Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “nguyên nhân kết quả” trong nhận thức và giải quyết tư tưởng trọng nam khinh nữ trong xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.94 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BỘ MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC- LENIN

NHÓM 1

TƯ TƯỞNG TRỌNG NAM-KHINH NỮ
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
(VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN- KẾT QUẢ
TRONG NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ)

Thành viên: Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Hà Vân Anh, Trừ Thu
Trang,Lê Quốc Tuấn, Trần Đức Lương, Nguyễn
Vân Anh, Vũ Thị Hiền, Tạ Ngọc Anh, Nguyễn
Quỳnh Anh, Phạm Quốc Nam, Đào Phương Anh
Lớp :

4317B

Khóa:

43

HÀ NỘI- 2018


ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BỘ MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC- LENIN
NHÓM 1
TƯ TƯỞNG TRỌNG NAM-KHINH NỮ


TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
(VẬN DỤNG NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
CỦA CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN- KẾT QUẢ TRONG
NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ)
Thành viên:

Nguyễn Thị Quỳnh Nga (431732)
Lê Quốc Tuấn (431733)
Nguyễn Vân Anh (431734)
Trừ Thu Trang (431735)
Trần Đức Lương (431736)
Hà Vân Anh (431737)
Tạ Ngọc Anh (431738)
Vũ Thị Hiền (431739)
Nguyễn Quỳnh Anh (431740)
Phạm Quốc Nam (431741)
Đào Phương Anh (431742)

Lớp :

4317B

Khóa:

43


HÀ NỘI- 2018

MỤC LỤC:

Trang

MỞ ĐẦU............................................................................................................1
NỘI DUNG.........................................................................................................1
CHƯƠNG I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về cặp phạm trù
“Nguyên nhân – Kết quả”..............................................................................2
1. Những khái niệm cơ bản..................................................................2
1.1. Nguyên nhân..........................................................................2
1.2. Kết quả……...........................................................................3
2. Quan hệ biện chứng ……………………………............................3
3. Ý nghĩa phương pháp luận...............................................................4
CHƯƠNG II. Vận dụng nội dung và Ý nghĩa phương pháp luận của cặp
phạm trù “Nguyên nhân- Kết quả” trong nhận thức và giải quyết tư tưởng
trọng nam khinh nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay....................................5
1. Nhận thức………………………………………………………….5
1.1. Nguyên nhân………………………………………………..5
1.2. Kết quả……………………………………………………...7
2. Vận dụng quan hệ biện chứng giữa hai cặp phạm trù “Nguyên nhân
và Kết quả”..........................................................................................9
3.Vận dụng Ý nghĩa Phương pháp Luận trong giải quyết vấn đề......11
KẾT LUẬN.......................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son...”
Xã hội phong kiến phụ quyền từ lâu tồn tại hàng nghìn năm với những quan niệm

bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, quan niệm
trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã dành mọi ưu tiên, ưu
đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia
đình cũng như xã hội. Tư tưởng ấy tồn tại từ xa xưa đến tận ngày nay vẫn khó có thể
xóa bỏ được, là kết quả của nhiều nguyên nhân đã xuất hiện trong suốt cả một quãng
dài con đường lịch sử của xã hội loài người. Và tư tưởng ấy vẫn còn thể hiện khá rõ
ràng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Muốn xóa bỏ nó, ta cần phải xem xét một cách
toàn diện, nhiều khía cạnh của vấn đề đặc biệt là theo quan điểm của Chủ Nghĩa
Mác- Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa hai cặp phạm trù “Nguyên nhân” và
“Kết quả”. Bởi theo chỉ nghĩa Mác-Lenin, chỉ khi ta tìm hiểu căn nguyên gốc rễ của
một sự vật hiện tượng, ta mới có thể hiểu được nó; cũng như, ta chỉ có thể xóa bỏ
được nó khi phá bỏ được nguyên nhân của sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN VỀ
CẶP PHẠM TRÙ “NGUYÊN NHÂN- KẾT QUẢ”
1. Những khái niệm cơ bản
Trong phép biện chứng duy vật, ngoài các quy luật cơ bản còn có các cặp
phạm trù. Các cặp phạm trù được xem là các quy luật không cơ bản. Cùng với các


