồn thu mới của chính phủ
bao gồm các khoản thu tăng thêm cho giáo dục. Các nguồn thu
ngoài chính phủ thường do chính các đơn vị giáo dục thu và sử

dụng các nguồn này gồm: đóng góp của xã hội, học phí và
những khoản phí khác cũng như thu nhập từ các hoạt động giáo
dục của các đơn vị giáo dục [26, tr.211-212].
Ở Hoa Kỳ, ngay từ những năm cuối thế kỷ XXI, Hiến pháp
đã quy định việc trưng thu thuế giáo dục, trách nhiệm huy động
ngân sách cho giáo dục là thuộc về ủy bang giáo dục bang, các
quận. “Nhà nước chỉ chi 10%, còn 90% ngân sách giáo dục là
do bang và địa phương đảm trách. Ngoài ra, có khoản 20% các
cơ sở giáo dục do các tập đoàn công nghiệp, công ty, quỹ tư
nhân tài trợ”[26, tr.240-241].
Ngoài ra, một số công trình tiêu biểu khác cũng đã đề cập
đến vai trò của các LLXH trong việc tham gia vào sự nghiệp
phát triển nhà trường như:Tangri, S. và Moles trong cuốn sách
9


“Cha mẹ và cộng đồng”; Tác giả Walberg, H. J và cộng sự
trong cuốn “Nhà trường dựa vào gia đình và cho kết quả”,…
Các công trình này đã đưa ra một số giải pháp quản lý một cách
hiệu quả sự tham gia của các LLXH nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường và kết quả học tập của học sinh. Qua các
nghiên cứu và mô hình tham gia XHHGD của CMHS và cộng
đồng vào GD và một số kinh nghiệm trong biện pháp tổ chức
quản lý hoạt động tham gia XHHGD của nhà trường ở một số
nước trên thế giới, chúng ta có thể nghiên cứu, vận dụng vào
các nhà trường THPT ở Việt Nam hiện nay.
Những công trình nghiên cứu trên đã giúp chúng tôi có một
cách nhìn tổng quan về hiện thực quá trình XHHGD trên thế
giới. Ngày nay, vai trò của xã hội hóa đối với lĩnh vực giáo dục
đang ngày càng giữ vai trò quan trọng hơn. Vì thế, các công

trình trên là cơ sở để chúng tôi nhận định, đánh giá về thực
trạng hoạt động XHHGD tại địa phương. Từ đó, đề xuất những
biện pháp quản lý hiệu quả đối với hoạt động XHHGD tại
trường THPT ở Di Linh (Lâm Đồng).
- Một số khái niệm
- Quản lý
10


Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính
chất xã hội của lao động. Tùy theo quan điểm và cách tiếp cận
thực tế mà có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quản lý:
Các Mác định nghĩa rằng“Bất cứ lao động xã hội hay cộng
đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều
cần ở chừng mực nhất định đến sự quản lý. Quản lý là xác lập
sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình thành những
chức năng chung, xuất hiện trong toàn bộ cơ chế sản xuất, khác
với sự vận động của bộ phận riêng lẻ của nó” [10, tr.480]. Như
vậy, quản lý là hoạt động đặc thù nhằm đưa hoạt động của một
tổ chức, một cơ chế sản xuất nhằm đạt được mục tiêu phát triển
chung của nó. Ngày nay, khái niệm quản lý được mở rộng dưới
nhiều góc độ khác nhau như:
Quản lý là một hoạt động của chủ thể quản lý đối với một
đơn vị, cơ quan nhất định. Hoạt động của chủ thể quản lý là
nghệ thuật lãnh đạo, cách tác động lên đối tượng quản lý để
thực hiện mục tiêu chiến lược của đơn vị. Có thể nói, quản lý
giữ vai trò quan trọng đối với với quá trình tồn tại và và phát
triển của bất kì một tổ chức, cơ quan, đơn vị sự nghiệp nào. Xét
về bản chất, “hoạt động quản lý gồm hai quá trình tích hợp vào
nhau, quá trình “quản” gồm sự coi sóc giữ gìn để duy trì tổ chức

