Cơ sở lý luận về Bảo Hiểm Xã Hội và tài chính Bảo Hiểm Xã Hội
1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1.Khái niệm, bản chất, vai trò của Bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời và phát triển từ khi cuộc cách mạng công
nghiệp xuất hiện ở Châu âu. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), BHXH là sự
bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt
các biện pháp cộng đồng để đối phó với những khó khăn về kinh tế - xã hội do
bị ngừng hoặc giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao
động, tuổi già, chết đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia
đình đông con. BHXH là một nội dung lớn nhất và ổn định nhất của an sinh xã
hội.
Trong bất cứ xã hội nào có nền kinh tế thị trường, nhu cầu BHXH luôn
luôn là yêu cầu thiết yếu của cuộc sống của cán bộ, công chức, quân nhân và
người lao động (sau đây gọi tắt là người lao động). Ở hầu hết các nước trên
thế giới, dưới các hình thức khác nhau, BHXH đã ra đời và phát triển hàng
trăm năm nay, từ tự phát đến tự giác, từ tự nguyện đến bắt buộc, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, tùy theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng
quốc gia. Đến giữa thế kỷ 20, BHXH đã được thừa nhận trong bản Tuyên ngôn
nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948.
Trong bản Tuyên ngôn có đoạn viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành
viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thỏa mãn
các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của
con người...”. Năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra Công ước số
102 về chế độ BHXH để khuyến cáo các nước thành viên Liên hiệp quốc thực
hiện.
Theo quy định của tổ chức ILO, BHXH có 9 chế độ trợ cấp:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp hưu trí
- Trợ cấp tử tuất
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp tàn tật (mất sức lao động)
Ngày nay, BHXH đã phát triển rộng khắp các nước trên thế giới với các
hình thức phong phú đa dạng nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao
động và gia đình họ khi gặp các rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao
động góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Ở nước ta, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, chỉ có công nhân viên
chức và lực lượng vũ trang mới là đối tượng tham gia BHXH, Nhà nước đảm
bảo đối tượng này những trợ cấp khác nhau bằng tiền hoặc hiện vật. Nguồn
chi trả BHXH do ngân sách Nhà nước cấp trên cơ sở đóng góp của các xí
nghiệp và của Nhà nước, người lao động không phải trực tiếp đóng góp.
Chuyển sang cơ chế thị trường, người lao động trong mọi thành phần
kinh tế đều có quyền tham gia BHXH. Khi đó BHXH không phải chỉ có sự đảm
bảo, sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với công nhân viên chức mà là sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của mọi người lao động khi
họ giảm hoặc mất khả năng lao động.
Theo Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày
26/1/1995 của Chính phủ quy định chế độ BHXH hiện hành, bao gồm các chế
độ sau:
- Chế độ trợ cấp ốm đau
- Chế độ trợ cấp thai sản
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động
- Chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp
- Chế độ trợ cấp hưu trí
- Chế độ trợ cấp tử tuất
Ngoài ra, theo Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 21/3/2001 thì BHXH còn thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức
khỏe cho người lao động tham gia BHXH.
1.1.1.2.Bản chất BHXH, phân biệt BHXH và bảo hiểm thương mại
BHXH là một hệ thống các chế độ trợ cấp nhằm góp phần thay thế thu
nhập (tiền lương hoặc tiền công) của người lao động khi gặp phải những
trường hợp rủi ro bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí hoặc tử tuất để đảm
bảo cuộc sống của người lao động và gia đình họ bằng cách hình thành một
quỹ tài chính để trợ cấp do các bên liên quan đến việc sử dụng lao động và bản
thân người lao động đóng góp.
