Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận phòng chống bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.49 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.........................................................................................................................2
BLGĐ:

Bạo lực gia đình..........................................................................................................................2

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ
NỮ....................................................................................................................................................................5
1.1. KHÁI NIỆM VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ..................................5
1.1.1. Khái niệm gia đình...............................................................................................................................5
1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình................................................................................................................5
1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ.......................................................................................6
1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ..............................................................7
1.2. CÁC HÌNH THỨC CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH VỚI PHỤ NỮ............................................................9
1.2.1. Bạo lực thể xác.....................................................................................................................................9
1.2.2. Bạo lực tinh thần..................................................................................................................................9
1.2.3. Bạo lực tình dục..................................................................................................................................10
1.2.4. Bạo lực kinh tế....................................................................................................................................10
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ...........................11
1.4.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ...........................................................12
1.5. CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ...............12
1.5.1. Khái niệm công tác xã hội.................................................................................................................12
1.5.2. khái niệm công tác xã hội với phòng chống chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ..................13
1.5.3. Các hoạt động dịch vụ trong phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ..............................14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ XÃ
YÊN CƯỜNG - HUYỆN BẮC MÊ – TỈNH HÀ GIANG .......................................................................15
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ YÊN CƯỜNG.....................................15
2.1.1. Vị trí địa lí...........................................................................................................................................15
2.1.2. kinh tế..................................................................................................................................................15
2.1.3. Chính trị..............................................................................................................................................15
2.1.4. Xã hội...................................................................................................................................................16


2.2. THỰC TRẠNG PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ XÃ YÊN CƯỜNG HUYỆN BẮC MÊ – TỈNH HÀ GIANG.......................................................................................................16
2.2.1. Thực trạng tuyên truyền pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ xã Yên Cường - huyện Bắc Mê – tỉnh
Hà Giang........................................................................................................................................................16
2.2.2. Những hình thức tuyên truyền pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ xã Yên Cường - huyện Bắc
Mê – tỉnh Hà Giang........................................................................................................................................17
1


2.2.2.1. Tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thông qua họp thôn...........................17
2.2.2.2. Tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thông qua các chương trình văn nghệ,
cộng tác viên,…..............................................................................................................................................18
2.2.2.3. Tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thông qua loa, bảng tin, pano,…......18
2.2.3. Những khó khăn trong công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Yên Cường - huyện Bắc Mê –
tỉnh Hà Giang.................................................................................................................................................18
2.2.5. Biện pháp xử lý khi xảy ra bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã Yên Cường - huyện Bắc Mê –
tỉnh Hà Giang.................................................................................................................................................19
2.3. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC
GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TẠI XÃ YÊN CƯỜNG – HUYỆN BẮC MÊ – TỈNH HÀ GIANG........19
2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
tại xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang....................................................................................19
2.3.1.1. Nguyên nhân từ phía nhà nước và chính quyền địa phương......................................................19
2.3.1.2.

Nguyên nhân từ phía người phụ nữ xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang..........20

2.3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ..................21
2.3.2.1. Giải pháp dành cho nạn nhân và người có hành vi BLGĐ đối với phụ nữ.................................21
2.3.2.2. Những giải pháp cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong việc nâng cao hiệu quả
PCBLGĐ đối với phụ nữ xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang................................................22
KẾT LUẬN.....................................................................................................................................................23


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLGĐ:
PCBLGĐ:

Bạo lực gia đình
Phòng chống bạo lực gia đình

UBND:

Ủy ban nhân dân

PN:

Phụ nữ

2


Lý do chọn đề tài:
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là
môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Với thiên chức
riêng có mà không có một thiết chế xã hội nào có được, gia đình ngày càng khẳng
định vị trí, vai trò to lớn của mình trong tiến trình phát triển của xã hội. Mặc cho
các hình thức gia đình có đổi thay, mà sự thay đổi đó suy đến cùng là do sự phát
triển kinh tế quy định, song như Hồ Chủ tịch đã khẳng định: Gia đình tốt thì xã hội
mới tốt.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tiềm ẩn trong mọi gia đình là vấn nạn vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và việc phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ là hết sức cần thiết. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vấn đề

mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ
Chúng ta đều biết bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng xã hội
không mới, nhưng lại nổi lên như một căn bệnh xã hội hết sức nan giải trong giai
đoạn hiện nay. Qua các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị
chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả năng bị người khác lạm
dụng. Bạo lực gia đình đình đối với phụ nữ đã gây hậu quả hết sức nghiêm trọng
đối với thể chất và tinh thần của người phụ nữ.
Trong tổng số 157.859 vụ BLGĐ được phát hiện (từ năm 2011- 2015) cho
thấy: Nạn nhân là phụ nữ (từ 16- 59 tuổi) chiếm tới 117.206 trường hợp (74,24%);
17.586 trường hợp là trẻ em (11,14%); 14.017 trường hợp là người cao tuổi
(8,91%). Thống kê cũng cho thấy, có khoảng 58% phụ nữ đã kết hôn cho biết rằng
cuộc đời họ đã từng phải trải qua ít nhất 1 trong 3 loại bạo lực gồm: Thể xác, tình
dục, tinh thần.
Như vậy, bình quân mỗi năm lại xảy ra khoảng hơn 31.500 vụ BLGĐ với
mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Có thể thấy, chưa bao giờ tình trạng BLGĐ lại diễn ra với mức độ khủng
khiếp đến thế. Đối tượng gánh chịu từ phụ nữ, trẻ em đến người già; BLGĐ diễn ra
ở cả phương diện tinh thần lẫn thể xác của các nạn nhân, với những mức độ khác
nhau. Nhẹ thì mắng chửi, nạn nhân bị đẩy ra đường; nặng hơn thì bị đánh đập, bị
hành hạ, thậm chí có thể dẫn đến tàn phế hoặc tử vong.
3


