Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

CƠ sở lý LUẬN về PHÁT TRIỂN đội NGŨ GIÁO VIÊN ở các TRƯỜNG THPT đáp ỨNG yêu cầu CHƯƠNG TRÌNH GIÁO dục PHỔ THÔNG mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.26 KB, 49 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT
TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở
CÁC TRƯỜNG THPT ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CHƯƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC PHỔ THÔNG MỚI


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới
Hội nghị UNESCO tổ chức tại Nepal vào năm 1998 về
tổ chức quản lý nhà trường đã khẳng định:“Xây dựng, bồi
dưỡng ĐNGV là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục”.
“Tại Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục
như: M.I.Kônđacốp, P.V. Khuđominxki…đã rất quan tâm tới
việc nâng cao chất lượng dạy học thông qua các biện pháp
quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao chất lượng dạy học phải
có ĐNGV có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng kết qủa toàn
bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ
chức đúng đắn và hợp lý công tác quản lý bồi dưỡng, phát
triển đội ngũ”[29].
Và hầu hết các nước trên thế giới quan tâm, đầu tư cho
công tác xây dựng, bồi dưỡng và phát triển ĐNGV và CBQL
giáo dục.
Tại Việt Nam
Đảng ta đã rất coi trọng người thầy giáo. Trong nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII, Đảng ta khẳng định:“Giáo


viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được
xã hội tôn vinh. Giáo viên là khâu then chốt để thực hiện
chiến lược phát triển giáo dục và phải đặc biệt chăm lo đào


tạo, bồi dưỡng, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên cũng như đội
ngũ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và
năng lực chuyên môn nghiệp vụ”[13]. Chỉ thị số 40/CT-TW
ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí
giáo dục đã đề ra:“Mục tiêu của chiến lược phát triển giáo
dục là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục
được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng
bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông
qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả
sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị đã đề ra 6 nhiệm
vụ cho toàn Đảng cũng như toàn ngành Giáo dục, trong đó có
nhiệm vụ “Tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo,
cán bộ quản lí giáo dục để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đảm bảo số lượng và cân đối về cơ cấu; nâng cao trình độ


chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ
quản lí giáo dục”[14].
Luật Giáo dục nước CHXHCN Việt Nam năm 2005 đã
nêu:“Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất
lượng giáo dục”[24].
Một số luận văn trong nước đã nghiên cứu mà tác giả đã
tìm hiểu:
“Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường
Trung học phổ thông huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay. Luận văn thạc

sĩ của Nguyễn Văn Thạo, 2011”[26].
“Phát triển đội ngũ giáo viên trường Trung học phổ
thông ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang trong bối cảnh đổi
mới giáo dục. Luận văn thạc sĩ của Phan Thị Cẩm My,
2015”[25].
“Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên tại Trung tâm giáo
dục thường xuyên huyện Krôngpắc, tỉnh Đắklắk. Luận văn
thạc sĩ của Lê Thị Minh Trinh, 2015”[29].


“Quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trường Trung học
phổ thông A Hải Hậu tỉnh Nam Định trong bối cảnh hiên nay.
Luận văn thạc sĩ của Lê Văn Trường, 2015”[30].
“Quản lý bồi dưỡng giáo viên trung học phổ thông
huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng theo chuẩn nghề nghiệp.
Luận văn thạc sĩ của Lưu Văn Hanh, 2016”[16].
…………….
Từ những luận văn có liên quan đã tham khảo và kiến
thức đã được học, tác giả tìm ra hướng mới phù hợp với
chương trình thạc sĩ theo định hướng nghiên cứu để làm luận
văn.
Các khái niệm liên quan
Đội ngũ, Đội ngũ giáo viên, Đội ngũ giáo viên THPT
Có một số quan điểm cho rằng, đội ngũ“Đó là một tổ
chức gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng: Đội ngũ
chỉnh tề”. Theo lý luận về khoa học quản lý thì đây là một đội
công tác, trong đó các cá nhân kết hợp với nhau, thường
xuyên trau dồi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau để đạt được muc
đích nào đó.



