Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý HOẠT ĐỘNG tổ CHUYÊN môn ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG đáp ỨNG yêu cầu CHƯƠNG TRÌNH GIÁO dục PHỔ THÔNG TỔNG THỂ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.11 KB, 66 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG TỔ CHUYÊN MÔN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TỔNG THỂ


-Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Giáo dục là một hoạt động đặc biệt diễn ra trong nhà
trường, ở đó các nhà lãnh đạo, quản lý luôn phải thể hiện
được tầm nhìn, tầm bao quát xa và rộng đến tất cả mọi hoạt
động giáo dục trong nhà trường, đó vừa là khả năng nhưng đó
cũng là một nghệ thuật mà phải trải qua một thời gian dài mới
có thể hun đúc nên được. Giáo dục không còn là trang bị kiến
thức đơn thuần về tri thức của nhân loại mà đòi hỏi sự gắn
kết, đồng bộ của cả hội đồng sư phạm cho đến phụ huynh, học
sinh và toàn xã hội, không chỉ đơn thuần là trang bị kiến thức
cho người học mà còn phải phát triển toàn diện phẩm chất,
nhân cách người học để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao
nhưng vô cùng thiết thực của xã hội. Tất cả những điều đó
đều được thể hiện qua tư tưởng của các nhà giáo dục lỗi lạc từ
Khổng Tử, Aritxtot đến Komensky, Các Mác, Lê Nin,
Macarenco,… Các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy được
xu thế chung đó của xã hội vì vậy đều đã có những bước
chuyển mình từ rất sớm, đón đầu xu thế của xã hội để xây
dựng và thực hiện con đường giáo dục phù hợp và hiệu quả
nhất và đã mang lại những thành quả ý nghĩa cho sự phát triển


của quốc gia họ nói riêng và cho nền giáo dục của cả nhân


loại nói chung.
Ở Việt Nam, khi yêu cầu đổi mới giáo dục ngày càng
được xã hội quan tâm thì giáo dục đã có những bước chuyển
mình hết sức mạnh mẽ bởi các nhà nghiên cứu cải cách giáo
dục lỗi lạc như Đào Duy Anh, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn
Văn Huyên, Tạ Quang Bửu,…đã mang lại. Từ đó việc nghiên
cứu chuyên sâu về lĩnh vực quản lý giáo dục, quản lý hoạt
động dạy học trong nhà trường đã được thực hiện rất sôi nổi
và có chất lượng với các công trình nghiên cứu của Hà Thế
Ngữ, Nguyễn Ngọc Quang, Phạm Minh Hạc, Đặng Quốc
Bảo, Trần Kiểm,…Từ đó, việc nâng cao trình độ quản lý
trong nhà trường đã thôi thúc các nhà quản lý quan tâm nhiều
hơn đến công tác học tập, bồi dưỡng và nhất là đầu tư vào
việc nghiên cứu khoa học quản lý một cách nghiêm túc, sáng
tạo để mạnh dạn áp dụng vào thực tiễn công tác quản lý của
bản thân, có thể kể đến một số đề tài luận văn thạc sỹ khoa
học nghành quản lý giáo dục về quản lý hoạt động chuyên
môn như:
Quản lý hoạt động tổ chuyên môn các trường THPT thành
phố Đà Lạt, Lâm Đồng của Lê Văn Hội - 2008;


Một số biện pháp quản lý CM của hiệu trưởng nhằm góp phần
nâng cao kết quả học tập cho các học sinh THPT thị xã Sơn
La của Nguyễn Khai Tâm – 2013;
Quản lý hoạt động tổ chuyên môn của HT các trường THPT
trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng của Bùi Văn
Hiền - 2014;
Quản lý hoạt động của Tổ chuyên môn đáp ứng yêu cầu phát
triển năng lực dạy học cho giáo viên ở trường THPT Nam

Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên của Nguyễn Thị Khuyên – 2014;
Quản lý hoạt động tổ chuyên môn của HT các trường THPT
trên địa bàn huyện Cư Giút, Đắc Nông của Nguyễn Ngọc Út 2015;
Mỗi đề tài gắn liền với thực trạng, điều kiện kinh tế xã hội và
môi trường giáo dục ở các địa phương khác nhau, ở từng thời
điểm khác nhau, đã phân tích thực trạng hoạt động TCM, mối
quan hệ giữa việc dạy học của GV với TCM và công tác quản
lý của hiệu trưởng với TCM và GV, từ đó đề xuất các biện
pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TCM của các
trường phổ thông. Tuy vậy, trước yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục đào tạo nước ta thông qua chương


trình giáo dục phổ thông tổng thể hiện nay thì còn ít đề tài
nghiên cứu, nhất là ở huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng vẫn
chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này.
- Một số khái niệm cơ bản
-. Quản lý
Trong hoạt động có tổ chức của xã hội loài người luôn
cần có một sự bảo đảm về quyền và lợi ích của con người để
lấy đó làm mục đích hướng tới sự phát triển hay nói cách khác
để xã hội loài người duy trì được các hoạt động của mình một
cách nghiêm túc, tuân thủ theo các quy định chung trong mọi
hoạt động thì cần phải có sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ
đạo, để làm được như vậy trước hết phải có sự thống nhất và
phân công cho một người hoặc một bộ phận chịu trách nhiệm
quản lý các hoạt động trong các lĩnh vực, trong các hoạt động
khác nhau của xã hội. Từ đó có thể thấy rằng quản lý và
nhiệm vụ quản lý là một trong những loại hình lao động quan
trọng nhất trong các hoạt động của con người.

Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Giáo dục – 1998)
thuật ngữ quản lý được định nghĩa là "Tổ chức, điều khiển
hoạt động của một đơn vị, cơ quan".[7]


Tác giả Bùi Minh Hiền cho rằng “Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
nhằm đạt mục tiêu đề ra”.[8]
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bản chất hoạt động quản
lý gồm hai quá trình tích hợp vào nhau: quá trình “quản ” gồm
sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình
“lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế
“phát triển”…, trong “quản” phải có “lý”, trong “lý” phải
“quản” để động thái của hệ cân bằng động: hệ vận động phù
hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các
nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại
lực).[13]
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc:
“Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng vận
dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ
đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [20].
Còn rất nhiều những quan điểm, khái niệm về quản lý được
xây dựng và phát triển để thực hiện trong các hoạt động của
đời sống xã hội, tuy vậy từ những khái niệm tham khảo trên
của các tác giả có thể khái quát lại: Quản lý là một hoạt động


được hình thành và thực hiện thông qua các chức năng lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, đánh giá của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý một cách chủ động, liên

tục, xuyên suốt nhằm đưa tổ chức (cơ quan, đơn vị) đạt đến
mục tiêu đã định đồng thời thúc đẩy để nâng cao hiệu quả, giá
trị của tổ chức trong các mối quan hệ xã hội.
Quản lý không những là một khoa học mà còn là một nghệ
thuật vì vậy nhà quản lý trước hết cần phải được trang bị và
thường xuyên tìm tòi, cập nhật các tri thức cơ bản và nâng cao
về quản lý để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tổ chức
đang quản lý nói riêng và của xã hội nói chung, đồng thời
phải có sự vận dụng một cách hiệu quả, sáng tạo các nghệ
thuật quản lý trong bối cảnh thường xuyên thay đổi của xã
hội. Nhà quản lý cần phải đôi mắt tinh anh để nhìn nhận sự
việc, hiện tượng một cách toàn diện, chặt chẽ trong tổng hòa
các mối quan hệ. Nhà quản lý cần phải có đôi tai thính nhạy
để luôn luôn lắng nghe các đối tượng mà mình quản lý để
nắm bắt thông tin, tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của họ. Nhà
quản lý cần phải có cái tâm trong sáng, biết quan tâm, chia sẻ,
biết đồng cảm, khích lệ, động viên, biết giúp đỡ và biết đặt
mình vào vị trí của đối tượng quản lý để biết họ muốn gì?, cần