Những năm gần đây cho thấy, cấp độ nguy hiểm của các vụ việc đang có xu hướng
ngày càng gia tăng. Trên cả nước, bình quân mỗi ngày có 64 phụ nữ, 10 trẻ em và
7 người cao tuổi là nạn nhân của BLGĐ; khoảng 2- 3 ngày lại có một vụ án mạng
liên quan đến BLGĐ.
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ khỏi các
hình thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều văn bản pháp

luật khác như Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật Bình đẳng giới; Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng
trong việc phòng chống bạo lực gia đình, để các quy định pháp luật về phòng chống
bạo lực gia đình được thực thi trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình trạng
vi phạm pháp luật về PCBLGĐ vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi. Theo Vụ
Gia đình- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sau gần 9 năm áp dụng Luật Phòng,
chống BLGĐ, tình trạng BLGĐ vẫn tồn tại trong xã hội. Điều đáng buồn là số vụ
bạo hành gia đình gây hậu quả nghiêm trọng bị phát hiện vẫn tăng cao qua từng
năm, trong đó, nạn nhân chủ yếu thường là phụ nữ, trẻ em và người già- những
người yếu thế trong xã hội.
Yên Cường là xã phía đông của huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang. Đây là một xã
đặc biệt khó khăn. Mặc dù dân số ít nhưng địa bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đời sống nhân dân còn duy trì những
phong tục tập quán lạc hậu. Đó chính là những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình
trạng bạo lực ở vùng cao. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có những công trình
chuyên sâu để tìm hiểu rõ hơn về việc PCBLGĐ đối với phụ nữ miền núi.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến công
tác đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ, nhà nước đã ban hành Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình đã được Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua
vào tháng 11/2007 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2008. Quá trình thực hiện đã đạt
đươc những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên tình trạng bạo lực gia đình đối với
phụ nữ vẫn diễn biến phức tạp cả về số vụ và mức độ nghiêm trọng, và việc
PCBLGĐ đối với phụ nữ và vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết.
Với những lí do nêu trên, em đã chọn đề tài “Phòng chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ tại xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang năm 2017” làm
đề tài tiểu luận của mình.

4



CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA
ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
1.1. KHÁI NIỆM VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ
NỮ
1.1.1. Khái niệm gia đình
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào xã hội. Không giống bất
cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn
hóa…những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con,
ông bà và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng
và con dâu, cha mẹ vợ và con rễ…Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở khía cạnh
như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cái vật
chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể
dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách
tự nhiên, tự phát.
Theo đó gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm
xã hội thu nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con người bởi tính cộng đồng về sinh hoạt trách
nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của thành viên cũng như để
thể hiện tính tất yếu của xã hội về phát triển sản xuất con người”.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000).
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về
khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong sổ hộ
khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới một mái
nhà…
Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia tách thành nhiều
dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống, gia đình hạt nhân
và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ.


5


1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức, lấn áp
hoặc lật đổ”[3]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính
trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong quan
hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất phức tạp nên hành vi bạo lực
cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau, tùy theo từng góc độ
nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với trẻ
em…
Còn theo chủ nghĩa cộng sản khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các nhóm
chính trị- xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau, kể cả sự
tác động bằng vũ trang, đối với giai cấp (các nhóm chính trị- xã hội) khác nhau
nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị những
quyền hay đặc quyền khác nhau” [4].
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các
thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại với các thành viên khác trong
gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói cách khác, đó là việc “
các thành viên trong gia đình vân dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề gia đình”.
Theo định nghĩa của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 được
các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó, bạo
lực gia đình bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở một giới nào dẫn
đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay
những đau khổ của phụ nữ bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự
cưỡng bức hay tước đoạt một cách tỳ tiện sự tự do, dù xảy ra nơi công cộng hay cuộc
sống riêng tư.
Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, bạo hành
về tinh thần, bạo hành tình dục và cả bạo hành về kinh tế. Những hành vi bạo lực

gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con người,
đặc biệt đối với phụ nữ- đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bạo lực gia đình.
1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Tuyên bố của Liên hợp quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ, ngày
20/12/1993, đã định nghĩa: “Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực
nào dựa trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc
gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục hay tâm lý, kể cả những lời đe doạ
6


hay độc đoán tước quyền tự do, dù xảy ra ở nơi công cộng hay trong đời sống riêng
tư”. Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ bao gồm: các hành vi
bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc
gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục và tâm lý xảy ra trong gia đình.
Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ giới trong gia đình là một
trong những quan hệ cơ bản tạo nên sự tồn tại của một gia đình. Về thực chất nó là
mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà trung tâm là mối quan hệ
vợ chồng. Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ phạm của hành vi bạo lực gia
đình có thể bao gồm cả phụ nữ và nạn nhân của nó có thể bao gồm cả đàn ông. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về vấn đề này cho phép kết luận rằng, bạo lực gia đình về cơ
bản là bạo lực chống lại phụ nữ và thủ phạm cơ bản là đàn ông. Phần lớn bạo lực
chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra bạo lực gần như luôn luôn
là nam giới, thường là chồng, người tình, hoặc chồng cũ, người tình cũ, hay những
người đàn ông quen biết của phụ nữ.
"Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ nữ
thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất bình
đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ vì họ là phái yếu
hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm, những tổn hại
về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau khổ, cưỡng bức,
hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng, nhưng nó

không hạn chế chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm cả bạo lực
do Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua "[15].
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngoài những đặc điểm của bạo lực gia đình nói
chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận biết và phân biệt với
bạo lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ chỉ là
nữ giới (nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là tất cả đối tượng: nữ giới, nam giới, trẻ
em, người già, người tàn tật...). Chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với phụ
nữ thường là nam giới và thường là người chồng trong hôn nhân, chồng cũ hay bạn
tình.
1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện pháp
nhằm ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, giúp cho người
phụ nữ tránh được bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền con người và có cuộc sống
hạnh phúc.
7


Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó khăn và
lâu dài. Để bảo vệ người phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của người phụ nữ trong xã
hội, việc phòng chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ cần thiết phải có sự
điều chỉnh của pháp luật. Việc PCBLGĐ đối với người phụ nữ chỉ đạt được hiệu
quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật, phù
hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng
được một hệ thống pháp luật về PCBLGĐ đặc biệt, lần đầu tiên, Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình đã ra đời. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ con người
trong đó có người phụ nữ trước bạo hành gia đình.
Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế trong việc bảo
vệ người phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về Xoá
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm 1981 và cam kết với
kế hoạch hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tại Cai-rô năm 1994

và Cương lĩnh hành động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995. Với
tư cách là quốc gia thành viên của công ước CEDAW, Việt Nam đã có những tiếp cận
theo đúng cách tiếp cận của công ước đối với bình đẳng và bình đẳng giới. Điều này
được thể hiện trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, từ đạo luật gốc là Hiến pháp đến
các đạo luật và các văn bản pháp luật khác đều khẳng định một nguyên tắc bình đẳng
nam nữ và không có bất kỳ sự phân biệt nào trên cơ sở giới trên mọi lĩnh vực.
Từ những phân tích trên, phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
được hiểu là phòng ngừa những hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực PCBLGĐ mà nạn nhân
của bạo hành gia đình là người phụ nữ.
Như vậy, PCBLGĐ đối với phụ nữ là phòng ngừa các hành vi bạo hành gia
đình đối với phụ nữ mà trong đó nạn nhân là người phụ nữ, người gây ra bạo
hành chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong xu thế gia
đình ở Việt Nam là gia đình mở, người phụ nữ không chỉ bị bạo hành từ phía
người chồng mà còn bị bạo hành từ phía gia đình nhà chồng, bố, mẹ chồng, anh
em của chồng. Mặt khác, trong thực tế cũng có nhiều người chồng cũng phải chịu
bạo lực gia đình như phụ nữ nhưng trong khuôn khổ khóa luận này, tác giả nghiên
cứu việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vụ bạo lực gia đình đối
với phụ nữ trái với pháp luật PCBLGĐ và là nội dung cơ bản tác giả đề cập tới
việc PCBLGĐ đối với phụ nữ.
8