Từ điển tiếng Việt (1999) thì “Đội ngũ là tập hợp gồm
một số đông người cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc nghề
nghiệp, hợp thành lực lượng hoạt động trong hệ thống (tổ
chức) và cùng chung một mục đích nhất định”[28].
“Giáo viên trường trung học là người làm nhiệm vụ
giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, gồm: Hiệu trưởng, Phó
Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (bí thư, phó bí thư hoặc trợ
lý thanh niên, cố vấn Đoàn), giáo viên làm tổng phụ trách Đội
Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (đối với trường trung
học có cấp tiểu học hoặc cấp THCS), giáo viên làm công tác
tư vấn cho học sinh”[24].
Theo tác giả Virgil K.Row land:“Đội ngũ giáo viên là
những chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, họ nắm vững tri
thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào và có khả
năng cống hiến toàn bộ sức lực và tài năng của họ đối với
giáo dục”.
Tác giả nhận định như sau“ĐNGV là tập hợp một số
người làm công tác giảng dạy và giáo dục trong các nhà
trường phổ thông có quy định về trình độ chuyên môn”.


ĐNGV THPT là tập hợp những những người làm nhiệm
vụ giảng dạy ở trường trung học phổ thông có trình độ chuyên
môn theo quy định của cấp THPT.
Phát triển, phát triển giáo viên, phát triển đội ngũ giáo
viên, phát triển đội ngũ giáo viên THPT
“Theo David C.Korten, phát triển là một tiến trình qua
đó các thành viên của xã hội tăng được những khả năng của

cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lí các
nguồn lực, tạo ra những kết quả bền vững…nhằm cải thiện
cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của họ”[12].
“Theo Warren - Piper và Glatter (1977), phát triển giáo
viên là thúc đẩy một loạt động cơ có hệ thống, thỏa mãn hứng
thú, ý chí nguyện vọng và nhu cầu của cá nhân để phát triển
sự nghiệp của họ, đồng thời đáp ứng nhu cầu tương lai của tổ
chức”. Mặt khác, theo Riches C.(1997) có đổi mới quan
điểm phát triển giáo viên,“Cách tiếp cận quản lí nguồn nhân
lực là nói về việc cải thiện hoạt động và hiệu quả công việc,
dù những điều này khó xác định đến mấy; phải thừa nhận
rằng con người trong một tổ chức là bộ phận quan trọng nhất
để làm mọi việc. Con người cũng cần được quản lí để phát


huy tối đa hoạt động của chính bản thân và tổ chức của họ.
Và giá trị cần được quản lí. Phớt lờ họ hay đối xử với họ như
những quân tốt đen trên một bàn cờ của một tổ chức là không
có đạo đức, không tự do và cũng không hỗ trợ cho hoạt động
của trường”[21].
Phát triển ĐNGV là làm cho ĐNGV đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng và đồng bộ về cơ cấu để giảng dạy.
Phát triển ĐNGV THPT là làm cho ĐNGV đủ về số
lượng, đảm bảo về chất lượng và đồng bộ về cơ cấu để giảng
dạy cấp THPT.
Chương trình giáo dục phổ thông mới và yêu cầu đặt
ra cho giáo viên THPT, đội ngũ giáo viên THPT và phát
triển đội ngũ giáo viên THPT
Ngày 19/01/2018, Bộ GDĐT đã công bố dự thảo các
chương trình môn học của chương trình GDPT mới.

Chương trình giáo dục phổ thông mới
- Vì sao phải đổi mới chương trình GDPT?
Chương trình GDPT hiện hành được ban hành theo Nghị
quyết số 40/2000/QH10 ngày 09/12/2000 của Quốc hội nước


CHXHCN Việt Nam. Chương trình hiện hành là một bước
tiến so với các chương trình GDPT trước đó và đã hoàn thành
tốt nhiệm vụ lịch sử của một giai đoạn khá dài của đất nước.
Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Nước ta đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước
vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tuy
nhiên, những thành tựu về kinh tế của nước ta chưa vững
chắc, chất lượng nguồn nhân lực và sức cạnh tranh của nền
kinh tế chưa cao, môi trường văn hoá còn tồn tại nhiều hạn
chế, chưa hội đủ các nhân tố để phát triển nhanh và bền vững.
Cũng trong 30 năm qua, thế giới chứng kiến những biến
đổi sâu sắc về mọi mặt. Các cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ ba và lần thứ tư nối tiếp nhau ra đời, kinh tế tri thức phát
triển mạnh đem lại cơ hội phát triển vượt bậc, đồng thời cũng
đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc gia, nhất
là các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Mặt khác,
những biến đổi về khí hậu, tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái và những biến động
về chính trị, xã hội cũng đặt ra những thách thức có tính toàn
cầu. Để bảo đảm phát triển bền vững, nhiều quốc gia đã