gì?, làm thế nào?,… Việc người quản lý mang thái độ hách
dịch, cửa quyền, độc đoán, độc tài sẽ trở thành rào cản trong
việc phát triển của tổ chức (cơ quan, đơn vị), những xung đột
sẽ xảy ra, tạo thành những vết nứt xuất hiện và có thể dẫn đến
sự đổ vỡ của tổ chức (cơ quan, đơn vị). Nhà quản lý giỏi sẽ
đưa tổ chức (cơ quan, đơn vị) đi lên một cách bền vững, chắc
chắn, ngược lại nhà quản lý tồi không những đưa tổ chức (cơ
quan, đơn vị) đi theo chiều ngược lại mà còn có thể làm mất
luôn cả những gì mà trước đây đã đạt được.
-Quản lý nhà trường

Nhà trường là một đơn vị hành chính sự nghiệp, nơi tổ
chức các hoạt động giáo dục và được quản lý bởi các thành
phần, các cơ quan, các cấp quản lý có trách nhiệm và quyền
hạn về mặt pháp lý. Khi nhà trường xuất hiện thì hoạt động
dạy học được thực hiện một cách bài bản, quy củ và có hiệu
quả hơn bởi khi nhà trường ra đời đồng nghĩa với việc được
xây dựng, được trang bị cơ sở vật chất phù hợp, đáp ứng yêu
cầu phục vụ hoạt động giảng dạy, học tập, được trang bị về
nguồn nhân lực có năng lực, phẩm chất sư phạm, tâm huyết,
yêu nghề, yêu thương học sinh, có nguồn tài chính để duy trì
các hoạt động giáo dục.


Nhà trường thực hiện đồng thời nhiều hoạt động trong đó thực
hiện thường xuyên hai nhiệm vụ chính: nhiệm vụ thứ nhất là
nhiệm vụ tổ chức các hoạt động giáo dục thông qua hoạt động
dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh nhằm truyền
thụ những tri thức để học sinh phát triển một cách toàn diện
về trí tuệ, phẩm chất, nhân cách; nhiệm vụ thứ hai là thực hiện
công tác đối nội, đối ngoại nghĩa là bên trong nhà trường phải
tạo ra không khí thân thiện, hứng khởi, đoàn kết, trách nhiệm
– nơi không còn mang ý nghĩa là nhà trường dạy học thuần
túy mà trở thành một ngôi nhà chung của sự yêu thương, dạy,
dỗ,…bên ngoài phải có sự liên kết chặt chẽ với các cơ quan,
tổ chức chính trị, xã hội, phụ huynh học sinh, phải tạo được
sự quan tâm, giúp đỡ và sự tin tưởng tuyệt đối vào sứ mệnh
của nhà trường.
Từ nhiều năm qua các nghiên cứu và đánh giá về hoạt động
quản lý nhà trường đã rất đầy đủ và chặt chẽ, văn bản quy
phạm pháp luật như Luật giáo dục 2005 của nước ta đã nêu

rõ: “Quản lý trường học trước hết là quản lý dạy và học, quản
lý các hoạt động bên trong của nhà trường, đồng thời phải bao
gồm việc quản lý các quan hệ giữa nhà trường và xã hội bên
ngoài”[6].


Tác giả Phạm Minh Hạc cũng đã nhận định rằng: “Quản lý
nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong
phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục,
mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và
từng học sinh”[22].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là
quản lý hoạt động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó
từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục
tiêu giáo dục”[19].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý nhà trường thực chất là
việc xác định vị trí của mỗi người trong hệ thống xã hội, là
quy định chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ, quan hệ cùng vai
trò xã hội của họ mà trước hết là trong phạm vi nhà trường
với tư cách là một tổ chức xã hội”.[ 27]
Quản lý nhà trường là một chuỗi các hành động gắn liền các
hoạt động giáo dục với nhau để đạt được mục đích giáo dục
đề ra, dù là ở cấp học nào thì các thành phần quản lý từ trung
ương (cấp Bộ) đến địa phương (Sở giáo dục, Phòng giáo dục)
và ngay bản thân đơn vị trường học (Ban giám hiệu) đều phải