1.2. CÁC HÌNH THỨC CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH VỚI PHỤ NỮ
1.2.1. Bạo lực thể xác
Người phụ nữ đã phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực gia đình. Bạo lực thân thể
là hình thức khá phổ biến trong các dạng bạo lực gia đình. Bạo lực thể chất là một
trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho phụ nữ. Người phụ nữ
là nạn nhân của bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ phải chịu sự

đánh đập của người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác nhau, có trường
hợp người chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng cả vũ khí để hành
hung vợ để lại những hậu quả nghiêm trọng như để lại thương tích trên thân thể,
xảy thai, thậm chí tử vong...
Trên thực tế không chỉ có những người trình độ văn hóa thấp mà cả những người
có trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là nạn nhân của bạo
lực trong gia đình. Trong đó bạo lực thể xác đối với người phụ nữ là rõ nhất. Mặt
khác, bạo lực về thể xác đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn so với thành thị và
phần lớn là tập trung vào các gia đình có chồng trình độ học vấn thấp, làm nông
nghiệp.
Bạo lực thể xác để lại hậu quả rất nghiêm trọng, nó không chỉ tác động trực tiếp
đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng đến sự phát triển
tình cảm của trẻ con trong gia đình. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ đánh đập
nhau sẽ tác động không không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin của con trẻ vào
cha mẹ của mình.
1.2.2. Bạo lực tinh thần
Bạo lực tinh thần là dạng hành vi không sử dụng vũ lực thông thường như đánh
đập, hành hạ, hay bất cứ hành vi nào gây tổn thương vật lý đến cơ thể nạn nhân.
Loại bạo lực này chủ yếu sử dụng lời nói chì chiết, nhục mạ, hạ thấp phẩm giá nạn
nhân, kiểm soát hoạt động của nạn nhân, lợi dụng vị thế trong gia đình của mình để
gây áp lực, buộc người kia phải tuân theo mình, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Tuy khó nhận diện hơn so với bạo lực thể chất, nhưng hậu
quả, di chứng của bạo lực tinh thần lại có thể kéo dài âm ỉ và có thể gây tổn hại tới
sức khỏe tinh thần của nạn nhân.
Bạo lực về tinh thần đã gây cho người phụ nữ những chấn động mạnh và lâu dài về
tâm lý, họ phải chịu đựng những chấn thương tâm lý mà không dễ gì chữa khỏi.
Nạn nhân bị bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt mình, trầm cảm và sợ sệt, ăn
không ngon, ngủ không yên, nóng giận vô cớ, luôn bị ám ảnh về bạo lực, có trường
9



hợp bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường hợp thì tự
tử.
Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ, một trong những lý do
khá nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại tình về thường bỏ
rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ con. Cùng với sự tra tấn dã man đó là mục đích mong
cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh như vậy, người phụ nữ thật đau
khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được bản thân mình nữa, mắc phải những
sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời họ.
1.2.3. Bạo lực tình dục
Bạo lực tình dục là bất kỳ hành vi tình dục hoặc cố gắng để có được một hành vi
tình dục bằng bạo lực hoặc cưỡng chế, hành vi buôn bán người để phục vụ mại
dâm hoặc hành vi tình dục không phù hợp với giới tính người đó, bất kể mối quan
hệ với nạn nhân ra sao. Nó xảy ra trong các tình huống xung đột hòa bình và vũ
trang, được áp dụng rộng rãi và được coi là một trong những vi phạm nhân quyền
đau thương, và phổ biến nhất
Bạo lực tình dục là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng và có ảnh hưởng
sâu sắc hoặc dài hạn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần của nạn nhân, chẳng
hạn như tăng nguy cơ các vấn đề sức khỏe sinh sản và tình dục,[6] tăng nguy cơ tự
tử hoặc nhiễm HIV. Tội giết người xảy ra hoặc trong một cuộc tấn công tình dục
hoặc là kết quả của một vụ giết người vì danh dự để sau khi có một cuộc tấn công
tình dục cũng là một yếu tố của bạo lực tình dục. Mặc dù phụ nữ và trẻ em gái bị
ảnh hưởng nhiều hơn, bạo lực tình dục có thể xảy ra với bất cứ ai ở mọi lứa tuổi;
nó là một hành vi bạo lực có thể do cha mẹ, người chăm sóc, người quen và người
lạ, cũng như các đối tác thân mật gây ra. Nó hiếm khi là một tội phạm khi yêu
thương, và là một hành động thường xuyên nhằm mục đích thể hiện quyền lực và
sự thống trị đối với nạn nhân.

1.2.4. Bạo lực kinh tế
Cùng với bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần là bạo hành về kinh tế.

Bạo hành về kinh tế là hành vi dùng sức mạnh, áp đặt hoặc lừa mị nhằm chiếm
giữ và kiểm soát tài chính của người phụ nữ trong gia đình nhằm tạo ra sự phụ
thuộc về mặt kinh tế. Bạo lực kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau như: không
đóng góp kinh tế (tiền bạc) cho vợ chi tiêu chung trong gia đình; quản lý hết tiền
của gia đình; bắt người vợ phụ thuộc hoàn toàn vào mình; coi thường vợ không
10