BHXH ra đời là yêu cầu khách quan đối với người lao động và xã hội:
Xét từ phía người lao động, trong quá trình lao động sản xuất, kinh
doanh, người lao động luôn gặp phải những trường hợp rủi ro khách quan
như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu... làm cho họ
bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, giảm hoặc mất nguồn thu
nhập từ tiền lương, tiền công để đảm bảo cuộc sống; hoặc người lao động bị
chết mà con cái ở tuổi vị thành niên, bố mẹ già yếu mất nơi nương tựa. Vì thế
để có nguồn tài chính thay thế cho thu nhập từ tiền lương, tiền công nhằm ổn
định cuộc sống cho bản thân và gia đình người lao động khi gặp rủi ro hoặc
già yếu tất yếu khách quan phải tạo lập quỹ BHXH.
Xét từ phía xã hội, quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lực lượng lao
động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ trong quá trình sản
xuất công tác họ còn phải làm nhiệm vụ người mẹ sinh đẻ, nuôi con, chăm sóc
con lúc ốm đau... Trong thời gian thai sản, nuôi con nhỏ, chăm sóc con lúc ốm
đau họ phải nghỉ lao động nên mất nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Để đảm bảo nguồn tài chính cho các nhu cầu đó tất yếu khách quan phải tạo
lập quỹ BHXH thích hợp.
Mặt khác, do sự vận động của các quy luật nội tại của nền kinh tế thị
trường đặc biệt là quy luật cạnh tranh nên trong quá trình sản xuất kinh
doanh, một số doanh nghiệp gặp phải rủi ro khách quan hoặc chủ quan dẫn
đến sản xuất kinh doanh đình trệ, phá sản, người lao động có thể bị thất
nghiệp, mất thu nhập không đảm bảo cuộc sống, ảnh hưởng tới sự phát triển
kinh tế, đời sống, trật tự, an ninh xã hội. Vì thế để đảm bảo nền kinh tế-xã hội
phát triển cân bằng, ổn định, bền vững, cuộc sống của người lao động ổn định
trước những rủi ro khách quan Nhà nước phải có những biện pháp. Một trong
những biện pháp đó là tạo dựng quỹ BHXH. Nhà nước có thể thông qua phân
phối lại Ngân sách Nhà nước để đóng góp một phần vào quỹ BHXH hoặc Nhà
nước bắt buộc các doanh nghiệp cũng phải tham gia đóng BHXH. Số tiền các
doanh nghiệp đóng BHXH được hạch toán vào giá thành sản phẩm và được
người tiêu dùng chấp nhận thông qua việc chấp nhận giá sản phẩm. Chính vì
tính chất xã hội, tính chất cộng đồng này nên quỹ bảo hiểm cho người lao động
mới có tên là quỹ BHXH. Thực chất người sử dụng lao động nộp phí vào quỹ
BHXH là nộp thay cho người tiêu dùng sản phẩm để đảm bảo an toàn cho xã
hội. Người lao động được hưởng các chế độ BHXH không phải chỉ do chính bản
thân người lao động đóng góp theo quy định mà cả chủ sử dụng lao động và
Nhà nước cũng góp phần.
Tuy nhiên BHXH cũng là một loại hình bảo hiểm tham gia hoạt động
trong nền kinh tế thị trường, giữa BHXH và bảo hiểm thương mại có nhiều
điểm giống và khác nhau, nhưng có một số điểm giống và khác nhau cơ bản đó
là:
Giống nhau: BHXH và bảo hiểm thương mại đều hoạt động theo nguyên
tắc lấy số đông bù cho số ít. Nghĩa là số đông người tham gia đóng bảo hiểm để
bảo hiểm cho số ít người không may bị rủi ro. Nguồn hình thành quỹ BHXH và
bảo hiểm thương mại chủ yếu do các đối tượng tham gia BHXH đóng góp.
