Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN VĂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO Ở TỈNH LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.75 KB, 103 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG THỊ NHƯ QUỲNH

KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Ở TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG THỊ NHƯ QUỲNH

KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN
NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Ở TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 83 10 102

Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN ĐỨC CHÍNH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả Luận văn

Hoàng Thị Như Quỳnh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH,HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HTX

: Hợp tác xã

NNCNC

: Nông nghiệp công nghệ cao

KTTT

: Kinh tế tập thể

KHCN

: Khoa học công nghệ


THT

: Tổ hợp tác

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
CÔNG NGHỆ CAO
1.1. Khái niệm và sự cần thiết phải phát triển nông nghiệp công nghệ
cao tại khu vực kinh tế tập thể
1.2. Các hình thức tổ chức phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong
kinh tế tập thể, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng
1.3. Kinh nghiệm về kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp công
nghệ cao của một số tỉnh
Chương 2 THỰC TRẠNG KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO Ở TỈNH LÂM ĐỒNG
2.1. Những lợi thế và bất lợi về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của
Lâm Đồng đối với kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp công
nghệ cao
2.2. Tình hình kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp công nghệ
cao ở tỉnh Lâm Đồng từ năm 2011 đến nay
2.3. Đánh giá thực trạng kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp
công nghệ cao ở tỉnh Lâm Đồng
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
CÔNG NGHỆ CAO Ở TỈNH LÂM ĐỒNG ĐẾN NĂM 2025
3.1. Dự báo và phương hướng hoàn thiện trong phát triển nông nghiệp
công nghệ cao ở tỉnh Lâm Đồng đến năm 2025
3.2. Giải pháp hoàn thiện kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp
công nghệ cao ở tỉnh Lâm Đồng
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
8

8
27
40
49

49

56
69

79

79
87
97



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế tập thể (KTTT) là một hình thức kinh tế được hình thành đầu tiên
ở Châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII gắn với cuộc cách mạng công nghiệp và sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đến nay, hình thức kinh tế
này đã có lịch sử hơn 200 năm và trở thành phổ biến ở hầu hết các nước trên thế


giới. Ở Việt Nam, phát triển KTTT là một nội dung trong đường lối, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Trong công cuộc đổi mới,
KTTT được coi là một bộ phận cấu thành nền kinh tế nhiều thành phần, có vai
trò quan trọng, cùng với kinh tế nhà nước là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Nhiều chủ trương, chính sách đổi mới để phát triển KTTT đã được nhà nước ban
hành và đi vào cuộc sống. Chính sách KTTT trong phát triển nông nghiệp công
nghệ cao (NNCNC) là một phương diện trong hệ thống chủ trương, chính sách
này và đã được áp dụng trong cả nước.
Lâm Đồng là tỉnh có tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên và nguồn
nhân lực phù hợp để phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô hàng hoá với các
loại nông đặc sản ưu thế so với các vùng khác, như cây công nghiệp dài ngày
(chè, cà phê, dâu tằm…), bò sữa, cá nước lạnh, rau, hoa, quả cao cấp có nguồn
gốc ôn đới và á nhiệt đới. Đây cũng là một trong những điều kiện quan trọng để
tỉnh Lâm Đồng có sự quan tâm đặc biệt đến quá trình hình thành và phát triển
của KTTT nói chung và đặc biệt là KTTT trong NNCNC nói riêng gắn với
Chương trình xây dựng nông thôn mới. Do vậy, thời gian qua tỉnh Lâm Đồng đã
có sự đầu tư nhất định cho các loại hình KTTT thông qua các đề án như: Đề án
đổi mới và phát triển KTTT trong nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2012 –
2015, Đề án phát triển kinh tế hợp tác tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020, Quỹ hỗ trợ
phát triển Hợp tác xã tỉnh Lâm Đồng... Đến nay tỉnh Lâm Đồng có 02 Liên hiệp
Hợp tác xã, 273 HTX, trong đó có 183 HTX nông nghiệp. Qua hoạt động, đã
xuất hiện nhiều HTX, tổ hợp tác (THT) trong NNCNC liên kết có hiệu quả với

các hệ thống siêu thị trong và ngoài nước như: Hợp tác xã Anh Đào, Tân Tiến,
Hợp tác xã Xuân Hương...đã góp phần ngày càng nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả các mặt hàng nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống cho xã
viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, hình thức KTTT trong phát
triển NNCNC ở tỉnh Lâm Đồng vẫn chưa ra khỏi những khó khăn, thách thức về
vốn, công nghệ, lựa chọn việc sản xuất, hình thức liên kết để đạt hiệu quả kinh