có công ăn việc làm, không kiếm được tiền; kiểm soát toàn bộ việc chi tiêu trong
nhà; vay nợ nhiều để vợ gánh chịu trả nợ... Có rất nhiều người phụ nữ hoàn toàn
bị phụ thuộc vào chồng về mặt kinh tế, mọi sự chi tiêu trong gia đình từ những
vật dụng nhỏ nhất cũng phải xin chồng, phải xin phép chồng, chồng không đồng
ý hay không cho thì không có tiền để tiêu thậm chí để phục vụ cho những nhu cầu
tối thiểu nhất của người phụ nữ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy bạo hành gia đình là con sóng ngầm có sức tàn
phá rất lớn hạnh phúc của mỗi gia đình, nó để lại rất nhiều hậu quả, mà dễ thấy
nhất là hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ, con cái thiếu sự quan tâm dễ xa ngã vào các tệ
nạn xã hội...Qua những hình thức bạo lực gia đình nói trên chúng ta đã có những
cách nhìn khách quan về đặc điểm cũng như tính nguy hiểm của từng loại hình. Từ
đó cần phải có những giải pháp nhằm đấu tranh chống lại nạn bạo lực gia đình đối
với phụ nữ đang ngày một phát triển trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ
Phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có PCBLGĐ đối với phụ nữ đã được
đề cập trong một số văn bản pháp luật của nước ta như: Hiến pháp 1992, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ
luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh người cao tuổi....
Những văn bản pháp luật trên đã có rất nhiều quy định về phòng, chống bạo lực gia
đình, góp phần quan trọng trong bảo vệ người phụ nữ khỏi bạo lực gia đình. Để

công tác PCBLGĐ có hiệu quả hơn nữa, ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội
khoá XII của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 là một trong những văn bản
pháp luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và
gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên
trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt
Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam còn là phương tiện hữu hiệu trong việc
PCBLGĐ. Luật đã có nhiều điều khoản quy định trực tiếp và gián tiếp đến việc
PCBLGĐ
11


1.4.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Theo quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nguyên tắc của
phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm:
- Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình,
lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư
vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam.
- Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo
quy định của pháp luật.
- Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ
chức trong phòng, chống bạo lực gia đình
1.5. CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ

1.5.1. Khái niệm công tác xã hội
Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác xã hội là hoạt động
nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao hay khôi
phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các điều
kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ (Zastrow, 1996: 5).
CTXH tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân đạo
cho cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải
thiện cuộc sống (Zastrow, 1999:..)
Theo Cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội thảo 2004): Định
nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng TỰ GIÚP. Nó không phải
là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống
thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn đề của mình.
Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị Quốc tế
Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi
xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người, sự tăng quyền lực
12


và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái
và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và các hệ thống xã hội.
CTXH can thiệp ở những điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp phần giải quyết hài hòa
mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một xã hội lành
mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội
tiên tiến.
Như vậy: công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp, nhằm
trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nhằm nâng cao năng lực, đáp ứng nhu
cầu và tăng cường chức năng xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm
giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vẫn đề xã hội

góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
1.5.2. khái niệm công tác xã hội với phòng chống chống bạo lực gia đình đối
với phụ nữ
Trước những tác động của BLGĐ, nhân viên công tác xã hội (CTXH) có vai
trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ xã hội, tư vấn pháp luật, trị liệu tâm lý,
tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mỗi người dân
Cụ thể, nhân viên CTXH sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh
thần thông qua các đối tác cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp. Họ
sẽ kết nối những cơ sở y tế miễn phí để các nạn nhân bị bạo lực được khám và điều
trị bệnh, tiếp cận các trung tâm giám định y tế để giám định về tỷ lệ thương tật, tiếp
cận các văn phòng trợ giúp pháp lý, luật sư và cơ quan tư pháp, lập kế hoạch trợ
giúp cho nạn nhân và điều phối các dịch vụ hỗ trợ dựa trên nguyên tắc ưu tiên và
đáp ứng nhu cầu của nạn nhân nhằm đảm bảo quyền lợi. Những trường hợp có vấn
đề về tâm lý quá lớn, nhân viên CTXH không đủ khả năng giải quyết, họ sẽ hỗ trợ
các nạn nhân được kết nối đến các cơ quan và tổ chức có khả năng, đủ thẩm quyền.
Song song với các hoạt động hỗ trợ, nhân viên CTXH cũng sẽ góp phần trang bị
các kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm, tiếp cận với nhà tuyển dụng, phối hợp với
các cơ quan đơn vị giới thiệu việc làm, tổ chức nhân đạo từ thiện để tạo việc làm
cho nạn nhân
Hiện nay, ngành CTXH và các ban, ngành có liên quan cũng đã tích cực phối
hợp, hỗ trợ cấp cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật và xây
dựng các mô hình hoạt động phòng chống bạo lực gia đình có hiệu quả tại các địa
13


phương như: thành lập các Trung tâm tư vấn, nhân rộng và duy trì mô hình các
CLB gia đình hạnh phúc, CLB tuyên truyền Luật phòng chống BLGĐ, Bình đẳng
giới; CLB trợ giúp pháp lý, gia đình phát triển bền vững, tổ hòa giải; CLB làm
chồng, làm cha hoặc tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo, hội thi… Qua các mô
hình này cùng với sự hỗ trợ của nhân viên CTXH góp phần nâng cao nhận thức

của người dân về phòng, chống BLGĐ, từ đó cộng đồng, xã hội có những hành
động cấp bách và lâu dài để ngăn ngừa và đối phó với vấn đề BLG
Như vậy: công tác xã hội với phòng chống chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ chính là nhân viên xã hội cung cấp các dịch vụ xã hội, tư vấn pháp luật, trị liệu
tâm lý, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mỗi người dân trong
việc phòng chống chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
1.5.3. Các hoạt động dịch vụ trong phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ
Lập kế hoạch trợ giúp cho nạn nhân và điều phối các dịch vụ hỗ trợ cho nạn
nhân dựa trên nguyên tắc ưu tiên và đáp ứng nhu cầu của họ. Đảm bảo giải quyết
tất cả những vấn đề khó khăn mà thân chủ đang gặp phải.
Trong quá trình tìm hiều và phân tích vấn đề của nạn nhân, nhân viên xã hội
sẽ là cầu nối giữa nạn nhân với Ngôi nhà bình yên; TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Các trung tâm bảo trợ xã hội, các nhà xã hội… để đảm bảo nạn nhân có được
chỗ ở an toàn trong suốt thời gian can thiệp; giúp đỡ nạn nhân từ quá trình bắt đầu
và sau khi tái hòa nhập cộng đồng, đảm bảo có chỗ ăn ở an toàn.
Nhân viên xã hội tiến hành đánh giá mức độ tổn thương tâm lý, xác định
phương pháp tham vấn và trị liệu, cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý để phục hồi sang
chấn cho nạn nhân bị bạo lực gia đình. Những trường hợp có vấn đề về tâm lý quá
lớn, nhân viên xã hội không đủ khả năng giải quyết thì sẽ đựơc kết nối, chuyển
giao đến các cơ quan và tổ chức có khả năng, đủ thẩm quyền.
Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về bạo lực gia đình và những
tác hại to lớn của bạo lực gia đình đối với các thành viên trong gia đình đặc việt là
người phụ nữ, các hoạt động tuển truyền như: phát tờ rơi, băng rôn, khẩu hiệu, qua
báo đài phát thanh, qua loa,…
14