Khác nhau: Hoạt động của BHXH là những hoạt động không vì mục đích
lợi nhuận mà vì an sinh xã hội. Thu của BHXH dùng để chi trả cho các chế độ
BHXH. Nếu thu không đủ chi, Ngân sách Nhà nước trợ cấp. Hầu hết các nước
trên thế giới, Ngân sách Nhà nước đều cấp bù cho quỹ BHXH một khối lượng
rất lớn như: Đan mạch Nhà nước cấp hỗ trợ 81%, Ai len là 66%..., ở nước ta,
theo chính sách BHXH hiện hành, người lao động và chủ sử dụng lao động
đóng vào quỹ BHXH 20% tiền lương. Trong quãng thời gian người lao động
nghỉ hưu, quỹ BHXH chỉ đủ chi trả cho 8 năm, từ năm thứ 9 Ngân sách Nhà
nước cấp bù.
Nhưng mục đích của loại hình bảo hiểm thương mại là lợi nhuận. Các
hoạt động bảo hiểm thương mại được thực hiện theo Luật Công ty và Luật
doanh nghiệp, phải hạch toán kinh doanh, phải đóng thuế cho Nhà nước và
nếu thua lỗ không được Nhà nước cấp bù. Đó là những điểm khác nhau cơ bản
giữa BHXH và các loại bảo hiểm thương mại.
1.1.1.3. Vai trò của BHXH:
Hoạt động BHXH là loại hoạt động dịch vụ công mang tính xã hội cao lấy
hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động của BHXH có vai trò hết
sức quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị xã hội.
-BHXH tạo ra mạng lưới an toàn xã hội cho những đối tượng tham gia
BHXH, góp phần ổn định an ninh chính trị xã hội. Trong cuộc sống hoạt động
của con người, họ luôn phải đối mặt với những rủi ro như ốm đau, tai nạn, tuổi
già... làm giảm khả năng lao động dẫn đến tình trạng thu nhập thấp hoặc mất
khả năng lao động, dưới hình thức huy động các nguồn vốn đóng góp từ người
lao động, chủ sử dụng lao động, Nhà nước BHXH trợ cấp và khắc phục những
khó khăn về kinh tế cho người lao động. Nếu không có nguồn tài chính đảm
bảo cho người lao động khi mất thu nhập thì họ có thể đi vào con đường xấu
của tệ nạn xã hội. Tệ nạn đó sẽ làm cho xã hội trở nên rối ren, nền kinh tế-chính
trị-xã hội mất ổn định. Trên giác độ đó BHXH góp phần tạo lập hệ thống an
toàn chính trị-xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội.
-BHXH góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất. Hoạt động mạnh mẽ và
rộng khắp của BHXH giúp người lao động yên tâm làm việc, tạo tâm lý ổn định
thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, khả năng lao động cao của người lao động. Sự
an tâm làm việc góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó tạo
thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội.
-BHXH làm tăng sự gắn bó mật thiết giữa người lao động, chủ sử dụng
lao động và Nhà nước. Khi chủ sử dụng lao động thực hiện trách nhiệm đóng
góp BHXH để người lao động được hưởng các chế độ BHXH thì họ đã tạo được
sự tin tưởng của người lao động đối với chủ sử dụng lao động, khuyến khích
người lao động toàn tâm toàn ý, phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình công tác, gắn
bó lâu dài với chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó nếu trong quá trình sản xuất,
người lao động gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn... họ không thể tham gia sản
xuất được doanh nghiệp vẫn phải trả thu nhập cho người lao động, nhưng sản
xuất của doanh nghiệp bị đình trệ. Điều này là một gánh nặng tài chính đối với
doanh nghiệp, lợi ích của doanh nghiệp bị đe dọa nếu không có BHXH đứng ra
gánh chịu cho họ. Thông qua việc tổ chức, duy trì hoạt động BHXH, Nhà nước
đã đảm bảo cho mọi người, mọi tổ chức, mọi đơn vị bình đẳng, công bằng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần đảm
bảo cho ổn định kinh tế chính trị xã hội.
-BHXH góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế.