tế cao. Nhiều HTXNNCNC vẫn chưa thích ứng được với cơ chế thị trường, hoạt
động chưa hiệu quả, đem lại lợi ích cho thành viên chưa nhiều, đặc biệt là trong
khâu liên kết chế biến và tiêu thụ sản phẩm, hướng dẫn ứng dụng khoa học, kỹ
thuật; chưa kịp thay đổi phương thức hoạt động theo luật năm 2012, tư duy hoạt
động còn theo phương thức cũ. Đa số HTX NNCNC mới chỉ tập trung hoạt
động dịch vụ đầu vào, chưa có nhiều HTX tổ chức hoạt động khép kín từ khâu
dịch vụ đầu vào - tổ chức sản xuất - giải quyết đầu ra cho sản phẩm; khó khăn về
đất làm trụ sở; số lượng thành viên trong HTX còn thấp, quy mô còn nhỏ lẻ; số
lượng thành viên thực sự sử dụng các dịch vụ của HTX lại hạn chế, năng lực
quản lý cũng như nghiệp vụ tổ chức sản xuất kinh doanh chưa cao, khó khăn
trong khả năng cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác có cùng loại hình
dịch vụ…
Với những hạn chế nêu trên, việc đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò và
tầm quan trọng của KTTT trong phát triển NNCNC và có nhận thức đúng đắn về
HTX nông nghiệp kiểu mới là cần thiết, nhằm nâng cao năng lực quản trị, tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX. Tiếp
tục tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về lĩnh vực kinh tế tập thể trong phát triển NNCNC đến rộng rãi người
dân, các cấp, các ngành, địa phương, các hội và đoàn thể để đẩy mạnh hơn nữa
phát triển KTTT trên địa bàn tỉnh.
Nhằm góp phần vào giải quyết vấn đề trên, học viên lựa chọn đề tài

“Kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở tỉnh Lâm
Đồng”để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT là một trong những vấn
đề được Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, được nhiều nhà khoa học và nhà tổ
chức thực tiễn nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau.
Trong đó nhiều công trình đã được công bố như:


- Đề tài khoa học: “Kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Hoàng Kim Giao (chủ nhiệm) (1997), đã phân tích một số vấn đề lý luận về kinh
tế hợp tác, các loại hình kinh tế hợp tác, vai trò của nhà nước đối với khu vực
kinh tế hợp tác và nêu kiến nghị phát triển phong trào hợp tác hóa ở nước ta theo
mô hình HTX kiểu mới.
- Đề tài khoa học: “Rào cản trong phát triển các HTX ở Việt Nam”, tác giả
Đặng Ngọc Lợi (2010), dựa vào nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn về quá
trình vận động và phát triển của các hình thức hợp tác, các mô hình HTX ở Việt
Nam, kinh nghiệm một số quốc gia để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
của mô hình này giai đoạn trước Đổi mới đến năm 2009, rút ra những kết quả đạt
được, những hạn chế nguyên nhân, tìm kiếm những rào cản làm cản trở quá trình
phát triển của HTX, đề xuất các giải pháp nhằm tháo gỡ các rào cản, thúc đẩy
phát triển các HTX ở Việt Nam trong thời gian tiếp theo.
- Cuốn: “Chế độ kinh tế hợp tác xã, những vấn đề lý luận và giải pháp
thực tiễn” của GS Lê Xuân Tùng và GS Lưu Văn Sùng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 1999.
- Cuốn “Nông nghiệpViệt Nam trong thời kỳ hội nhập” của TS Nguyễn Từ,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, nghiên cứu về những thách thức, vấn đề
đặt ra và giải pháp phát triển nông nghiệp nước ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế
quốc tế, trong đó chú ý đến giải pháp thúc đẩy phát triển NNCNC.
- Cuốn "Kỷ yếu Hội thảo phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Việt

Nam" tập hợp các bài viết cho Hội thảo phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại
Việt Nam do tạp chí Hoạt động Khoa học - Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp
với Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 24/10/2007 tại Hà Nội
nhằm cung cấp những tư liệu cần thiết cho các cấp quản lý, các cơ quan khoa học
và công nghệ những tri thức và kinh nghiệm về phát triển NNCNC.
- Bài viết: “Nông nghiệp và nông dân Việt Nam phải làm gì để hội nhập
kinh tế quốc tế”: của GS, TSKH Võ Tòng Xuân đăng trên Tạp chí Cộng sản số
785 (3/2008), nêu các giải pháp ứng dụng, phát triển NNCNC khi Việt Nam là