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ XÃ YÊN CƯỜNG - HUYỆN BẮC MÊ – TỈNH HÀ GIANG

NĂM 2107

2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ YÊN CƯỜNG
2.1.1. Vị trí địa lí
Yên Cường là một xã thuộc huyện Bắc Mê của tỉnh Hà giang, phía Bắc tiếp
giáp với Thị Trấn Yên Phú và xã Phú Nam, phía Đông giáp với xã Phú Nam,
Đường Âm, Đường Hồng, phía nam giáp với Đường Hồng, Na Hang, Đường Âm,
phía tây giáp với Xã Thượng Tân. Xã Yên Cường có diện tích 102,8 km2, dân số là
5.638 người. Là một trong những xã thuộc vùng 3 của huyện Bắc Mê có địa hình
đồi núi hiểm trở, địa hình đi lại khó khăn và phức tạp. Đất chủ yếu là để canh tác
ruộng bậc thang và trồng hoa màu.
2.1.2. kinh tế
Yên Cường là một xã có nền kinh tế chủ yếu là làm ruộng, trồng ngô, trồng
sắn. do chủ yếu ở đây điều kiện tự nhiên không thuận lợi để phát triển các mô hình
nông nghiệp mới với trình độ dân trí ở đây còn thấp do vậy họ vẫn phụ thuộc vào
làm ruộng, làm nương. Ngoài ra ở đây họ cong chăn nuôi gia súc như trâu, bò, lợn,
gà, dê…. Để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra ở địa phương hiện này
còn thực hiện nhiều mô hình trồng cây cam để phát triển kinh tế cho người dân ở
đây. Ngoài những nền kinh tế chủ yếu ở đây thì người dân còn nhiều hộ gia đình
kinh doanh, buôn bán, làm mộc, sửa xe…..
2.1.3. Chính trị
Công tác xây dựng Đảng thường xuyên được Đảng bộ chú trọng trên cả 3
mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng ủy đã bám sát định hướng tư tưởng của
thành ủy để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán
bộ, Đảng viên nhằm không ngừng phát huy dân chủ, nâng cao ức chiên đấu của tổ
chức Đảng trong xã. Đảng ủy Yên Cường coi trọng việc học tập chủ trương, chính
sách mới thông tin thời sự trong nước và quốc tế, đổi mới hình thức tuyên truyền,
giáo dục đề cao dân chủ trong sinh hoạt Đảng và các tổ chức chính trị, xã hội.
15



2.1.4. Xã hội
Giáo dục : Với chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo xã Yên Cường đã có
nhiều chính sách để vận động nhưng người dân ở đây cho con em tới trường đi học
đầy đủ từ mầm non đến phổ thông. Các trường đều được đầu tư về cơ sở vật chất,
và mỗi trường đều có nơi bán trú cho những học sinh ở xa trường được lưu trustaij
trường để thuận tiện hơn trong việc đi lại. Tuy nhiên trình độ dân trí ở đây còn rất
thấp nên vẫn phổ cập giáo dục thường xuyên đối với những người dân ở đây. nhờ
đó chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên.
Y tế : Trạm y tế phường được đầu tư và nâng cấp nên phục vụ tốt hơn việc
khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân. Công tác tiêm chủng hàng năm đều đạt
100% so với kế hoạch. Các hoạt đồng tuyên truyền , vận động đều triển khai rất
tốt.
Nhận xét: Qua đặc điểm tự nhiên và kinh tế của xã Yên Cường cho thấy vì
là thuộc vùng núi địa hình khó khăn trong việc cấy trồng nên kinh tế còn yếu kém
với những hộ chỉ dựa vào làm nông nghiệp thì kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn,
những hộ nghèo còn nhiều dẫn đến đời sống khó khăn, trình độ dân trí ở đây còn
thấp do vậy họ cần đến sự trợ giúp của cơ quan chính quyền, hay những người già
nhà neo đơn thuộc hộ nghèo cũng không thể tiếp tục làm nông được nữa cần hỗ
trợ về mặt kinh tế cũng cần có sự giúp đỡ từ chính quyền liên quan đến an sinh xã
hội.
2.2. THỰC TRẠNG PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ XÃ YÊN CƯỜNG - HUYỆN BẮC MÊ – TỈNH HÀ GIANG NĂM 2017
2.2.1. Thực trạng tuyên truyền pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ xã Yên
Cường - huyện Bắc Mê – tỉnh Hà Giang
Trong những năm qua, việc triển khai thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia
đình trên địa bàn xã Yên Cường được cấp uỷ, chính quyền và các ban ngành, đoàn
thể quan tâm thực hiện trong năm 2017 xã có hoạt động tuyên truyền về phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ với tần suất liên tục hơn. Công tác tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ

nói riêng được triển khai một cách đồng bộ. Nhận thức của cấp uỷ, chính quyền,
16


nhân dân và cán bộ, hội viên phụ nữ ngày được nâng cao, nhất là quy định của luật
giúp cho mọi người từng bước nhận thức được hành vi bạo lực gia đình đối với
phụ nữ là vi phạm pháp luật. Đối với các hội phụ nữ xã Yên Cường đã chú trọng tổ
chức các lớp tập huấn, tuyên truyền Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đến đội
ngũ cán bộ ở các thôn, đến cuối năm 2017, tất cả các chị em phụ nữ của xã đều
được tiếp cận với vấn đề bạo lực gia đình và biết cách phòng chống lại bạo lực.
Cũng trong năm 2017, chính quyền xã đã tổ chức buổi tuyên truyền chủ đề
“Phụ nữ là để yêu thương” tuyên truyền về vai trò phụ nữ trong gia đình và đẩy xa
bạo lực nhằm xây dựng một xã nói không với bạo lực gia đình.
Tuyên tuyền PCBLGD tại xã không chỉ tập trung vào người phụ nữ mà còn
tập trung vào người đàn ông – đối tượng gây ra bạo lực, từ đó hạn chế được đáng
kể hành vi bạo lực trong gia đình.
2.2.2. Những hình thức tuyên truyền pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ xã
Yên Cường - huyện Bắc Mê – tỉnh Hà Giang
2.2.2.1. Tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thông qua họp
thôn
Tại xã yên cường do địa hình chủ yếu là đồi núi, người dân ở cách xa nhau,
đường xá đi lại khó khăn và người dân chủ yếu làm nông nghiệp nên việc giao lưu
với nhau khá khó khăn. Vì vậy công tác tuyên truyền pháp luật PCBLGĐ ở xã Yên
Cường chủ yếu thông qua các buổi họp thôn. Hằng tuần mỗi thôn trong xã đều tiến
hành họp thôn tổng kết lại những việc đã làm được và triển khai những chủ trương
của đảng nhà nước, cùng với đó lồng ghép tuyên truyền bạo lực gia đình cho người
dân. Phê bình, nhắc nhở những gia đình có bạo lực tại buổi họp, và tuyên dương
những gia đình không có bạo lực và những gia đình có những tiến bộ không còn
xảy ra bạo lực trong gia đình. Phương pháp trực tiếp tuyên truyền này đang tỏ ra
rất hiệu quả trong phòng chống bạo lực phụ nữ, những người bị phê bình tỏ ra rất