không ngừng đổi mới chương trình GDPT nói riêng, giáo dục

đào tạo nói chung để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hoá vững chắc
và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên
nhiên và xã hội. Đổi mới giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp
thiết và xu thế mang tính toàn cầu.
Do vậy, GDPT nước ta cũng cần đổi mới để đáp ứng
những đòi hỏi của thực tế và bắt kịp xu thế chung của nhân
loại.
- Quan điểm xây dựng chương trình giáo dục phổ thông
mới
“Chương trình GDPT mới được xây dựng dựa trên
những quan điểm về chương trình GDPT và việc xây dựng,
phát triển chương trình GDPT như sau:
*Căn cứ xây dựng chương trình GDPT mới
Chương trình GDPT mới được xây dựng dựa trên những
căn cứ sau:


Căn cứ pháp lí: quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện
GDĐT.
Căn cứ lí luận: những tiến bộ của thời đại về khoa học công nghệ và xã hội; đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam,
các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của
nhân loại; thành tựu nghiên cứu về khoa học giáo dục và kinh
nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển năng lực
của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Căn cứ thực tiễn: nhu cầu phát triển của đất nước; kinh
nghiệm xây dựng và thực hiện các chương trình GDPT đã có
của Việt Nam.
*Vai trò của chương trình GDPT mới

Chương trình GDPT mới là văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước được ban hành theo quy định của Luật Giáo
dục và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan để điều
chỉnh hành vi của các cơ quan nhà nước, các cơ sở giáo dục,
cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên, học sinh và các tổ chức, cá
nhân khác trong lĩnh vực GDPT; làm căn cứ để tổ chức công
tác giáo dục, quản lí và giám sát chất lượng GDPT.


Định hướng của chương trình GDPT mới
Mục tiêu giáo dục: bảo đảm phát triển phẩm chất và
năng lực người học.
Nội dung giáo dục: giáo dục những kiến thức cơ bản,
thiết thực, hiện đại; hài hòa đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực
hành, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong học tập
và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở
các lớp học trên.
Phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục: áp
dụng các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy
tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương
pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và
phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó.
*Tính hệ thống của chương trình GDPT mới
Chương trình GDPT mới bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa
các lớp học, cấp học với nhau.
Chương trình GDPT mới bảo đảm liên thông với chương
trình GD mầm non, chương trình GD nghề nghiệp và chương
trình GD đại học.



*Tính mở của chương trình GDPT mới
Chương trình bảo đảm định hướng thống nhất và
những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh
toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm
cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung
một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục
phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa
phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt
động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.
Chương trình chỉ quy định những nguyên tắc, định
hướng chung về yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực
của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và
phương pháp đánh giá kết quả giáo dục, không quy định quá
chi tiết, để tạo điều kiện cho tác giả sách giáo khoa và giáo
viên phát huy tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện chương
trình.
Chương trình bảo đảm tính ổn định và khả năng phát
triển trong quá trình thực hiện cho phù hợp với tiến bộ khoa
học - công nghệ và yêu cầu của thực tế”[8].
Nội dung cơ bản của chương trình GDPT mới


*Những điểm mới của chương trình GDPT mới gồm
Chương trình GDPT mới so với chương trình hiện hành có
những điểm mới sau:
1/ Một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa;
2/ 9 năm học cơ bản, 3 năm giáo dục nghề nghiệp;
3/ Trung học phổ thông có 5 môn bắt buộc;
4/ Xuất hiện môn học mới đó là môn trải nghiệm ở tiểu
học, từ trung học cơ sở và trung học phổ thông là trải nghiệm