thành viên chính thức của WTO. Bài “Nghiên cứu mô hình nông nghiệp công
nghệ cao và giải pháp phát triển ở Việt Nam”, của Nguyễn Văn Tuất, Phạm
Quang Duy và Nguyễn Quốc Thịnh, đăng trên Tạp chí Khoa học và công nghệ
nông nghiệp Việt Nam, số 1/2010.
- Bài viết: “Triển vọng phát triển khu vực KTTT với luật hợp tác xã 2012”
của PGS, TS Nguyễn Minh Tú đặng trên tạp chí Kinh tế và dự báo, năm 2013 số
6, trang 3-5, nhận định: Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 thay thế Luật HTX
2003, đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2013, được kỳ
vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn và mang lại nhiều triển vọng cho khu vực
KTTT.
- Bài viết: “Tiếp tục đẩy mạnh, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT,
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX” của tác giả
Vương Đình Huệ đăng trên tạp chí Cộng sản số 849 (tháng 7 năm 2013), bàn về
việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT sau 10 năm tổ chức
thực hiện Nghị quyết, khu vực KTTT đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có
những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu, việc
phát triển KTTT vẫn chưa thoát khỏi được những yếu kém kéo dài, những hạn
chế tồn tại của khu vực kinh tế này còn chậm được khắc phục.
- Bài viết: “Cơ sở khoa học của sự phát triển kinh tế nhà nước và KTTT ở
nước ta hiện nay”, tác giả Trần Thành, đăng trên tạp chí Triết học, số 6 (277),

tháng 6- 2014, bài viết tập trung làm rõ phát triển kinh tế nhà nước cùng với
KTTT ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân là một
chủ trương lớn của Đảng ta trong đổi mới. Việc luận giải để khẳng định căn cứ
khoa học của chủ trương đúng đắn trên có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt
tạo sự đồng thuận xã hội rộng rãi trong thực hiện; mặt khác kích thích sự nghiên
cứu, tìm kiếm, thử nghiệm các hình thức KTTT, kinh tế nhà nước cho phù hợp
với từng điều kiện lịch sử cụ thể thể hiện ngày càng rõ tính hiệu quả, tính ưu việt
của những hình thức kinh tế đó.


- KTTT trên địa bàn tỉnh Hải Dương: thực trạng và giải pháp, luận văn
thạc sỹ khoa học kinh tế của tác giả Lê Thúy Hường, Hà Nội năm 2003.
Nhìn chung, các nghiên cứu khoa học và bài viết trên đã khẳng định được
vai trò và vị trí của KTTT trong nền kinh tế thị trường và trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta. Đây là những nguồn tài liệu bổ ích cho nghiên cứu của tác
giả.Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống
về KTTT trong phát triển NNCNC ở tỉnh Lâm Đồng dưới góc độ kinh tế chính
trị. Bởi vậy, đề tài mà học viên lựa chọn là mới, không trùng với các công trình
khoa học đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận, nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn của một số
tỉnh để phân tích và đánh giá thực tiễn KTTT trong phát triển NNCNC tại tỉnh
Lâm Đồng từ năm 2011 đến nay, đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển
của hình thức tổ chức kinh tế này theo hướng ứng dụng và phát triển NNCNC
tại tỉnh Lâm Đồng đến năm 2025.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về KTTT trong phát triển NNCNC và tìm
hiểu kinh nghiệm thựctiễn của một số tỉnh về tổ chức hình thức kinh tế này, rút

ra bài học để tỉnh Lâm Đồng có thể tham khảo.
- Phân tích và đánh giá thực trạng KTTT trong phát triển NNCNC tại tỉnh
Lâm Đồng giai đoạn 2011 – 2018, chỉ ra kết quả đạt được, hạn chế và nguyên
nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách
bảo đảm phát triển NN theo hướng CNC tại khu vực KTTT ở tỉnh Lâm Đồng
đến năm 2025.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về KTTT mà chủ yếu là các HTX trong phát triển
NNCNC trên lĩnh trồng trọt và chăn nuôi cung cấp lương thực, thực phẩm cho
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đặt trong chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trước những thách thức của hội nhập
kinh tế quốc tế được Đảng và Nhà nước xác định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận cơ bản về KTTT
trong phát triển NNCNC.
- Về không gian: Nghiên cứu thực tiễn hoạt động của thành phần KTTT
mà nòng cốt là HTX góp phần đẩy mạnh phát triển NNCNC ở tỉnh Lâm Đồng,
một tỉnh có nhiều lợi thế trong phát triển nông nghiệp của Việt Nam.
- Về thời gian: Phân tích và đánh giá thực trạng giai đoạn 2011-2018; đề
xuất phương hướng và giải pháp đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn xuất phát từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin
để nghiên cứu về cơ sở lý luận; căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm,
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn kiện, Nghị quyết,
các chủ trương, chính sách của Nhà nước để nghiên cứu thực tiễn. Đồng thời, kế

thừa có chọn lọc kết quả của các công trình khoa học đã công bố có liên quan
đến đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu chính gồm: phương pháp trừu tượng
hoá, logic kết hợp với lịch sử… Để nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả sử dụng
phương pháp thu thập tài liệu và điều tra, khảo sát thực tế. Ngoài ra, luận văn còn
sử dụng một số phương pháp như thống kê, so sánh, mô hình hóa, xác lập bảng
biểu để làm rõ đối tượng nghiên cứu.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận, đề tài luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về
KTTT trong phát triển NNCNC đáp ứng yêu cầu của những tiến bộ mới về khoa
học, công nghệ và phát triển nông nghiệp bền vững.
- Ý nghĩa thực tiễn, phân tích, đánh giá thực trạng KTTT trong phát triển
NNCNC ở tỉnh Lâm Đồng, những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân; đề
xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển NNCNC
trong khu vực KTTT trên địa bàn tỉnh thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn được kết cấu làm 3 chương, 08 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về KTTT trong phát
triển NNCNC
Chương 2: Thực trạng hoạt động của KTTT trong phát triển NNCNC ở
tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2011-2018
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện KTTT trong phát triển
NNCNC ở tỉnh Lâm Đồng.