xác định mối tương quan giữa số lượng và chất lượng đào tạo,
nghĩa là hoạt động giáo dục là hoạt động đặc biệt – vừa truyền

thụ kiến thức, tri thức của nhân loại vừa phải giáo dục đạo
đức cho người học, hoạt động giáo dục trong nhà trường
giống như một gia đình thu nhỏ trong xã hội – vừa là nơi xây
dựng tình cảm yêu thương vừa là nơi trau dồi và phát triển sự
hiểu biết để mang lại những giá trị sống mà con người mong
muốn. Như vậy, hoạt động quản lý nhà trường có thể chia ra
thành 2 loại quản lý:
Quản lý bởi các chủ thể quản lý cấp trên: là hoạt động quản lý
nhà trường do các cấp quản lý cấp trên như Quốc hội, Chính
phủ, Bộ giáo dục và đào tạo, UBND tỉnh, Sở GDĐT thực hiện
thông qua việc xây dựng các thể chế, luật giáo dục, các thông
tư, nghị định, các chỉ thị, kế hoạch giáo dục phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước.
Quản lý bởi đội ngũ cán bộ quản lý cơ sở: là hoạt động quản
lý do chính chủ thể quản lý tác động trực tiếp đến các đối
tượng quản lý trong nhà trường, đó là quản lý về đội ngũ giáo
viên, công nhân viên, học sinh, cơ sở vật chất, nội dung,
chương trình dạy học, mối quan hệ với các tổ chức chính trị,


xã hội trong và ngoài nhà trường để đạt được các mục tiêu
giáo dục đã đề ra.
Ngày nay hoạt động quản lý nhà trường đang được phân cấp
rõ ràng và chủ động hơn cho các cán bộ quản lý cấp cơ sở để
tăng tính chủ động, sáng tạo trong quản lý. Sự tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong quản lý của CBQL cơ sở tạo điều kiện cho
nhà trường phát huy được tối đa trách nhiệm, quyền hạn của
mình trong việc thực thi hoạt động giáo dục theo nội dung,
chương trình, kế hoạch đảm bảo đúng, đủ và có chất lượng.
Qua đây có thể thấy rằng, quản lý nhà trường thực chất

là các tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản
lý lên tất cả các hoạt động của nhà trường nhằm đưa hoạt
động của nhà trường đạt đến các mục tiêu giáo dục đã đề ra
theo hướng ổn định và phát triển cả về số lượng và chất
lượng.
* Các chức năng quản lý nhà trường:
- Chức năng lập kế hoạch: đây là chức năng cơ bản nhất
trong các chức năng quản lý nhà trường, có ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển và tồn tại của nhà trường và mỗi tổ


chức. Các loại kế hoạch trong quản lý nhà trường có thể được
phân loại theo các tiêu chí khác nhau:
Theo cấp kế hoạch có kế hoạch chiến lược phát triển nhà
trường và kế hoạch tác nghiệp (kế hoạch cá nhân của hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, kế hoạch tổ
chuyên môn, kế hoach từng loại công việc hoặc hoạt động cụ
thể,…)
Theo thời gian thực hiện có kế hoạch dài hạn, kế hoạch
trung hạn, kế hoạch ngắn hạn (năm học, học kì, tháng, tuần,
ngày),…
- Chức năng tổ chức: Đây là quá trình hình thành cấu
trúc quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận, các đơn vị
trong nhà trường, thực hiện phân công lao động, phân công
nhân sự cho các vị trí, …Việc tuyển dụng, bổ nhiệm, thuyên
chuyển, luân chuyển vị trí công tác, sa thải, miễn nhiệm…cán
bộ quản lý nhà trường, giáo viên, nhân viên cũng xuất phát
trực tiếp từ chức năng tổ chức.
- Chức năng lãnh đạo/ chỉ đạo:



Nội dung chính của lãnh đạo, chỉ đạo thể hiện ở việc chủ
thể quản lý nhà trường định ra chủ trương, đường lối, nguyên
tắc hoạt động và vận hành các hoạt động của nhà trường. Việc
sử dụng các phương pháp quản lý một cách khoa học và hợp
lý; xây dựng các mối quan hệ hợp tác giữa các bộ phận, các
đơn vị thành viên, các tổ bộ môn, tập thể học sinh; tạo động
lực làm việc cho giáo viên, người học, nhân viên; ra những
quyết định quản lý đúng và kịp thời; điều chỉnh các hoạt
động, đảm bảo các hoạt động của nhà trường vận hành có kết
quả đều thuộc về chức năng quản lý này.
- Chức năng kiểm tra/giám sát:
Chức năng này thể hiện các hoạt động kiểm tra/giám sát
một cách chủ động với các công việc của nhà trường nhằm
tìm ra, khẳng định những ưu điểm, phát hiện những hạn chế,
sai sót, kịp thời thực hiện điều chỉnh cần thiết để hoạt động đi
đúng hướng, đảm bảo thực hiện mục tiêu quản lý.
-Quản lý hoạt động tổ chuyên môn
Trong quản lý nhà trường thì nội dung quản lý hoạt động
dạy học và đổi mới phương pháp dạy học là nội dung cơ bản


và quan trọng nhất nhằm thực hiện được nhiệm vụ cơ bản
nhất của một nhà trường đó là dạy học.
Bộ phận trực tiếp thực hiện hoạt động dạy học bằng các
phương pháp cụ thể để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đưa ra
chính là tổ chuyên môn trong các nhà trường.
* Tổ chuyên môn
Điều 16, Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung
học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học. (Ban

hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày
28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định
về tổ chuyên môn như sau:
1. “ Hiệu trưởng, các Phó Hiệu trưởng, giáo viên, viên
chức làm công tác thư viện, thiết bị giáo dục, cán bộ làm công
tác tư vấn cho học sinh của trường trung học được tổ chức
thành tổ chuyên môn theo môn học, nhóm môn học hoặc
nhóm các hoạt động ở từng cấp học THCS, THPT. Mỗi tổ
chuyên môn có tổ trưởng, từ 1 đến 2 tổ phó chịu sự quản lý
chỉ đạo của Hiệu trưởng, do Hiệu trưởng bổ nhiệm trên cơ sở
giới thiệu của tổ chuyên môn và giao nhiệm vụ vào đầu năm
học” [2].
2. Tổ chuyên môn có những nhiệm vụ sau:


“Xây dựng và thực hiện kế hoạch hoạt động chung của
tổ, hướng dẫn xây dựng và quản lý kế hoạch cá nhân của tổ
viên theo kế hoạch dạy học, phân phối chương trình và các
hoạt động giáo dục khác của nhà trường;
Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ; tham gia
đánh giá, xếp loại các thành viên của tổ theo quy định của
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học và các quy định khác
hiện hành;
Giới thiệu tổ trưởng, tổ phó;
Đề xuất khen thưởng, kỷ luật đối với giáo viên” [2]
3. “Tổ chuyên môn sinh hoạt hai tuần một lần và có thể
họp đột xuất theo yêu cầu công việc hay khi Hiệu trưởng yêu
cầu”.[2]
* Chức năng của tổ chuyên môn:
TCM cũng đóng vai trò là một cấp quản lý trong nhà

trường, trong đó TTCM cũng là một nhà quản lý, vì vậy TCM
cũng có các chức năng cơ bản giống như quản lý nhà trường:


+ Chức năng lập kế hoạch: TTCM căn cứ vào các kế
hoạch chỉ đạo chung của nhà trường, tình hình đội ngũ và
thực tế giảng dạy để xây dựng các kế hoạch hoạt động cho
TCM, các kế hoạch cá nhân của GV để thực hiện trong năm
học.
+ Chức năng tổ chức: TTCM tham mưu, phân công công
tác giảng dạy trong TCM một cách hợp lý, xây dựng và thực
hiện các lộ trình cho các hoạt động CM và các hoạt động khác
trong TCM đạt được mục tiêu đề ra.
+ Chức năng lãnh đạo/ chỉ đạo: TTCM thay mặt cho HT
điều hành, chỉ đạo các hoạt động hành chính, CM, nghiệp vụ
và có trách nhiệm báo cáo với HT những vấn đề của TCM
theo yêu cầu.
+ Chức năng kiểm tra/giám sát: TCM phải thực hiện chức
năng kiểm tra, giám sát thường xuyên để đảm bảo thực hiện
đúng các kế hoạch đề ra.
Tổ chuyên môn trong trường là lực lượng chính để thực
hiện các chương trình, nội dung giáo dục theo quy định, tạo
nên chất lượng giáo dục của nhà trường. TCM được tổ chức,
hoạt động theo các đặc điểm cụ thể về nguồn lực nhân lực, cơ


sở vật chất của nhà trường do đó mỗi TCM trong nhà trường
có thể thay đổi theo thời gian các năm học cả về quy mô,
thành phần, tính chất quản lý,... TCM được cấu thành từ các
thành viên cùng nhóm chuyên môn hoặc nhiều phân môn

khác nhau hoặc các thành viên thuộc các bộ phận khác nhau
trong nhà trường để cùng thực hiện các nhiệm vụ chung và
nhiệm vụ cụ thể của từng tổ chuyên môn. Các thành viên
trong tổ chuyên môn phải luôn được gắn kết chặt chẽ với
nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung của tổ.
* Quản lý hoạt động TCM
Quản lý hoạt động TCM là những tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý nhà trường đến hoạt động của
TCM nhằm đảm bảo cho hoạt động của TCM đi vào nề nếp
đạt hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tế của trường,
trong đó sử dụng và khai thác có hiệu quả nhất các tiềm năng
của các thành viên trong tổ, các cơ hội để nâng cao chất lượng
giảng dạy giáo dục trong nhà trường theo mục đích giáo dục
đã đề ra, từ đó hình thành nên truyền thống, phong trào thi
đua, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết giữa các TCM
trong nhà trường theo tinh thần giáo dục của dân tộc.


Điều lệ trường trung học không quy định về số lượng thành
viên của một TCM. Tuy nhiên, từ thực tế của nhà trường và từ
yêu cầu của công tác giảng dạy, quy mô lý tưởng của TCM có
thể dao động từ 5 đến 12 người, gồm những người có cùng
chức năng, nhiệm vụ trong việc giảng dạy các môn học. Với
quy mô này là tối ưu cho những một tổ chuyên môn hoạt động
có hiệu quả.
Có thể tổ chức thành các TCM như sau:
- Ở các trường hạng 3 (dưới 10 lớp ở vùng miền núi, dưới
18 lớp ở thành thị): do số lượng lớp ít nên số lượng giáo viên
không quá nhiều – thậm chí có nhiều môn chỉ có 01 giáo viên
vì vậy tổ chuyên môn sẽ là tổ ghép bởi nhiều phân môn,

chẳng hạn tổ Xã hội bao gồm các giáo viên dạy các môn khoa
học xã hội như Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công
dân,...; tổ Tự nhiên bao gồm các giáo viên dạy các môn khoa
học tự nhiên như Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Tin học,...
hoặc ít hơn thì có thể là tổ Toán - Vật lí – Tin - Công nghệ; tổ
Hóa - Sinh - Thể dục - Quốc phòng an ninh, Tổ Anh - Sử Công dân; Tổ Văn – Địa;... Những TCM đông phân môn như
vậy thường rất khó quản lý, nhất là hoạt động giảng dạy bởi vì
khi có quá nhiều môn học trong đó sẽ khó khăn cho sinh hoạt