hướng nghiệp;
5/ Bậc tiểu học học 2 buổi/ngày;
6/ Ngữ văn chỉ còn 6 tác phẩm bắt buộc;
7/ Môn toán cắt giảm kiến thức đánh đố, lắt léo;
8/ Tin học là môn quan trọng.
Yêu cầu cần đạt về phẩm chất
Khái niệm phẩm chất, trong tiếng Việt, phẩm chất được
hiểu là “cái làm nên giá trị của người hay vật”. Tâm lí học
phân biệt phẩm chất tâm lí - “những đặc điểm thuộc tính tâm


lí, nói lên mặt đức (theo nghĩa rộng) của một nhân cách” với
phẩm chất trí tuệ - “những đặc điểm bảo đảm cho hoạt động
nhận thức của một người đạt kết quả tốt, bao gồm những
phẩm chất của tri giác (óc quan sát), của trí nhớ (nhớ nhanh,
chính xác,…), của tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ và chú ý.
Trí thông minh là hiệu qủa tổng hợp của phẩm chất trí tuệ”.
“Chương trình GDPT mới cần hình thành và phát triển
cho học sinh 5 phẩm chất chủ yếu sau: yêu nước, nhân ái, chăm
chỉ, trung thực, trách nhiệm”[8].
Yêu cầu cần đạt về năng lực
+ Khái niệm năng lực
Các nhà giáo dục học nêu ra nhiều định nghĩa khác nhau
về năng lực (competency):
Năng lực là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những
yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể”. Định nghĩa này
nêu được đặc trưng quan trọng nhất để nhận diện năng lực là
hiệu quả, nhưng chưa làm rõ được cấu trúc và địa chỉ tồn tại
của năng lực.



Năng lực là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có
hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của HS nhằm giải quyết
những vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm,
có sự phê phán để đi đến giải pháp”. Định nghĩa này cũng nói
tới sự đóng góp của những yếu tố sẵn có ở mỗi cá nhân vào
việc phát triển năng lực của bản thân.
Năng lực là “khả năng hành động, thành công và tiến bộ
dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn
lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống”.
“Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, có 3 năng
lực chung và 7 năng lực riêng được hình thành cho học sinh
qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục gồm: năng lực
tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo; những năng lực chuyên môn được
hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và
hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực
tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công
nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.


Yêu cầu “phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng
lực” là sự tiếp nối truyền thống xây dựng con người toàn diện
có đức có tài, vừa hồng vừa chuyên của dân tộc.
*Kế hoạch dạy học: gồm nội dung giáo dục; phương
pháp giáo dục và đánh giá kết qủa giáo dục:
+ Nội dung giáo dục bao gồm các môn học và hoạt
động giáo dục bắt buộc như Ngữ văn; Toán; Ngoại ngữ 1;
Giáo dục thể chất; Giáo dục quốc phòng-an ninh; Hoạt động
trải nghiệm; Nội dung giáo dục của địa phương.

+ Các môn học được lựa chọn theo định hướng nghề
nghiệp: Nhóm môn Khoa học xã hội: Lịch sử, Địa lí, Giáo
dục kinh tế và pháp luật; Nhóm môn Khoa học tự nhiên: Vật
lí, Hoá học, Sinh học; Nhóm môn Công nghệ và Nghệ thuật:
Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật.
Với mỗi chương trình môn học yêu cầu đảm bảo các yếu
tố: đặc điểm môn học, quan điểm xây dựng chương trình,
mục tiêu chương trình, nội dung giáo dục, phương pháp giáo
dục, đánh giá kết qủa giáo dục, điều kiện thực hiện chương
trình.


*Ngoài ra chương trình GDPT mới còn có nội dung
mới như dạy học phân hóa, dạy học tích hợp; giáo dục
hướng nghiệp; giáo dục STEM, trong đó:
“Dạy học phân hóa: trong giai đoạn giáo dục cơ bản,
chương trình GDPT mới một mặt thực hiện giáo dục toàn diện
và tích hợp, mặt khác, thiết kế một số môn học và hoạt động
giáo dục theo các học phần, chủ đề, tạo điều kiện cho học sinh
lựa chọn những học phần hoặc chủ đề phù hợp với sở thích và
năng lực của bản thân. Trong giai đoạn giáo dục định hướng
nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học và hoạt động giáo dục
bắt buộc, học sinh được lựa chọn những môn học, học phần
và chuyên đề phù hợp với sở thích, năng lực và định hướng
nghề nghiệp của mình”[8].
“Dạy học tích hợp là định hướng dạy học giúp học sinh
phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các
vấn đề trong học tập và trong đời sống, qua đó phát triển được
năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề. Tính

tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố
có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực, nhiều môn học để


giải quyết có hiệu quả một vấn đề và thường đạt được nhiều
mục tiêu khác nhau”[8].
“Giáo dục hướng nghiệp bao gồm toàn bộ các hoạt động
của nhà trường phối hợp với gia đình và xã hội nhằm cung
cấp tri thức về nghề nghiệp và thị trường lao động cho học
sinh, giúp học sinh tự đánh giá sở trường, nguyện vọng, quan
niệm về giá trị và điều kiện của bản thân, từ đó lựa chọn định
hướng nghề nghiệp phù hợp và có ý thức chuẩn bị cho việc
thực hiện sự lựa chọn đó”[8].
“Giáo dục STEM : STEM là thuật ngữ viết tắt của các
từ

Science

(Khoa

học),

Technology(Công

nghệ),

Engineering(Kỹ thuật) và Mathematics (Toán học); là thuật
ngữ rút gọn được sử dụng khi bàn đến các chính sách phát
triển về Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học của Mĩ.
Thuật ngữ này lần đầu tiên được giới thiệu bởi Quỹ Khoa học

Mĩ (NSF) vào năm 2001. Vai trò của giáo dục STEM trong
chương trình GDPT mới thể hiện ở những điểm sau: chương
trình GDPT mới có đầy đủ các môn học STEM; chương trình
GDPT mới cải thiện rõ rệt vị trí của giáo dục tin học và giáo
dục công nghệ. Điều này không chỉ thể hiện rõ tư tưởng giáo
dục STEM mà còn là sự điều chỉnh kịp thời của GDPT trước


yêu cầu công nghệ mới; Yêu cầu dạy học tích hợp và đổi mới
phương pháp giáo dục của chương trình GDPT mới tạo điều
kiện tổ chức các chủ đề STEM trong chương trình môn học và
hoạt động giáo dục, góp phần phát triển năng lực vận dụng
kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn cho học
sinh; Tính mở của chương trình GDPT mới cho phép một số
nội dung giáo dục STEM có thể được xây dựng thông qua nội
dung giáo dục của địa phương, kế hoạch giáo dục của nhà
trường và những hoạt động giáo dục được xã hội hoá.
Một số hình thức giáo dục STEM trong chương trình
GDPT mới: Dạy học theo chủ đề liên môn; Hoạt động nghiên
cứu khoa học của học sinh; Hoạt động câu lạc bộ khoa học công nghệ; Hoạt động tham quan, thực hành, giao lưu với các
cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và doanh
nghiệp. Các hoạt động dạy và học có thể được thực hiện ở
phòng học bộ môn, vườn trường, không gian sáng chế …hoặc
ở các cơ sở giáo dục, đơn vị kinh tế-xã hội ngoài khuôn viên
trường học”[8].
Theo nhận định của tác giả“Chương trình GDPT mới có
một số môn học, một số nội dung, yêu cầu về tổ chức thực
hiện, kiểm tra đánh giá, điều kiện thực hiện chương trình



khác hơn, yêu cầu cao hơn so với chương trình phổ thông
hiện hành. Do vậy để đáp ứng được việc giảng dạy chương
trình GDPT mới đạt hiệu qủa thì yêu cầu nâng cao chất
lượng ĐNGV là hết sức cần thiết”.
Như vậy để thực hiện giảng dạy chương trình GDPT
mới thì yêu cầu các giáo viên phải tham gia bồi dưỡng, đào
tạo, đào tạo lại để đạt yêu cầu thực hiện chương trình.
Yêu cầu đặt ra cho giáo viên THPT và đội ngũ giáo
viên THPT
- Đủ về số lượng
ĐNGV THPT được xác định trên cơ sở lớp học và định
mức biên chế theo quy định của Bộ GDĐT. Hiện nay theo
Thông tư số 16/2017/TT -BGDĐT ngày 12/7/2017 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc hướng dẫn danh mục khung vị trí việc
làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở
giáo dục phổ thông công lập thì mỗi trường THPT được bố trí
tối đa 2,25 giáo viên trên một lớp. Định mức số lượng giáo
viên trên một lớp quy định tại Thông tư này là số giáo viên để
làm công tác giảng dạy tất cả các môn học và các hoạt động
giáo dục khác có trong kế hoạch giáo dục quy định tại