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ
TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
1.1. KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO TẠI KHU VỰC KINH TẾ TẬP THỂ
1.1.1. Kinh tế tập thể và đặc điểm của kinh tế tập thể trong phát triển
nông nghiệp công nghệ cao
1.1.1.1.Khái niệm về kinh tế tập thể và các hình thức của kinh tế tập thể
* Khái niệm kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể mà nòng là cốt HTX một hình thức tổ chức kinh tế được ra
đời từ rất sớm ở các nước, trong đó tiền thân là các HTX ở nước Anh được thành
lập vào năm 1761 do những người thợ dệt vải lập ra với tên gọi là “Hội làm vải
cho tốt và bán giá trung bình trong làng xóm”. Năm 1769, tại Bắc Scotland, 12
thợ dệt đã hùn vốn tổ chức một HTX tiêu dùng đầu tiên buôn bán bột lúa mạch.
Sau đó hàng trăm HTX tiêu dùng được ra đời, những HTX này thành lập trên cơ
sở cổ phần của các thành viên thợ thủ công, công nhân và các công chức cấp
thấp. Họ thành lập HTX một cách tự nguyện nhằm để bảo vệ người tiêu dùng
trong tổ chức mình trước nạn tăng giá, làm hàng giả của bọn tư sản thương mại.
Hình thức hoạt động thời gian này của các HTX chủ yếu trên cơ sở tự nguyện
của người dân chưa có pháp luật, chưa có điều lệ HTX để ràng buộc các thành
viên. Đến giữa thế kỷ thứ XIX vào những năm 1844 ở nước Anh, 28 thợ dệt
trong Rochdale làng tiến hành lập HTX tiêu dùng gọi là “Hội của những người
khởi đầu về sự công bằng ở Rochdale” họ đưa ra các nguyên tắc và điều lệ cơ
bản cho hoạt động của HTX và gọi là nguyên tắc Rochdale.
Năm 1895, tại Luân Đôn nước Anh, Liên minh các HTX quốc tế
(International Coopative Alliance - ICA) được thành lập với sự tham gia của 82


nước với gần 700 triệu xã viên. Liên minh các HTX quốc tế đã phê chuẩn và sử
dụng các nguyên tắc Rochdale cho hoạt động của mình cho đến tận ngày nay.
Tại Châu Á các nước như: Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan… các HTX cũng

lần lượt được hình thành và phát triển kể từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Cùng với sự ra đời của các HTX ở những nước này, đồng thời Luật HTX cũng
được ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX phát triển. Đến nay
các hình thức HTX đã trở nên phổ biến trong các nền kinh tế ở cả các nước phát
triển và đang phát triển. Hình thức tổ chức và tên gọi của các HTX ở các quốc
gia tuy không giống nhau, nhưng đều có chung một mục đích là hướng vào giúp
đỡ lẫn nhau, làm sao cho ai trồng được cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì
phải trồng cây.
Ở nước ta, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến phong
trào hợp tác hóa và Người đã có những bài phát biểu, tham luận về HTX. Bác
nhắc đến một câu tục ngữ Việt Nam rất hay nói về sự đoàn kết, hợp tác: “ Nhóm
lại thành giàu, chia nhau thành khó”, “Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây
nhóm lại thành hòn núi cao” và Người khẳng định lý luận HTX đều ở những
điều ấy. Sau đó, KTTT được hình thành ở miền Bắc nước ta sau hòa bình lập lại
năm 1954 và trên phạm vi cả nước sau khi thống nhất đất nước năm 1975 với
các hình thức đa dạng từ thấp đến cao như: tổ đổi công, tổ vần công, THT, HTX
cấp thấp, HTX cấp cao.
Khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới năm 1986, những nhận thức mới
về KTTT dần được hình thành đã làm cơ sở cho đổi mới phương thức thành lập
và hoạt động của các loại hình KTTT. Trải qua nhiều thăng trầm trong phát triển,
đến nay KTTT đang là một trong những thành phần kinh tế có vai trò quan trọng
cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.
Thực tế nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trong xây dựng CNXH ở
nước ta, tại Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX


(năm 2001) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT Đảng ta
đã nêu lên quan niệm về KTTT như sau:
“Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp

tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi
những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một
số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ
tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành
viên KTTT bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và người có nhiều
vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ” [16 Tr 30].
Từ khái niệm trên cho thấy KTTT là thành phần kinh tế dựa trên hình
thức sở hữu tập thể, phân phối theo lao động, vốn góp và mức độ tham gia dịch
vụ của xã viên. Nguyên tắc hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
cùng có lợi và quản lý dân chủ. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX dựa trên sở
hữu của các thành viên, vừa dựa trên sở hữu tập thể, là hình thức liên kết rộng
rãi không những đối với người lao động mà cả các hộ sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. HTX phân phối không những theo lao động mà cả
theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động với tư cách pháp nhân trên
cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Ngoài ra, cũng có nhiều văn bản đề cập đến kinh tế tập thể như: Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), tại Điều 20 đã khẳng định: “Kinh
tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ
chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi”.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học: “Tập thể là tập hợp những
người có quan hệ gắn bó, cùng sinh hoạt hoặc cùng làm việc chung với nhau”
[58].


Theo Luật Hợp tác xã năm 2012, tại Khoản 1, Điều 3 quy định: “Hợp tác
xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân”.
Như vậy, KTTT là do ít nhất ba công dân tự nguyện góp vốn, góp sức hợp
tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự

nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Hiện nay, trong xu hướng vận động và phát
triển chung của nền kinh tế quốc dân, KTTT ngày càng được củng cố và phát
triển; thành phần kinh tế này sẽ là hình thức tổ chức kinh tế phổ biến. Vì vậy, tại
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục dành sự quan tâm cho KTTT khi nêu
rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của KTTT, kinh tế
HTX; Đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương
thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính
sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ
thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế
HTX trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ”.
* Các hình thức của kinh tế tập thể
Theo quan điểm cá nhân của nhiều nhà lý luận và học giả về HTX thì
KTTT gồm rất nhiều thành phần và tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, văn bản có
tính chất pháp lý của Tổng cục Thống kê tại Quyết định số 147/TCTK –PPCĐ,
ngày 27/12/1993 quy định: “Thành phần KTTT bao gồm các tổ chức kinh tế
(thường gọi là các HTX) được thành lập trên cơ sở tự nguyện góp vốn sản xuất,
kinh doanh của những người sản xuất và tiêu dùng, quyền sở hữu thuộc về tập
thể các thành viên (thường gọi là xã viên) tham gia góp vốn. Như vậy, thuộc
thành phần KTTT gồm có: các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất giống như
HTX, liên doanh, liên kết giữa các đơn vị KTTT với nhau, các doanh nghiệp
hoạt động trên cơ sở góp vốn của các hộ công nhân viên thuộc các cơ quan,
đoàn thể và tổ chức hiệp hội.
Cụ thể căn cứ vào tính chất, mức độ gắn kết của quan hệ hợp tác, lĩnh vực
hoạt động, mục đích của các chủ thể tham gia hợp tác và trình độ pháp lý trong


cơ chế điều hành các quan hệ hợp tác giữa các thành viên tham gia với nhau có
thể phân chia KTTT thành các hình thức sau đây:
- Một là, tổ hợp tác:
Đây là hình thức đầu tiên, thấp nhất của KTTT. Về bản chất, nó là sự kết

hợp của các cá nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh để tạo ra sức mạnh lớn hơn
sức mạnh của tập thể, nhằm thực hiện những công việc mà từng cá nhân, đơn vị
riêng lẻ khó hoặc không thể thực hiện được mà nếu có thực hiện được thì cũng
kém hiệu quả so với tiến hành hợp tác.
C. Mác viết:
Cái hình thức lao động, trong đó có nhiều người làm việc theo kế hoạch
bên cạnh nhau và cùng với nhau trong quá trình sản xuất, hay trong những quá
trình khác nhau gắn liền với nhau thì gọi là hợp tác; trong tất cả các trường hợp
ấy, lao động của từng người riêng rẽ không thể nào đạt tới kết quả lao động
chung hoặc chỉ đạt tới sau một thời gian rất lâu, hoặc qui mô rất nhỏ. Ở đây, vấn
đề không chỉ là nâng cao sức sản xuất cá nhân bằng sự hiệp tác, mà còn tạo ra
sức sản xuất tự nó đã là một sức tập thể rồi [11, tr 473].
Như vậy, sự ra đời của THT xuất phát từ nhu cầu khách quan và là hình
thức tất yếu nảy sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của con
người.
Theo C. Mác: Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với
nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với
nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ nhất định với
nhau và quan hệ của họ với giới hạn tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra
trong khuôn khổ và những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó. [12, tr 552].
Mặt khác, khi loài người sống thành cộng đồng, có tổ chức thì nhu cầu
hợp tác đã diễn ra. Sự hợp tác phối hợp hoạt động với nhau trong chinh phục tự
nhiên, trong lao động sản xuất và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó,
khái niệm hợp tác được dùng phổ biến cho nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.