CM, không có điều kiện để trực tiếp trao đổi cụ thể về CM,
nhiều môn học sẽ có nhiều ý kiến, khó khăn vướng mắc khác
nhau trong khi thực hiện nhiệm vụ, rất dễ tạo ra sự xung đột
hoặc không đồng tình trong tổ.
- Ở các trường hạng 2 (từ 10 đến 27 lớp ở vùng miền núi,
từ 18 đến 27 lớp ở thành thị) và ở các trường hạng 1: (từ 19
lớp trở lên ở vùng miền núi, từ 28 lớp trở lên ở thành thị): Do
số lượng lớp đông hơn nên số lượng giáo viên tăng lên, việc
chia tổ chuyên môn dễ dàng hơn và công tác quản lý vì thế
cũng thuận lợi hơn, thường thấy là mỗi TCM số lượng các
phân môn khác nhau không còn nhiều nữa, chẳng hạn chia
thành tổ Toán – Tin, tổ Văn – Giáo dục công dân, tổ Hóa –
Sinh, tổ Sử - Địa,..., có nhiều tổ chuyên môn chỉ có 01 môn
như tổ Toán Tin, tổ Văn, tổ Tiếng Anh,... Hoạt động trong
TCM có tiếng nói chung hơn, xử lý công việc chung cũng trở
nên linh động hơn, tập trung được nhiều vào các hoạt động
CM cụ thể của từng môn, nhóm CM hơn là hành chính sự vụ.
Trong TCM, điều cần nhất và quan trọng nhất là các thành
viên dù là cùng phân môn giảng dạy hay không cùng cần phải
có cùng chia sẻ sứ mệnh, tương tác và phối hợp với nhau

trong công việc để đạt được mục tiêu nâng cao chất dạy và


học trong nhà trường, các tổ viên cùng chịu trách nhiệm cá
nhân và tương hỗ nhau trong thực thi nhiệm vụ của tổ. Kết
quả của TCM là kết quả của cả tập thể tổ, kết quả giảng dạy
của tổ là kết quả đánh giá hiệu quả hoạt động của TCM.
- Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
- Giới thiệu chung về Chương trình GDPT tổng thể
Năm 2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết
định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT quyết định ban hành Chương
trình giáo dục phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12, trở thành CT
hiện hành của giáo dục nước ta cho đến ngày nay. Chương
trình hiện hành đã góp phần thay đổi rất lớn sự nghiệp giáo
dục của Việt Nam và đạt được nhiều kết quả to lớn, tuy vậy
trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ và
khoa học giáo dục; trước những đòi hỏi hội nhập quốc tế, CT
và SGK hiện hành khó đáp ứng yêu cầu của đất nước trong
giai đoạn mới. Xu thế phát triển CT và SGK của thế giới thay
đổi rất nhanh; có nhiều thành tựu mới của khoa học giáo dục
cần được bổ sung kịp thời vào CT giáo dục. Đầu thế kỉ XXI
nhiều nước có nền giáo dục phát triển đã chuyển hướng từ CT
coi trọng nội dung giáo dục sang CT coi trọng phát triển năng


lực người học. CTGD Việt Nam cần đổi mới để đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế.[5]
Từ đây, những hạn chế, bất cập của CT hiện hành được bộc
lộ:
- CT mới chú trọng việc truyền đạt kiến thức, chưa đáp ứng

tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực
của học sinh; nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người, chưa coi
trọng hướng nghiệp.
- Quan điểm tích hợp và phân hoá chưa được quán triệt đầy
đủ; các môn học được thiết kế chủ yếu theo kiến thức các lĩnh
vực khoa học, chưa thật sự coi trọng yêu cầu về sư phạm; một
số nội dung của một số môn học chưa đảm bảo tính hiện đại,
cơ bản, còn nhiều kiến thức hàn lâm, nặng với học sinh.
- Nhìn chung, CT còn nghiêng về trang bị kiến thức lý thuyết,
chưa thật sự thiết thực, chưa coi trọng kỹ năng thực hành, kỹ
năng vận dụng kiến thức; chưa đáp ứng các yêu cầu về mục
tiêu giáo dục đạo đức, lối sống.
- Hình thức tổ chức giáo dục chủ yếu là dạy học trên lớp, chưa
coi trọng việc tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động trải