xấu hổ trước mọi người và hạn chế được hành vi bạo lực của mình, khi họ có tiến
bộ không gây ra bạo lực thì lại được khen ngợi và đưa ra làm tấm gương sáng cho
17


mọi người noi theo, đây cũng chính là động lực khiến cho những người gây ra bạo
lực tự thay đổi mình
2.2.2.2. Tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thông qua các
chương trình văn nghệ, cộng tác viên,…
Đây là phương pháp tỏ ra có hiệu quả trong năm 2017. Trong xã thường tổ
chức các buổi văn nghệ, từ đó lồng ghép các tiểu phẩm hài về bạo lực gia đình vào
trong chương trình, để người dân thấy mình trong các vở kịch đó từ đó những
người gây ra bạo lực biết cách thay đổi bản thân hạn chế bạo lực, còn những người
bị bạo lực biết cách phận biệt đúng sai, đứng lên chống lại bạo lực gia đình và
tuyên truyền cho mọi người không nên im lặng trước bạo lực. về công tác viên, tại
xã thường có các chương trình học cho phụ nữ, các khóa học về chăn nuôi trồng
trọt khi các chị em phụ nữ tham gia vào các khóa học thì những giáo viên hưỡng
dẫn ngoài phổ biến các kiến thức về khóa học thì sẽ kết hợp tuyên truyền về phòng
chống bạo lực gia đình.
2.2.2.3. Tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thông qua loa,
bảng tin, pano,…
Các hình thức tuyên truyền PCBLGD đối với phụ nữ gián tiếp này đều tỏ ra
hiệu quả thấp vì do vị trí địa lý, địa hình của xã và trình độ dân trí còn thấp. Những
hình thức như loa thì chỉ tuyên truyền ở nơi đông dân cư là trung tâm xã còn ở
nhưng vị trí khác do các hộ gia đình sinh sống xa nhau cách nhau là đồi núi rừng
cây rậm rạp nên tuyên truyền bằng loa không khả quan, việc tuyên truyền bằng
bảng tin cũng không phổ biến tại xã, khi viết tuyên truyền trên bảng tin chỉ nhứng
hộ dân xung quanh đi qua vị trí bảng tin thấy được, còn những người ở xa hầu hết
là không tiếp cận ngoài ra trình độ học vấn ở xã còn thấp những người lớn tuổi đa
số đều không biết chữ nên việc tuển truyền qua bảng tin không được phổ biến tại

xã.
2.2.3. Những khó khăn trong công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Yên
Cường - huyện Bắc Mê – tỉnh Hà Giang
Trong năm 2017 việc PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Yên Cường gặp nhiều
khó khăn khó khăn, trong đó khó khăn lớn nhất đó là thiếu kinh phí cho hoạt động
PCBLGĐ đối với phụ nữ, công tác phòng chống bạo lực phụ nữa trước nay vẫn
dựa vào tiền quỹ ít ỏi của hội phụ nữ xã và những đóng góp của các chị em phụ nữ
trong hội nên công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã còn gặp nhiều khó khăn. Do
18


thiếu kinh phí hoạt động nên hội phụ nữ không thể thường xuyên sinh hoạt tập thể
nên công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ không thể triển khai.
Khi gia đình xảy ra bạo lực gia đình, nạn nhân thường không tự nguyện khai
báo, với tư tưởng “đóng cửa bảo nhau” hay “ xấu chàng hổ ai” nên khi xảy ra bạo
lực người phụ nữ luôn im lặng và không dám lên tiếng do xấu hổ, nghĩ cho gia
đình, cho con và một số thì do trình độ văn hóa thấp nên họ cho rằng bạo lực do
chồng gây ra là bình thường, bạo lực là điều hiển nhiên trong gia đình, và nhìn thấy
những người trong thôn bị bị bạo lực họ đều không khai báo nên các chị em phụ nữ
cứ như vậy mà âm thầm chịu đựng.
Trong xã còn đặt nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, đàn ông được coi là trụ
cột gia đình và tự cho mình cái quyền được gây ra bạo lực với bất kỳ ai, đặc biệt là
người vợ mình, còn người phụ nữ thì chấp nhận bạo lực, họ không có tư tưởng
phản kháng lại, và một số người đàn ông trong thôn hầu hết là nam giới khi được
tuyên truyền bạo lực gia đình đều không chịu tiếp thu vì họ cho rằng vợ họ, họ
quyền dạy bảo và việc sử dụng bạo lực lên người phụ nữ là một cách dạy bảo vợ
của họ.
2.2.5. Biện pháp xử lý khi xảy ra bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã Yên
Cường - huyện Bắc Mê – tỉnh Hà Giang
Theo báo cáo về bạo lực gia đình của xã năm 2017, xã đã xử lý 12 vụ bạo lực

gia đình. Hầu hết biện pháp xử lý phổ biến nhất được áp dụng khi xảy ra bạo lực
gia đình đối với phụ nữ tại Xã Yên Cường đó là căn ngăn và hòa giải tại chỗ với lý
do đưa ra là vì nghĩ cho con cái, không muốn phá vỡ hạnh phúc gia đình và do tư
tưởng sợ người khác dè bỉu, nếu làm mọi chuyện rối tung lên người phụ nữ sẽ
không biết đi về đâu, không thể về nhà mẹ đẻ vì bố mẹ đã già và còn có gia đình
bác, cô, chú ở với bố mẹ nên người phụ nữ chịu nhẫn nhục hòa giải và ở lại ngôi
nhà có bạo lực của mình. Ngoài ra còn có các biện pháp khác như kiểm điểm phê
bình đối với người gây ra bạo lực. Xử lý hành chính đối với người gây ra bạo lực
nhưng đây chính là nguyên mà các chị em phụ nữ bị bạo lực không muốn lên tiếng
vì nếu xử phạt hành chính thì các anh chồng sẽ mang tiền ở nhà lên nộp phạt, mà
tiền đó là tiền hai vợ chồng làm ra.