Còn kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp hơn, chỉ phạm vi hợp tác trong lĩnh vực
kinh tế, là sự tự nguyện hỗ trợ, phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể
kinh tế. Theo C. Mác: “ sức sản xuất đặc biệt của ngày lao động kết hợp là sức
sản xuất xã hội của lao động. Sức sản xuất đó nảy sinh từ chính ngay sự hợp tác”

[11, tr 478].
Như vậy, thực tế cho thấy so với sản xuất cá thể, hình thức hợp tác có
những ưu thế là tiết kiệm được tư liệu sản xuất, kích thích thi đua nên nâng cao
năng suất lao động, mở rộng hoặc thu hẹp không gian khi cần thiết và khắc phục
một số mặt yếu kém của kinh tế hộ đơn lẻ, như: thiếu vốn, công cụ, kỹ thuật và
kinh nghiệm sản xuất; giúp kinh tế tổ viên tăng sức cạnh tranh thị trường và
nâng cao năng lực hoạt động kinh tế; giúp các hộ tổ viên sử dụng có hiệu quả
hơn về đất đai, lao động, vật tư và tiền vốn; tiếp nhận những thông tin, tiến bộ
khoa học, kỹ thuật góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh của kinh tế
hộ.
Sự phát triển của các hình thức, tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng
thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, phân
công lao động xã hội và chuyên môn hóa ngày càng sâu, rộng thì nhu cầu về hợp
tác lao động ngày càng tăng và mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở
rộng. Đây là sự vận động tất yếu của sự phát triển sản xuất xã hội và là xu hướng
phát triển các hình thức xã hội hóa sản xuất mà không ai hay bất kỳ một lực lượng
nào có thể cưỡng lại được.
Như vậy, tổ hợp tác chính là nhân tố quan trọng, bước đầu, làm cơ sở để
thành lập tổ chức HTX. Thực tiễn cho thấy, phần lớn các HTX được hình thành
từ các tổ hợp tác hoạt động có tổ chức, hiệu quả rồi tiến hành thành lập HTX thì
đều hoạt động tốt, phát triển bền vững hơn. Hiện nay, tổ hợp tác được quy định
bởi Bộ luật dân sự năm 2005 (Bộ luật dân sự năm 2005 được thay thế bằng Bộ
luật dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017) và Nghị định số
151/2007/NĐ – CP của Chính phủ, ban hành ngày 10/10/2007.


- Hai là, Hợp tác xã:
Hợp tác xã là hình thức KTTT phát triển ở trình độ cao hơn kinh tế hợp
tác giản đơn. Trên bình diện thế giới, theo Liên minh HTX quốc tế, Vương quốc
Anh đã định nghĩa HTX như sau: “Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những

người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của
họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý
dân chủ” [5].
Định nghĩa về HTX cũng được Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng:
HTX như một hiệp hội của những người tự nguyện liên kết với nhau để đạt mục
đích chung thông qua việc hình thành một tổ chức được kiểm soát một cách dân
chủ, thực hiện những đóng góp công bằng đối với yêu cầu về vốn và chấp nhận
chia sẻ hợp lý những rủi ro, lợi ích của doanh nghiệp mà trong đó các thành viên
tham gia một cách tích cực [4].
Ở nước ta, khái niệm HTX ra đời và được sử dụng trong các văn bản của
Đảng và Nhà nước từ Đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Song khái
niệm này đôi khi bị lạm dụng và được mở rộng ra nhiều lĩnh vực, không được
giới hạn ở những quan hệ hợp tác kinh tế có xu hướng phát triển thành HTX,
thậm chí có người còn cho rằng quan hệ giữa chủ tư nhân và người làm thuê
cũng là hợp tác.
Sau đó, khái niệm HTX được khẳng định trở lại khi Quốc Hội khóa IX
ban hành Luật HTX tháng 3/1996, lần đầu tiên nêu ra nội dung hoàn chỉnh về
HTX trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Điều 1 của Luật HTX
định nghĩa như sau:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu,
lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp
luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên, nhằm giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải
thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước [32]. Hợp tác xã


hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện gia nhập và ra HTX, quản lý dân chủ và
bình đẳng; tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; chia lãi đảm bảo kết hợp giữa lợi
ích của xã viên và sự phát triển của HTX; hợp tác và phát triển cộng đồng.
Đến ngày 26 tháng 11 năm 2003, kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã

thông qua Luật HTX sửa đổi bổ sung năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2004 thay thế Luật HTX năm 1996, đã định nghĩa như sau:
Hợp tác xã là tổ chức KTTT do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau
đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên
tham gia HTX, cùng giúp đỡ nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất
kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Vì vậy, HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có
tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong
phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định
của pháp luật.
Hiện nay, tại kỳ họp thứ 4 ngày 20 tháng 11 năm 2012, Quốc hội đã thông
qua Luật hợp tác xã năm 2012 và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2013.
Luật HTX năm 2012 quy định: “Hợp tác xã là tổ chức KTTT, đồng sở hữu, có tư
cách pháp nhân, do ít nhất 7 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ
lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu
cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và
dân chủ trong quản lý hợp tác xã…”
Với khái niệm trên, Luật hợp tác xã năm 2012 đã chú trọng nhấn mạnh
hơn về tính cộng đồng, hợp tác của HTX; nhất là các HTX nông nghiệp, cần
phải lấy mục tiêu phục vụ thành viên làm mục tiêu hoạt động chính của HTX
mình; đồng thời làm rõ hơn về tài sản chung không chia của HTX. Luật HTX
năm 2012 và các văn bản dưới luật cơ bản phù hợp nhằm khuyến khích, tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển HTX mới; định hướng phát triển HTX hiện đang hoạt