Chương trình giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành.
Số giáo viên cần có = số lớp học x 2,25 giáo viên.
- Đồng bộ về cơ cấu
Cơ cấu chuyên môn hay còn gọi là cơ cấu bộ môn:
Là tình trạng về tỉ trọng giáo viên của các môn học hiện
có ở cấp THPT, sự thừa, thiếu giáo viên ở mỗi môn học. Các
tỉ lệ này vừa phải phù hợp với định mức quy định thì ta có

được một cơ cấu chuyên môn hợp lý.
Cơ cấu theo trình độ đào tạo: là sự phân chia giáo viên
theo tỉ trọng của các trình độ đào tạo.
Cơ cấu theo độ tuổi: Việc phân tích giáo viên theo độ
tuổi nhằm xác định cơ cấu đội ngũ theo từng nhóm tuổi, là cơ
sở để phân tích, đánh giá thực trạng, chiều hướng phát triển
của tổ chức để làm cơ sở cho việc tuyển dụng, đào tạo và bổ
sung.
Cơ cấu theo giới tính: Chỉ xét mặt tỉ trọng của cơ cấu
giới tính ĐNGV trong trường THPT có thể không nói lên điều
gì sự phát triển về giới.


- Đạt chuẩn về trình độ và chất lượng
Chất lượng ĐNGV bao hàm trình độ được đào tạo của
từng thành viên trong đội ngũ, thâm niên làm việc trong tổ
chức, thâm niên trong vị trí làm việc mà người đó đã và đang
đảm nhận, sự hài hòa giữa các yếu tố,…gồm:
Trình độ đào tạo: đạt chuẩn hay vượt chuẩn, đào tạo
chính quy hay không chính quy, chất lượng và uy tín của cơ
sở đào tạo.
Sự hài hòa giữa các yếu tố trong đội ngũ:
+ Hài hòa giữa chức vụ, ngạch bậc và trình độ đào tạo;
giữa phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn.
+ Sự hài hòa giữa nội dung công việc và vị trí mà thành
viên của đội ngũ đang đảm nhận với thời gian thâm niên và
mức độ trách nhiệm của mỗi thành viên.
Tóm lại, từ những khái niệm trên: Phát triển ĐNGV ở các
trường THPT cần quan tâm chú ý đến ba yếu tố chủ yếu là: đủ
về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu nhằm

nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.


Chất lượng

Phát triển
ĐNGV

Cơ cấu

Số lượng

- Vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên
- Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của giáo viên
THPT
“Theo điều 30, 31, 32, 33 Điều lệ trường trung học cơ sở,
trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học
(Ban hành kèm theo Thông tư

số:12/2011/TT-BGDĐT ngày

28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)” [6].
“Ngoài ra, để đáp ứng được yêu đổi mới giáo dục phổ thông,
giáo viên phải có những vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, giáo viên là nhà giáo dục.
Thứ hai, giáo viên là người học suốt đời.
Thứ ba, giáo viên là một người nghiên cứu.


Thứ tư, giáo viên là nhà văn hóa - xã hội.

Để có được vai trò trên, với chức năng mới, người giáo viên
trước hết phải là nhà giáo dục, có phẩm chất nhân cách tốt đẹp để
giáo dục học sinh bằng nhân cách của mình; có năng lực giáo dục
biểu hiện ở năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục,
năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục; có năng lực dạy học biểu
hiện ở việc nắm vững kiến thức kĩ năng môn học, nắm vững
phương pháp dạy học, dạy học phân hóa, dạy học tích hợp các
khoa học, giáo dục STEM; có năng lực sử dụng công nghệ thông
tin trong dạy học; có năng lực phát triển nghề nghiệp bằng tự học,
tự nghiên cứu; có năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề giáo dục
bằng nghiên cứu khoa học. Đó chính là những lĩnh vực cấu thành
phẩm chất nghề nghiệp của người giáo viên trong nhà trường phổ
thông hiện đại”[2].
- Nội dung chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên
trung học phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số
30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo)[5]:


×