Trong quá trình hoạt động, BHXH thực hiện thu các khoản đóng góp và giải
quyết các chế độ cho người lao động. Với nguyên tắc hoạt động lấy số đông bù
cho số ít, trong những khoảng thời gian nhất định quỹ BHXH tạm thời có
những khoản tiền nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội góp phần
tăng trưởng quỹ và tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất
nước.
-BHXH thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao động.
Biểu hiện cụ thể là thực hiện tái phân phối thu nhập giữa những người lao
động có thu nhập cao với những người lao động có thu nhập thấp, giữa những
người lao động đang lao động với những người lao động đang nghỉ việc vì
nhiều lý do khác nhau qua đó BHXH đã trở thành một công cụ quan trọng
trong việc tái phân phối thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH,
thực hiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì và bảo vệ công bằng xã
hội.
1.1.2. Một số nội dung về tài chính BHXH
1.1.2.1.Bản chất tài chính BHXH, phân biệt quỹ BHXH và Ngân sách nhà
nước
Để hiểu rõ bản chất tài chính của BHXH ta tìm hiểu tài chính BHXH và
quỹ BHXH.
Ti chớnh c c trng bi s vn ng c lp tng i ca tin t
vi chc nng phng tin thanh toỏn v phng tin ct tr trong quỏ trỡnh
to lp hay s dng cỏc qu tin t i din cho nhng sc mua nht nh
cỏc ch th kinh t-xó hi. Ti chớnh phn ỏnh tng hp cỏc mi quan h kinh
t trong phõn phi cỏc ngun lc ti chớnh thụng qua to lp hay s dng cỏc
qu tin t nhm ỏp ng yờu cu tớch lu hay tiờu dựng ca cỏc ch th (phỏp
nhõn hay th nhõn) trong xó hi.
Ti chớnh BHXH l thut ng thuc phm trự ti chớnh, l mt mt khõu
trong h thng ti chớnh quc gia (khõu ti chớnh bo him gm cỏc mt khõu:
ti chớnh BHXH v ti chớnh bo him thng mi) tham gia vo quỏ trỡnh
phõn phi, s dng cỏc ngun ti chớnh nhm m bo n nh cuc sng ca
ngi lao ng khi gp ri ro, gúp phn phỏt trin kinh t xó hi ca t nc.
Chỳng ta cú th thy rừ qua s sau:
ngân sách nhà nƯớC
tài chính
doanh
nghiệp
thị trƯờng
tài chính
tín
dụng
bảo
hiểm
tài chính hộ
gia đình và tổ
chứC xã hội
Qu BHXH l mt thut ng ch ni dung vt cht ca ti chớnh BHXH,
nú ch s lng bng tin nhiu hay ớt, c hỡnh thnh t s úng gúp ca cỏc
bờn tham gia BHXH v c dựng chi tr cỏc ch BHXH cho ngi lao
ng theo quy nh.
V mt lý lun, hỡnh thnh mt khõu ti chớnh phi xut phỏt t cỏc lý
do:
-Mỗi khâu tài chính phải là một quỹ tiền tệ được tạo lập và sử dụng cho
một mục đích nhất định.
-Mỗi khâu tài chính phải gắn với một chủ thể cụ thể.
-Các quan hệ tài chính xếp vào một khâu tài chính nếu hoạt động tài
chính có cùng tính chất, đặc điểm, vai trò và đồng nhất về các hình thức; quan
hệ tài chính phù hợp với mục đích sử dụng của tiền tệ.