11


ở trạng thái ổn định, quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp,
đổi mới đưa hệ vào thế phát triển. Như vậy, quản lý chính là
hoạt động tạo ra sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của tổ
chức đến một trạng thái mới có chất lượng cao hơn”[3, tr.31].
Đồng quan điểm này, Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ
Lộc cho rằng: “Quản lý làquá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các hoạt động (Chứcnăng) kế hoạch hóa, tổ
chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [14, tr.9]. Như vậy, hoạt
động quản lý là sự phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực
hiện mục tiêu của tổ chức. Quản lý có các chức năng cơ bản như
kế hoạch hóa những hoạt động của đơn vị, tổ chức chỉ đạo thực
hiện và kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được để thực hiện mục
tiêu của nhà quản lý. Về nguyên tắc, nhà quản lý phải dựa vào
những quy định pháp lý, hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có những
kế hoạch, biện pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu ổn định và
phát triển của đơn vị mình quản lý.
Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là quá trình dựa
vào các quy luật khách quan vốn có của hệ thống để tác động
đến hệ thống nhằm chuyển hệ thống đó sang một trạng thái
mới” [41, tr.363]; còn tác giả Trần Kiểm thì cho rằng: “Quản lý
là tác động có hướng đích của chủ thể quản lý, dựa trên nhận
12


thức những quy luật khách quan của hệ quản lý đến các quá
trình đang diễn ra nhằm đạt mục đích đặt ra một cách tối ưu”
[35, tr.9]. Các nhà khoa học đều đồng quan điểm về vai trò của

nhà quản lý là phải đưa ra những biện pháp hữu hiệu để đạt
được kết quả phát triển tốt nhất cho đơn vị mình. Nhà quản lý
phải dựa vào những điều kiện khách quan nhưng quy định của
nhà nước, điều kiện cụ thể của đơn vị và những nhân tố chủ
quan như khả năng chuyên môn của người lãnh đạo, trình độ tổ
chức của đơn vị để có những chủ trương, biện pháp hợp lý
nhằm đạt kết quả tốt nhất mục tiêu đề ra của đơn vị. Hoạt động
quản lý là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa cơ quan, đơn vị phát
triển một cách tối ưu nhất.
Từ những quan điểm trên, chúng ta rút ra kết luận rằng
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức thông qua công
cụ và phương pháp quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
tiềm năng, các cơ hội của tổ chức đó để đạt được mục tiêu đặt
ra.
1.2.2. Giáo dục

13


Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt chỉ có ở xã hội loài
người. Giáo dục xuất hiện, phát triển gắn bó cùng với sự xuất
hiện và phát triển của loài người. Giáo dục là biện pháp để rèn
luyện, đào tạo ra một con người hữu ích cho xã hội. Theo nhà
Triết học Immanuel Kant thì: “Con người chỉ có thể trở thành
người thông qua giáo dục. Con người không gì khác hơn là
những gì được giáo dục tạo nên” và “Con người là gì hay vận
mệnh của con người ra sao, theo nghĩa đạo đức là thiện hay ác,
là do chính con người làm lấy, cả bây giờ và trong quá

khứ”[40]. Theo góc độ này, giáo dục giữ vai trò là yếu tố quan
trọng trong quá trình hình thành và phát triển của con người.
Giáo dục chỉ là biện pháp còn tính cách con người là do tự bản
thân mỗi người quyết định.
Ngày nay, đời sống vật chất và tinh thần của con người
ngày càng được nâng cao hơn. Giáo dục đã trở thành một hoạt
động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao. Giáo dục ngày
càng hoàn thiện với kế hoạch, nội dung và phương pháp đào tạo
hiện đại. Hoạt động giáo dục cũng diễn ra theo một nhịp độ
khẩn trương và đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển
nhanh chóng xã hội loài người. Xã hội càng phát triển, kinh
nghiệm con người ngày càng tăng nhanh thì giáo dục càng có
14