19


2.3. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TẠI XÃ YÊN
CƯỜNG – HUYỆN BẮC MÊ – TỈNH HÀ GIANG
2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ tại xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang
2.3.1.1. Nguyên nhân từ phía nhà nước và chính quyền địa phương
Đảng và Nhà nước ta đã rất cố gắng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật trong đó có pháp luật về PCBLGĐ. Nhưng việc thực thi liên quan
đến bạo lực gia đình vẫn còn một số bất cập như: chưa có cơ quan quản lý nhà
nước nào chịu trách nhiệm về phòng, chống bạo lực gia đình, thiếu các biện pháp
ngăn ngừa bạo lực gia đình, biện pháp hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình,
thiếu các quy định về giáo dục, cải tạo có hiệu quả với người gây bạo lực gia đình.
Khắc phục những hạn chế trên, lần đầu tiên, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
được ban hành quy định một cách chi tiết về các hành vi bạo lực gia đình, các hành
vi bị cấm trong lĩnh vực PCBLGĐ, trách nhiệm của công dân, các cơ quan nhà

nước, tổ chức và toàn xã hội cũng như việc xử lý vi phạm pháp luật PCBLGĐ
Nhiều cán bộ còn không biết được những hành vi bạo hành đối với vợ là vi
phạm pháp luật hoặc có hiểu thì việc xử lý rất qua loa nên đã gây ra tình trạng coi
thường pháp luật. Nhiều địa phương, trong tư tưởng của nhiều cán bộ, nhiều bà con
nhân dân còn tồn tại những quan niệm về bạo lực gia đình như: " không có lửa làm
sao có khói".
Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền
trong công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ. Các tổ chức đoàn thể xã hội như: hội phụ
nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên vẫn chưa quan tâm đúng mức tới việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các hội viên trong địa bàn của mình, chưa có những
giả pháp thực sự hữu hiệu để phòng ngừa và ngăn chặn hành vi bạo lực gia
đình.Vẫn cồn tồn tại quan niệm “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”; “vợ chồng đóng cửa bảo
nhau”…Chính vì vậy hành vi bạo lực càng có điều kiện diễn ra đằng sau những
cánh cửa khép kính , có tiềm năng ngày càng gia tăng về số vụ và mức độ.
2.3.1.2. Nguyên nhân từ phía người phụ nữ xã Yên Cường, huyện Bắc Mê,
tỉnh Hà Giang
Nhận thức, thái độ, sự phản kháng của người phụ nữ sẽ quyết định một phần đến
việc bạo lực gia đình có xảy ra đối với họ hay không. Trong thực tế xã hội, thực trạng
20


vi phạm pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ đang ở mức báo động trong đó số lượng
người phụ nữ phải chịu bạo hành từ phía người chồng với mật độ cao. Điều này bắt
nguồn từ nhận thức của người phụ nữ. Nhiều người phụ nữ đã không nhận thức được
việc chồng sử dụng bạo lực đối với mình là trái pháp luật mà coi đó là chuyện thường
tình, không tránh khỏi trong cuộc sống gia đình, đánh vợ là quyền của người chồng.
Họ cũng không nhận thức được hành động đó vi phạm đến quyền tự do và uyền con
người đồng thời không nhận thức được mình là đối tượng được pháp luật bảo vệ.
Chính vì nhận thức như vậy mà họ cứ cam chịu theo thời gian, không có sự phản
kháng gì, hoặc nếu có thì rất yếu ớt.

Người phụ nữ cam chịu như vậy vì họ thường suy nghĩ: "xấu chàng hổ ai"; "một
sự nhịn, chín sự lành". Gần như tất cả các phụ nữ bị đánh đều cảm thấy xấu hổ khi
phải kể với người khác bất hạnh về bản thân và gia đình họ. Họ cảm thấy bất lợi nếu
muốn chồng "tu tỉnh" lại mà chuyện vợ chồng đánh nhau đã bị người ngoài biết. Do
đó, dấu giếm và chấp nhận là phản ứng phổ biến của người phụ nữ khi họ phải chịu
bạo hành từ chồng. Nhiều người vẫn đơn giản nghĩ rằng, rồi chồng mình sẽ thay đổi
nên cứ âm thầm chịu đựng và đợi chờ chứ họ không thấy được điều họ hy vọng ấy rất
khó xảy ra.
2.3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ
2.3.2.1. Giải pháp dành cho nạn nhân và người có hành vi BLGĐ đối với phụ nữ.
Giải pháp người phụ nữ có thể làm khi có bạo hành xảy ra với mình:
- Tâm sự với những người đáng tin cậy về những gì đã xảy ra để nhận sự cảm
thông và giúp đỡ. Có thể tâm sự với chồng nếu ba mẹ chồng là tác nhân gây nên nạn
bạo lực gia đình; có thể tâm sự với ba mẹ đẻ, ba mẹ chồng, con cái nếu người chồng
là tác nhân gây nên nạn bạo lực gia đình,… Chính những người này sẽ giúp cho
những người phụ nữ giải tỏa được tâm lý, tác động ngăn chặn hành động bạo lực có
thể sẽ tiếp tục xảy ra.
- Nếu bị thương do hành vi bạo lực thể xác, bạo lực tình dục gây ra thì hãy
đến ngay trạm y tế, phòng khám, bệnh viện để điều trị càng sớm càng tốt.
- Không phải lúc nào cũng phòng và tránh được bạo hành, do đó sẽ rất hữu ích
nếu các nạn nhân bạo lực gia đình có được một kế hoạch an toàn tại nhà.
Giải pháp cho tác nhân, người gây ra nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ:
Theo nghiên cứu của quốc gia về bạo lực gia đình thì tác nhân gây ra nạn bạo
lực gia đình đối với phụ nữ chủ yếu là người đàn ông( người chồng của họ). Vì
21


vậy, để hạn chế các vụ bạo lực trong gia đình thì ngoài việc cung cấp các biện pháp
cho các chị em phụ nữ thì biện pháp hiệu quả cũng không kém phần quan trọng là