Như vậy, tài chính BHXH và quỹ BHXH là hai thuật ngữ khác nhau
nhưng lại có nhiều nội dung đồng nghĩa với nhau nên trên thực tế nói đến tài
chính BHXH thì thực chất cũng là nói đến các mối quan hệ trong sự tạo lập và
sử dụng quỹ BHXH. Vì thế để hiểu bản chất của quỹ BHXH cũng như hiểu bản
chất của tài chính BHXH phải đi sâu phân tích các mối quan hệ kinh tế-xã hội
phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ bao gồm nhiều nội dung, mỗi nội dung
được hình thành từ một chế độ, chính sách cụ thể. Để phân tích bản chất tài
chính BHXH trước hết phải phân loại nội dung quỹ BHXH theo các tiêu thức. Có
nhiều cách phân loại nội dung quỹ BHXH, mỗi tiêu thức phân loại lại có những
ý nghĩa nhất định. Để nghiên cứu bản chất tài chính BHXH nên tiêu thức phân
loại nội dung của quỹ BHXH chủ yếu phân theo nguồn hình thành và nội dung
chi của quỹ vì trong các nội dung kinh tế-xã hội của quỹ BHXH thì thu và chi là
những nội dung chủ yếu của quỹ.
Nguồn hình thành quỹ BHXH (thu của quỹ BHXH)
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó có hai nguồn chính
là nguồn đóng góp của các đối tượng thuộc diện bắt buộc (gọi tắt là nguồn bắt
buộc) theo quy định và nguồn đóng góp của các đối tượng tự nguyện (gọi tắt
là nguồn tự nguyện). Về mặt hình thức, hai nguồn này tuy có khác nhau về
phạm vi, đối tượng và mức độ đóng góp, song nội dung kinh tế-xã hội lại tương
đối đồng nhất với nhau ở những điểm sau:
-Cả hai nguồn này đều có chung một mục đích là hình thành quỹ BHXH
để chi trả cho các chế độ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành do các bên tham
gia đóng góp, là quỹ tài chính trung gian độc lập với ngân sách nhà nước.
-Mức thu BHXH từ hai nguồn này và cơ chế chi trả cho các chế độ BHXH
đều do Nhà nước quy định. Quỹ BHXH được hạch toán độc lập theo nguyên tắc
có thu mới có chi, thu trước chi sau vì vậy quỹ BHXH vừa mang nội dung kinh
tế vừa mang nội dung xã hội rất đậm nét. Quỹ BHXH luôn luôn phải được bảo
tồn và phát triển để đảm bảo đủ lượng tiền tệ cần thiết chi trả cho các chế độ
BHXH đúng thời gian, đúng đối tượng và đủ số lượng. Phần quỹ tạm thời nhàn
rỗi được phép đầu tư phát triển và các hoạt động đầu tư này đều theo quy
định của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh.
Như vậy, dù quỹ BHXH được hình thành từ nguồn bắt buộc hay tự
nguyện và mục đích chi trả cho các chế độ chính sách BHXH nào thì đều có
chung những nội dung kinh tế-xã hội nêu trên.
Chi của quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành để chi cho các chế độ BHXH theo nguyên tắc
có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy quỹ BHXH chỉ chi cho các chế độ
trong phạm vi nguồn thu của BHXH.
Hiện nay BHXH nước ta đang áp dụng cho năm chế độ. Cả năm chế độ
này đều có nguồn thu để chi trả trong đó thu 15% để chi trả cho hai chế độ là
hưu trí và tử tuất, thu 5% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp.
Năm chế độ cụ thể mà quỹ BHXH Việt nam chi trả là:
Các chế độ hưu trí, tử tuất (thường gọi là các chế độ dài hạn):
Chế độ trợ cấp hưu trí có được khi người lao động đủ thời gian tham gia
BHXH và đủ tuổi đời thì được hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng. Trường hợp
người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi đời thì được hưởng trợ cấp
BHXH một lần.
Chế độ trợ cấp tử tuất gồm tiền mai táng phí cho thân nhân của đối
tượng khi đối tượng tham gia BHXH bị chết, tiền trợ cấp tuất hàng tháng được
chi trả cho thân nhân đối tượng hoặc giao tiền trợ cấp một lần cho gia đình họ
(nếu không có người hưởng định xuất hàng tháng).