động theo đúng bản chất HTX; đáp ứng yêu cầu và lợi ích của thành viên tham
gia HTX.
- Ba là, Liên hiệp Hợp tác xã:
Theo Luật hợp tác xã sửa đổi bổ sung năm 2003, Luật quy định:

Liên hiệp hợp tác là tổ chức kinh tế do các HTX (bao gồm các HTX thuộc
các ngành nghề và lĩnh vực khác nhau thay vì chỉ có các HTX trong một ngành
nghề và lĩnh vực như: Luật hợp tác xã năm 1996 quy định) tự nguyện liên kết
thành lập, hoạt động theo nguyên tắc HTX, đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng
ký kinh doanh cấp tỉnh và xác định liên minh HTX là tổ chức kinh tế xã hội
(thay vì là tổ chức phi chính phủ như Luật Hợp tác xã năm 1996 quy định) có
chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các HTX và liên hiệp HTX
thành viên.
Tại khoản 2, Điều 3 của Luật Hợp tác xã năm 2012, quy định: Liên hiệp
HTX là tổ chức KTTT, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 4 HTX tự
nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của HTX thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp HTX.
- Bốn là, liên minh hợp tác xã
Liên minh hợp tác xã là tổ chức kinh tế - xã hội do các HTX, liên hiệp
HTX tự nguyện cùng nhau thành lập. Liên minh HTX được tổ chức theo ngành
và các ngành kinh tế. Liên minh HTX được thành lập ở Trung ương và tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương.
Liên minh HTX có chức năng sau đây: đại diện bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các HTX và liên hiệp HTX thành viên; tuyên truyền vận động và
phát triển HTX; hỗ trợ cung cấp dịch vụ cần thiết cho sự hình thành và phát triển
của HTX, liên hiệp HTX, thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển HTX do
Chính phủ giao, đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX theo quy định của Chính phủ;
tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về HTX; đại diện cho HTX và liên hiệp


HTX trong quan hệ hoạt động phối hợp của các thành viên với các tổ chức trong
và ngoài nước theo quy định của pháp luật; quyền, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, tên
gọi và tài chính của liên minh HTX do điều lệ liên minh HTX quy định.
Hiện nay, Liên minh HTX Việt Nam là thành viên của tổ chức Liên minh

HTX quốc tế (ICA); Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ thế giới (WASME);
thành viên của Liên minh HTX khu vực Châu á Thái Bình Dương, Liên minh
HTX nghề cá quốc tế và cùng với Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam
(VCCI) là đối tác ba bên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) với trách nhiệm
đại diện cho giới sử dụng lao động trong khu vực kinh tế hợp tác, HTX ở Việt
Nam; có quan hệ hợp tác với 125 tổ chức quốc tế và tổ chức đại diện HTX ở các
nước.
Tóm lại, tính liên kết hợp tác không chỉ dừng lại trong nội bộ từng HTX
mà phát triển ra giữa các HTX trong cùng ngành nghề, cùng khu vực, lãnh thổ…
để hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên phong trào sâu rộng quy mô quốc gia, quốc tế. Trên
bình diện quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào HTX thế giới từ nửa cuối
thế kỷ XIX đã dẫn đến thành lập liên minh HTX quốc tế (ICA) vào năm 1895
nhằm thực hiện sứ mệnh liên kết, đại diện và hỗ trợ phong trào HTX trên toàn thế
giới. Ở qui mô quốc gia, các HTX liên kết với nhau tạo thành liên đoàn, liên minh
HTX cấp vùng, cấp quốc gia, trong các ngành, lĩnh vực và trên phạm vi toàn
quốc. Các liên đoàn, liên minh, liên hiệp HTX này đóng vai trò quan trọng, đại
diện các HTX thành viên trước các cơ quan chính quyền; bảo vệ quyền lợi của
các HTX; tham gia xây dựng cơ chế chính sách, môi trường pháp lý cho sự hình
thành và phát triển của các HTX.
1.1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp công
nghệ cao
Kinh tế tập thể được hình thành và phát triển ở nhiều ngành kinh tế khác
nhau như trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ… Trong nông nghiệp sự hình
thành và phát triển của kinh tế tập thể có những đặc điểm như sau:


* Về đối tượng sản xuất
Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống, cây trồng, vật nuôi,
chúng có những đòi hỏi riêng về điều kiện sinh trưởng và phát triển. Sản xuất
nông nghiệp nói theo nghĩa kinh tế là quá trình tạo ra sản phẩm mới, luôn gắn

liền và đi theo quá trình sinh học của các đối tượng trên. Vì vậy, con người
không thể làm thay hoặc bỏ qua các yếu tố về nước, ánh sáng, nhiệt độ và thời
gian sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi trong quá trình sản xuất, mà ngược lại
phải tìm mọi cách để đáp ứng tốt và đúng nhất những đòi hỏi bằng kinh nghiệm
cũng như sự hiểu biết của mình. Hiện nay cũng vậy, tiến bộ khoa học trong nông
nghiệp cũng không thể quên đi những hiểu biết về qui luật sinh trưởng, phát
triển của từng loại cây trồng, vật nuôi trong lúc tìm tòi và ứng dụng những thành
tựu mới vào sản xuất.
Nét đặc thù trong quá trình sản xuất nông nghiệp luôn diễn ra trong tự
nhiên và có tính thời vụ cao. Vì vậy, quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình
sản xuất kinh tế gắn bó chặt chẽ với quá trình tái sản xuất tự nhiên. Thời gian
sản xuất và thời gian hoạt động xen kẽ nhau, song không hoàn toàn trùng hợp
nhau đã sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp và tạo ra thời gian nông nhàn
của người nông dân. Vì thế, kết quả sản xuất chịu tác động trực tiếp của môi
trường, các nguồn lực có sẵn trong tự nhiên đất, nước, ánh sáng và thời gian lao
động của con người. Do đó, nếu những tác động này thuận lợi thì kết quả lao
động sản xuất thu được sẽ cao, nhưng ngược lại nếu tác động của những yếu tố
này không thuận lợi thì kết quả sản xuất là rất thấp. Đặc biệt, những thay đổi về
điều kiện tự nhiên diễn ra rất mạnh và khó lường trước, vì vậy mà kết quả của
sản xuất nông nghiệp thường biến đổi rất mạnh; hiện tượng mất mùa và được
mùa thường xuyên xảy ra đối với mỗi vùng, miền và mỗi đối tượng sản xuất qua
các vụ, các năm cũng khác nhau. Bên cạnh những yếu tố tự nhiên làm thay đổi
sản lượng, sản xuất nông nghiệp còn chịu tác động của các yếu tố dịch bệnh nảy
sinh ngay trong quá trình sản xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Qui luật


này cho thấy trong sản xuất người nông dân càng gia tăng năng suất, sản lượng
và qui mô sản xuất thì nguy cơ dịch bệnh tăng lên, đó là tác nhân gây ra những
thất bại khó lường của sản xuất nông nghiệp.
Đối với thị trường nông phẩm luôn diễn biến phức tạp hơn nhiều so với

các thị trường khác. Vì bên cung có rất nhiều chủ thể như hộ nông dân, HTX,
trang trại, doanh nghiệp… cùng tham gia sản xuất. Sự quyết định sản xuất của
mỗi chủ thể là không giống nhau trong đó, đặc biệt người nông dân với hiểu biết
về cơ chế thị trường còn thấp nên sự gia tăng hay giảm sản lượng của mỗi loại
sản phẩm trong nông nghiệp luôn biến động và phụ thuộc vào quyết định của
nhiều nhà sản xuất. Do vậy, sự tham gia thị trường với quá nhiều chủ thể sản
xuất là một trong những nguyên nhân gây ra biến động phức tạp của khối lượng
nông sản trên thị trường.
* Về tổ chức sản xuất
Chúng ta thấy, sản xuất nông nghiệp không thể diễn ra trên qui mô nhỏ về
không gian, bởi lẽ mỗi diện tích canh tác chỉ cho tối đa một lượng sản phẩm
theo năng suất của cây trồng, vật nuôi. Vì vậy muốn có khối lượng sản phẩm
nhiều để thảo mãn nhu cầu ngày càng tăng, con người buộc phải mở rộng diện
tích trồng trọt, nâng cao qui mô chăn nuôi cùng với việc nâng cao năng suất, sản
lượng trên một đơn vị diện tích. Trong khi đó, chủ thể tác động vào cây trồng,
vật nuôi là những người nông dân và cộng đồng xã hội đã sinh sống ở các vùng
mà sản xuất nông nghiệp diễn ra. Chính vì vậy, trong sản xuất nông nghiệp cùng
một đối tượng, nhưng lại khác nhau về qui mô canh tác, cách thức tác động vào
đối tượng sản xuất ở các vùng, miền sinh thái khác nhau. Do đó, tính đa dạng
của phương thức canh tác nông nghiệp ở từng cộng đồng dân cư và vùng sinh
thái khác nhau đã tạo ra sự phức tạp rất lớn của tổ chức và quản lý các hoạt động
sản xuất. Như vậy, nhìn trên góc độ kinh tế, hoạt động của hộ nông dân mang
những đặc điểm sau:


×