phải chính nam giới, những người kết thúc việc này.
Do đó hãy hướng PCBLGĐ về phía đàn ông, đối tượng chủ yếu của hành vi
bạo lực gia đình.
Với ý thức của rất nhiều người, việc đối mặt với vấn nạn bạo lực gia đình,
điều quan trọng là cứu giúp người phụ nữ thoát khỏi hoàn cảnh của họ. Rất nhiều
người đàn ông không bao giờ có quan niệm về bạo lực gia đình và không sử dụng
bạo lực tại gia đình
2.3.2.2. Những giải pháp cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong
việc nâng cao hiệu quả PCBLGĐ đối với phụ nữ xã Yên Cường, huyện Bắc Mê,
tỉnh Hà Giang.
- Tổ chức triển khai các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến
gia đình và PCBLGĐ như: Luật PCBLGĐ năm 2007; luật bình đẳng giới_2006; chỉ
thị số 49/2005/CT – TW về phát triển gia đình Việt Nam 2005; chỉ thị số
16/2008/CT – TTG về thực hiện luật phòng chống bạo lực gia đình 2008; Nghị
Định số 08/2009/NĐ – CP hướng dẫn chi tiết thực hiện luật phòng chống bạo lực
gia đình 2007; Nghi Định số 55/2009/NĐ – CP hướng dẫn sử phạt vi phạm hành
chính luật bình đẳng giới 2009… đến cán bộ, cộng tác viên làm công tác
PCBLGĐ và cộng đồng.
- Xây dựng quỹ PCBLGD để truyển khai các hoạt động tuyên truyền và trợ
giúp các nạn nhân khi có bạo lực.
- Xây dựng và triển khai các đề án, kế hoạch trong lĩnh vực PCBLGĐ như
:Xây dựng ngôi nhà chung để các nạn nhân có thể lánh nạn khi có bạo lực xảy ra;
xây dựng các đường dây nóng nhằm hổ trợ và can thiệp kịp thời khi cần sự giúp
đỡ;…
- Tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức và tăng
cường sự ủng hộ của cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tổ chức
xã hội và tăng cường đầu tư nguồn lực cho hoạt động này.
- Đối với Hội phụ nữ, cần đề cao vị trí, vai trò của các cấp Hội trong việc
tuyên truyền pháp luật về PCBLGĐ. Hội phụ nữ phối hợp với cơ quan chức năng
tổ chức các khoá tập huấn nâng cao cho chị em phụ nữ các cấp về kỹ năng tư vấn,

hoà giải và kỹ năng tự bảo vệ mình và gia đình mình trong các tình huống bạo lực
gia đình.
22


- Đối với Đoàn thanh niên, cùng phối hợp với cơ quan quản lý, cơ quan chức
năng tổ chức tuyên truyền về chính sách, pháp luật về PCBLGĐ trong thế hệ trẻ về
kỹ năng tư vấn, xử lý và phòng ngừa bạo lực gia đình, tránh để xảy ra bạo lực gia
đình nhất là bạo lực gia đình đối với phụ nữ khi xây dựng gia đình.
- Nâng cao năng lực về PCBLGĐ đối với phụ nữ cho cán bộ phòng Văn hóá
thông tin huyện Nông Sơn và các ban ngành, đoàn thể có liên quan
- Tổ chức tập huấn cho cán bộ trong ban văn hóa thông cấp xã và phồng văn
hóa thông tin cấp huyện về chương trình nhập dữ liệu, phân tích và xử lý thông tin
liên quan đến PCBLGĐ.
- Phân tích, đánh giá và báo cáo về thực trạng BLGĐ và hiệu quả của các biện
pháp can thiệp.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý những trường hợp bạo lực gia đình
đối với phụ nữ
- Hoạt động kiểm tra, giám sát sẽ giúp cho tình hình bạo lực gia đình cải thiện
đáng kể. Chính quyền xã nên thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát, đánh giá
định kỳ theo quý hoặc sau khi đưa ra một kế hoạch, chính sách về phòng, chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
- Đối với những trường hợp bạo lực gia đình đối với phụ nữ chỉ mới xảy ra
lần đầu, cơ quan có thẩm quyền nên tiến hành hòa giải. Nếu trường hợp vẫn còn
tiếp tục tiếp diễn thì đưa ra quần chúng nhân dân góp ý. Căn cứ vào những tình tiết
vi phạm mà có những biện pháp xử phạt hợp lý.
- Đối với những trường hợp do cố ý vi phạm nhiều lần mặc dù đã được đưa ra
góp ý trước cộng đồng, thì tiến hành các biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Về mô hình PCBLGĐ đối với phụ nữ: tiếp tục củng cố, duy trì và thường
xuyên rà sát các hoạt động của mô hình PCBLGĐ đối với phụ nữ tại các thôn

- Về cơ sở vật chất hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình: Phòng văn hóa thông tin
Huyện, phối hợp với các phòng, ban, ngành, đoàn thể có liên quan để xây dung cơ
sở vật chất, thực hiện việc chăm sóc, tư vấn tâm lý, bố trí nơi tạm lánh và hỗ trợ
các điều kiện cần thiết khác cho nạn nhân bạo lực gia đình đối với phụ nữ, theo
quy định

KẾT LUẬN

23


Trong thời gian qua, công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Yên Cường,
huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang đặc biệt quan tâm thực hiện và bước đầu đã đạt được
một số hiệu quả nhất định. Tình trạng bạo lực trong năm 2017 đã có su hướng giảm so
với các năm trước. Người dân được tuyên truyền bạo lực trên mọi phương diện, và đa
số người dân trong xã đều được tiếp cận với các nội dung về bạo lực gia đình và biết
cách phòng chống bạo lực gia đình đối với chính bản thân, người thân và hàng xóm
xung quanh. Tư tưởng lạc hậu được đả thông bằng những tư tưởng văn minh, hiện đại.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó, công tác PCBLGĐ vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế, thiếu sót, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế xã hội đặt ra do vậy tình
trạng bạo lực gia đình vẫn tồn tại phổ biến với mức độ và hình thức ngày càng phức tạp
hơn.
Vì vậy, việc Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã Yên Cường,
huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang có ý nghĩa vô cùng quan trọng đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực
hiện nền kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hoá xã hội và hội nhập mọi mặt
trong khu vực và toàn cầu, xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại, đem lại cuộc
sống hạnh phúc cho nhân dân. Trong những năm gần đây tình trạng bạo lực tại tỉnh
hà Giang nói chung và xã Yên Cường nói riêng đang có xu hướng giảm rõ rệt. Đó

là công lao của chính quyền địa phương, của tất cả người dân trong xã đã cùng
nhau tuyên truyền chống lại bạo lực gia đình đối với phụ nữ, nâng cao vai trò của
người phụ nữ và góp phần làm cho mỗi gia đình hạnh phúc, cả xã hội văn minh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình
/>2. Giáo trình nhập môn công tác xã hội- người biên soạn T.S. Bùi Thị Xuân
Mai. Năm 2012
/>3. Bạo lực gia đình và các hình thức bạo lực gia đình
24


/>4. Khóa luận phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn,
tỉnh Quảng Nam, Nguyễn Phước Trung
5. Báo cáo sơ bộ quý 3 của xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang

25


×