Chế độ trợ cấp hưu trí và tử tuất bắt nguồn từ việc bảo hiểm nguồn thu
nhập cho người lao động khi đã già yếu, hết tuổi lao động, mất sức lao động
vĩnh viễn và qua đời mà bất kỳ người lao động nào cũng phải trải qua. Trách
nghiệm đóng bảo hiểm hưu trí, tử tuất thuộc về người lao động và người sử
dụng lao động vì khi còn khoẻ, người lao động làm việc cho người sử dụng lao
động thì khi về già, người sử dụng lao động phải có một phần trách nhiệm bảo
đảm cuộc sống cho họ. Việc tiến hành bảo hiểm hưu trí và tử tuất nếu không có
tổ chức bảo hiểm bắt buộc của xã hội, của Nhà nước thì bản thân người lao
động cũng phải tìm một hình thức nào đó để tự lo cho mình nhằm đảm bảo ổn
định cuộc sống lúc già yếu, lúc qua đời.
Đặc điểm của bảo hiểm hưu trí và tử tuất là nó thực hiện sau quá trình
lao động, quan hệ phân phối có tính chất hoàn trả, lợi ích được hưởng tương
ứng với nghĩa vụ đóng góp. Bản chất kinh tế-xã hội của quỹ BHXH chi cho chế
độ hưu trí và tử tuất phản ánh quan hệ kinh tế (quan hệ lợi ích) giữa người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động và người sử
dụng lao động đóng bảo hiểm hưu trí, tử tuất nhằm mục đích đảm bảo lâu dài,
ổn định cuộc sống cho bản thân người lao động và gia đình họ khi già yếu
không có khoản thu nhập từ lao động. Mức hưởng trợ cấp hưu trí phụ thuộc
vào mức đóng góp và thời gian đóng phí bảo hiểm ít hay nhiều còn thời gian
hưởng hưu trí là không có giới hạn, hưởng đến khi chết mà tuổi thọ của từng
người lao động lại khác nhau nên tính hoàn trả không đồng đều, cùng thời
gian đóng như nhau nhưng người nào sống lâu hơn thì được hưởng hưu trí
nhiều hơn, thậm chí hưởng nhiều hơn cả mức đóng góp. Phần hưởng nhiều
hơn đó được quỹ BHXH đảm bảo, đó chính là tính chất xã hội, tính cộng đồng
của BHXH.
Chế độ hưu trí và tử tuất thường được gọi là chế độ dài hạn vì từ khi
người lao động tham gia bảo hiểm đến khi nghỉ hưu được hưởng chế độ hưu
trí phải trải qua một thời gian dài 30 năm. Số dư của quỹ BHXH thực chất là số
tiền ứng trước của người lao động và người sử dụng lao động cho mục đích
bảo hiểm hưu trí. Trong suốt 30 năm đó, quỹ vẫn thuộc sở hữu của người lao
động có tham gia đóng góp.
Như vậy ta có thể thấy điều kiện tồn tại và phát triển của quỹ BHXH chi
cho chế độ hưu trí và tử tuất là:
-Muốn được hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí và tử tuất thì người lao
động, người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Quyền
lợi được hưởng bảo hiểm tương ứng với mức đóng góp và thời gian đóng góp
bảo hiểm của từng người lao động.
-Số dư tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH thuộc về sở hữu của người lao
động, có tính chất dài hạn nên có thể đầu tư phát triển kinh tế-xã hội nhằm
bảo toàn, phát triển quỹ và nó phải được tồn tích mà không được sử dụng vào
mục đích khác.
-Mức đóng góp bảo hiểm hưu trí, tử tuất phải được cơ cấu vào tiền
lương, tiền công và được hạch toán vào giá thành sản phẩm để tạo nguồn tài
chính cho người lao động và người sử dụng lao động đóng góp phí bảo hiểm.
-Phải có cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm đến từng người lao động thuộc các
đối tượng khác nhau để tạo điều kiện cho người lao động thuộc mọi thành
phần kinh tế đều được quyền tham gia bảo hiểm hưu trí và tử tuất phù hợp với
khả năng của họ.