vai trò giúp thế hệ trẻ thích ứng kịp với những làn sóng phát
triển của loài người [47, tr.1]. Giáo dục đang giữ vai trò quan
trọng đối với sự phát triển xã hội và con người của mỗi một
quốc gia, dân tộc trên thế giới.
- Xã hội hóa giáo dục
XHHGD chính là chủ trương, biện pháp biến công việc của
nhà trường thành công việc chung của toàn xã hội để thu hút
mọi thành phần, thành viên trong xã hội tích cực tham gia vào
hoạt động GD thế hệ trẻ tùy theo chức năng, điều kiện của mình
[12]. Theo Điều 12, Luật giáo dục 2005, “Phát triển giáo dục,
xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn
dân; thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình
thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ
chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ
chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp

giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục,
xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn”[37]. Như
vậy, theo Luật Giáo dục, xã hội hóa giáo dục là quá trình toàn
Đảng, toàn dân cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển của giáo
dục. Mục tiêu quan trọng của XHHGD là đưa giáo dục gắn với
xã hội, với cộng đồng; giáo dục phục vụ mục tiêu xã hội, phục
15


vụ cộng đồng. Giáo dục là bộ phận không thể tách rời của hệ
thống xã hội. Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là động
lực phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành
TW Đảng khóa VII cũng nêu rõ “Xã hội hóa giáo dục là huy
động toàn xã hội làm GD, động viên các tầng lớp nhân dân góp
sức xây dựng nền GD dân chủ dưới sự quản lý của nhà nước,
để mọi người đều có cơ hội được học hành và phát huy khả
năng sáng tạo của mình, không phân biệt tuổi tác, trình độ và
giới tính”[18]. Như vậy, bản chất XHHGD là xây dựng một nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm bớt
được gánh nặng ngân sách đầu tư cho giáo dục của nhà nước.
Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, đảm bảo mọi người dân đều
được tham gia học hành và phát huy khả năng sáng tạo của
mình.
Ngoài ra, Nghị quyết 90-CP của Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 21/8/1997 đã xác định Nội dung của XHHGD là:
“1- Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội
theo nhiều hình thức; vận động toàn dân, trước hết là những
người trong độ tuổi lao động, thực hiện học tập suốt đời để làm
16



việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, làm
cho xã hội ta trở thành một xã hội học tập.
2- Tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các đoàn thể quần chúng, các
doanh nghiệp...đối với sự nghiệp giáo dục.
3- Nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân
đối với giáo dục nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ
thống giáo dục để phục vụ tốt việc học tập của nhân dân”[11].
Như vậy, theo Nghị quyết 90-CP, XHHGD là vận động và
tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào
sự phát triển các sự nghiệp GD nhằm từng bước nâng cao mức
hưởng thụ về GD và sự phát triển về thể chất và tinh thần của
nhân dân. Nghị quyết cũng quy định trách nhiệm của nhân dân
và các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các
đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp...đối với sự nghiệp giáo
dục. Sự tham gia của tất cả các tầng lớp vào giáo dục là góp
phần thực hiện thành công XHHGD.
Như vậy, XHHGD là quá trình đưa sự nghiệp giáo dục
thành sự nghiệp của toàn dân. Đối với người học, XHHGD là
đưa giáo dục đến với mọi công dân, mọi người đều có quyền
17


tham gia học tập. Người học vừa là đối tượng được hưởng thụ
một nền giáo dục tốt nhất, vừa là chủ thể tham gia vào quá trình
quản lý giáo dục và xây dựng chương trình học tập. Đối với phụ
huynh, họ có quyền lựa chọn môi trường giáo dục tốt nhất cho
con em mình. Đồng thời, phụ huynh cũng tham gia vào quản lý

hiệu quả giáo dục của nhà trường nhằm phát triển tốt nhất năng
lực của con em mình. Đối với nhà trường, XHHGD sẽ góp phần
nâng cao điều kiện cơ sở đào tạo, chương trình giảng dạy sao
cho phù hợp nhất với hoàn cảnh địa phương. Nhà trường có
điều kiện để nâng cao chất lượng đào tạo. Giáo viên có điều
kiện lựa chọn môi trường giảng dạy như: công lập, dân lập, tư
thục…, lựa chọn hình thức đào tạo chính quy, tại chức, từ xa…
Có thể thấy, XHHGD sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu học tập,
giảng dạy của toàn dân nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả nền
giáo dục nước nhà.
- Quản lý xã hội hóa giáo dục
Hoạt động XHHGD gồm nhiều biện pháp khác nhau nhưng
cùng mục tiêu là xây dựng xã hội học tập và phát triển sự
nghiệp giáo dục toàn dân, giảm nhẹ gánh nặng ngân sách cho
nhà nước về đầu tư giáo dục. Nghị quyết 90-CP cũng quy định
các biện pháp XHHGD là:
18