nghiệm. Phương pháp giáo dục và đánh giá chất lượng giáo
dục nhìn chung còn lạc hậu, chưa chú trọng dạy cách học và
phát huy tính chủ động, khả năng sáng tạo của học sinh.
- Trong thiết kế CT, chưa quán triệt rõ mục tiêu, yêu cầu của
hai giai đoạn (giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục
định hướng nghề nghiệp); chưa bảo đảm tốt tính liên thông
trong từng môn học và giữa các môn học, trong từng lớp, từng
cấp và giữa các lớp, các cấp học; còn hạn chế trong việc phát
huy vai trò tự chủ của nhà trường và tính tích cực, sáng tạo
của GV trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục; chưa
đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục của các vùng khó khăn; việc tổ
chức, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện CT còn thiếu tính hệ
thống.[5]
Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục được ban

hành thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11
năm 2013 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa XI “về đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã
diễn ra mạnh mẽ trong suốt gần 5 năm qua và đã có những
chuyển biến tích cực. Tiếp sau đó, Nghị quyết số


88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về
đổi mới CT, SGK GDPT được thông qua, tán thành chủ
trương về đổi mới CT, SGK giáo dục phổ thông theo Đề
án của Chính phủ. Ngày 27 tháng 3 năm 2015, Thủ tướng
chính phủ ra Quyết định số 404/QĐ-TTg phủ phê duyệt Đề án
đổi mới CT, SGK GDPT để Bộ GDĐT tổ chức xây dựng CT
GDPT mới.
Với sự quan tâm, đầu tư nghiên cứu và được sự góp ý chân
thành từ nhiều cơ quan, nhiều nhà khoa học, cán bộ quản lý
giáo dục, giáo viên trong cả nước cũng như từ các chuyên gia
tư vấn quốc tế, ngày 27 tháng 7 năm 2017, bộ khung của CT
là CT GDPT tổng thể đã được Ban Chỉ đạo Đổi mới CT, SGK
GDPT của Bộ GDĐT thông qua, làm căn cứ biên soạn các CT
môn học và hoạt động giáo dục. Ngày 19 tháng 1 năm 2018,
dự thảo các CT môn học được đăng tải trên Cổng thông tin
điện tử của Bộ GDĐT để xin ý kiến rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân.
Chương trình GDPT tổng thể trở thành một dấu mốc quan
trọng trong sự nghiệp cải cách giáo dục nước ta, vừa mang
tính đột phá nhưng đồng thời cũng thể hiện sự kế thừa khoa
học từ CT GDPT hiện hành. “Chương trình tổng thể là



phương hướng và kế hoạch khái quát của toàn bộ CT GDPT
quy định những vấn đề chung nhất, có tính chất định hướng
của giáo dục phổ thông, bao gồm: quan điểm xây dựng
chương trình, mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông và
mục tiêu chương trình từng cấp học, yêu cầu cần đạt về phẩm
chất chủ yếu và năng lực cốt lõi của học sinh cuối mỗi cấp
học, các lĩnh vực giáo dục, hệ thống môn học, thời lượng của
từng môn học, định hướng nội dung giáo dục bắt buộc ở từng
lĩnh vực giáo dục và phân chia vào các môn học ở từng cấp
học đối với tất cả học sinh trên phạm vi toàn quốc, định
hướng về phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục,
điều kiện để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông”[3].
CT GDPT tổng thể mặc dù đang trong quá trình hoàn thiện
nhưng vì các nội dung cơ bản đã được định hình và thống
nhất, mang tính triết lý cho nền giáo dục nước ta nên chắc
chắn sẽ thực hiện đúng theo lộ trình: Triển khai áp dụng
chương trình GDPT và SGK mới theo hình thức cuốn chiếu ở
mỗi cấp học trên phạm vi toàn quốc đối với cấp tiểu học từ
năm học 2019 - 2020, đối với cấp THCS từ năm học 2020 2021 và đối với cấp THPT từ năm học 2021 – 2022. Ngày 21
tháng 11 năm 2017 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số


×