1- Bên cạnh việc củng cố các trường công lập giữ vai trò
chủ đạo, lấy đó làm nòng cốt, cần mở ra nhiều hình thức giáo
dục, phát triển các loại hình trường ngoài công lập, tạo cơ hội
cho mọi người nâng cao trình độ, tiếp cận được những kiến thức
mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật để vận dụng trong công việc vào
đời sống hàng ngày.
2- Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội
để phát triển giáo dục. Cùng với việc tăng thêm và sử dụng có
hiệu quả ngân sách nhà nước cần cải tiến chế độ học phí, huy
động thêm sự đóng góp của cha mẹ học sinh và của các tổ chức
sản xuất, kinh doanh.

3- Phân bố hợp lý mạng lưới giáo dục theo vùng địa lý kinh
tế, theo nhu cầu và khả năng phát triển của địa phương.Định rõ
trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của Uỷ ban nhân dân địa
phương đối với giáo dục và đào tạo trên địa bàn, quyền tự chủ
và trách nhiệm của các trường đào tạo do Trung ương quản lý.
4- Tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, hợp tác giáo
dục với nước ngoài để tăng thêm nguồn lực phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo.Cho phép một số trường đại học hoặc các tổ

19


chức giáo dục nước ngoài, người Việt Nam sống ở nước ngoài
được mở trường tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam[11].
Như vậy, nội dung hoạt động XHHGD được Đảng, Nhà
nước đề cập hết sức phong phú, đa dạng như từ việc huy động
các lực lượng xã hội bao gồm vật lực, tài lực…; tham gia vào
quá trình đa dạng hoá các loại hình trường, lớp, các loại hình
học tập; huy động các lực lượng xã hội tham gia xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh và quản lý giáo dục có hiệu quả.
Quá trình này thể hiện tính chất dân chủ và bình đẳng của nền
giáo dục Việt Nam. Sự liên kết chặt chẽ giữa: Nhà trường – gia
đình – xã hội, làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị – xã
hội, các tổ chức kinh tế các doanh nghiệp và mọi cá nhân trong
xã hội nhận thức và tổ chức thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
mình trong sự nghiệp phát triển giáo dục và quản lý giáo dục là
nhân tố quyết định đến sự thành công của XHHGD.
Ngoài ra, chính phủ cũng ban hành nhiều Nghị định, Nghị
quyết nhằm hướng dẫn thực hiện hiệu quả các hoạt động
XHHGD như:


20


Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích
xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;
Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP cho phù hợp với tình hình
thực tiễn.
Quyết định số 404/QĐ-TTg, ngày 20-3-2014, về phê duyệt
Đề án hỗ trợ phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục khu vực khu
công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2020.
Nghị định số 73/2012/NĐ-CP quy định về hợp tác, đầu tư
của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục...
Nghị quyết số 77/NQ-CP, ngày 24-10-2014, về thí điểm đổi
mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công
lập giai đoạn 2014-2017.
Như vậy, hoạt động XHHGD là thu hút đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo được thực hiện theo các hình
thức khác nhau, như công nhận văn bằng, thành lập cơ sở giáo
dục, đào tạo theo hình thức liên doanh nhằm tạo ra sự đang
dạng về hình thức, phong phú về loại hình đào tạo ở Việt Nam.

21


Sự xuất hiện các loại hình trường ngoài công lập đã giảm áp lực
cho các địa phương có nhu cầu cao về trường lớp, đáp ứng quy
mô học sinh tăng nhanh, đặc biệt là ở các thành phố, như Hà

Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hải Phòng.
Do đó, quản lý XHHGD là sự quản lý, điều tiết của các cơ
quan quản lý giáo dục đối với quá trình thực hiện tất cả biện
phápnhằm huy động mọi nguồn lực của xã hội để thực hiện mục
tiêu chung là xây dựng xã hội học tập, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục quốc dân. Quan trọng hơn, quản lý hoạt động
XHHGD là biến quá trình quản lý của nhà nước thành quá trình
tự quản lý ở các địa phương nhằm đưa sự nghiệp phát triển giáo
dục thành nhiệm vụ chung của toàn xã hội.
- Quản lý thực hiện xã hội hóa giáo dục ở trường trung
học phổ thông trong xây dựng trường chuẩn quốc
gia
Trường trung học phổ thông
Trường trung học phổ thông (THPT) là một loại hình đào
tạo chính quy ở Việt Nam dành cho lứa tuổi từ 15 đến 18, không
kể những trường hợp đặc biệt, gồm các khối học: lớp 10, 11,12.
Sau khi tốt nghiệp hệ giáo dục này, học sinh phải trải qua kỳ thi
22


THPT quốc gia để có đủ điều kiện xét tuyển vào các trường cao
đẳng, đại học. Người đứng đầu, chịu trách nhiệm quản lý trường
THPT được gọi là “hiệu trưởng”. Theo Luật Giáo dục 2005,
“Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động
của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm,
công nhận”[37]. Ở các địa phương, Trường THPT chịu sự quản
lý trực tiếp của Sở GD &ĐT các tỉnh, thành phố và hoạt động
theo điều lệ trường THPT do Bộ GD&ĐT ban hành.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông theo Khoản 1, Điều 27,
Luật Giáo dục 2005 là: “giúp học sinh phát triển toàn diện về

đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”[37].

Mục tiêu xây dựng trường chuẩn quốc gia

23


Xây dựng trường chuẩn quốc gia là một trong những mục
tiêu chiến lược của các nhà trường hiện nay nhằm đáp ứng yêu
cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa các cơ sở giáo dục theo tinh thần
các chủ trương, Nghị quyết về giáo dục của Đảng và Nhà nước.
Theo Thông tư Số 47/2012/TT-BGDĐT về ban hành quy chế
công nhận trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông
và trường phổ thông có nhiều cấp học đạt chuẩn quốc gia thì
Trường THPT đạt tiêu chuẩn quốc gia khi đảm đảo được 5 tiêu
chí cơ bản là:
1- Tổ chức và quản lý nhà trường;
2 - Cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên;
3 - Chất lượng giáo dục;
4 - Tài chính, cơ sở vật chất và thiết bị dạy học;
5 - Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Huy động
hợp lý và có hiệu quả sự tham gia của gia đình và cộng đồng
vào các hoạt động giáo dục, tăng cường điều kiện cơ sở vật
chất, thiết bị để nâng cao hiệu quả giáo dục của nhà trường[7].
Như vậy, một trường THPT muốn được công nhận đạt

chuẩn quốc gia thì phải đảm bảo được rất nhiều các yếu tố. Vì
24


vậy, để nâng cấp các trường THPT đạt chuẩn quốc gia, chúng ta
phải huy động tối đa các nguồn lực xã hội đóng góp để xây
dựng cơ sở vật chất (CSVC) và từng bước nâng cao chất lượng
GD nhà trường nhằm đáp ứng các tiêu chí trong Quy chế công
nhận trường học đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học do Bộ GD
&ĐT ban hành.
Quản lý thực hiện XHHGD trong xây dựng trường THPT
đạt chuẩn quốc gia
Quản lý việc thực hiện XHHGD trong xây dựng trường
THPT đạt chuẩn quốc gia là quá trình tác động có chủ đích của
nhà QLGD đến các LLXH nhằm huy động toàn XH tham gia
cộng tác, phối hợp với nhà trường trong việc đầu tư xây dựng
các điều kiện thiết yếu đáp ứng các tiêu chuẩn công nhận trường
THPT đạt chuẩn quốc gia.
- Hoạt động xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ
thông
- Mục tiêu của xã hội hóa giáo dục
Mục tiêu cơ bản của XHHGD được khẳng định tại nghị
quyết TW 4 khóa VII và nghị quyết TW 2 khóa VIII rằng:

25


×