quy luật cơ bản, các cặp phạm trù cho ta một bức tranh tổng thể về các mối quan hệ
của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Trong cuộc sống hàng ngày, để giải quyết một vấn đề người ta thường đi tìm
nguyên nhân của nó. Thành công hay thất bại của hoạt động con người phải có
những nguyên nhân xác định.
• Phạm trù nguyên nhân, kết quả:
Phạm trù nguyên nhân: dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật, hiện tượng hoặc giữa sự vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra sự

biến đổi nhất định. (là đối tượng sinh ra đối tượng khác) hay còn được định
nghĩa là “sự tương tác giữa các đối tượng hay các yếu tố cấu thành đối
tượng”.
- Nguyên nhân không phải là sự tác động một chiều của đối tượng này đến
đối tượng khác, mà là sự tương tác của ít nhất hai đối tượng. Ăngghen
viết: “Tất cả những quá trình tự nhiên đều có hai mặt : chúng đều dựa vào
sự quan hệ ít nhất của hai bộ phận đang tác động, là tác động và phản tác
động”
- Nguyên nhân khác với nguyên cớ. Nguyên cớ là nguyên nhân giả tạo.
- Triết học Mác chia ra các loại nguyên nhân sau:
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.


Nguyên nhân bên trong là sự tác động qua lại giữa các bộ phận, các
yếu tố tạo thành sự vật. (xác định bản chất của đối tượng)



Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động qua lại giữa sự vật ấy với sự
vật khác. (không xác định bản chất của đối tượng)

+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
• Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân quyết định sự ra đời của kết quả.
• Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ ảnh hưởng tới kết quả hoặc
quyết định những mặt, những bộ phận không cơ bản của kết quả.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
• Nguyên nhân khách quan là những tác động độc lập với chủ thể hành
động.



• Nguyên nhân chủ quan là những sự tác động và do sự điều khiển của
một chủ thế nhất định.
Phạm trù kết quả: dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động, tương
tác giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng. (là đối tượng được sinh ra)
2.

Quan hệ biện chứng
- Mối quan hệ giữa nguyên nhân, kết quả là mối quan hệ khách quan, bao hàm
tính tất yếu: không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định; và ngược
lại, không có kết quả nào không có nguyên nhân.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả. Để sinh ra kết quả, nguyên nhân phải có trước.
Tuy nhiên, xét thuần túy về mặt thời gian chưa đủ để kết luận những nhân tố nào đó
là nguyên nhân.
- Trong thực tế, một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và một
kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên.
- Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả có thể
diễn ra theo các hướng thuận nghịch khác nhau và đều ảnh hưởng đến sự hình thành
kết quả, nhưng vị trí, vai trò của chúng là khác nhau: nguyên nhân trực tiếp, nguyên
nhân gián tiếp, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài,... Ngược lại, một
nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả chính và phụ, cơ bản
và không cơ bản, trực tiếp và gián tiếp...
• Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết
quả nhanh hơn
• Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình
thành kết quả chậm hơn. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
-

Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên


và kết quả cuối cùng. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối. “Nguyên
nhân và kết quả” có sự tác động qua lại lẫn nhau và luôn luôn thay đổi vị trí cho
nhau tạo thành chuỗi liên hệ nhân- quả vô cùng vô tận, “cái ở đây hoặc trong lúc
này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả, và ngược
lại”(Ph.Ăngghen).


-

Nhờ có tương tác mà các đối tượng chuyển hóa vào nhau và tạo thành

những trạng thái mới. Tất cả những sự chuyển hóa đó đều là những mắt xích của
sợi dây nhân quả đang khai triển từ hiện tại tới tương lai.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả,
Triết học Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này
để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là: Mối liên hệ nhân quả có tính khách
quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật
chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay
được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên
nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được
những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực,
trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được
tưởng tượng ra từ trong đầu óc của con người, tách rời thế giới hiện thực.
Hiểu được nguyên nhân ra đời, hình thành của một sự vật, hiện tượng thì ta
có thể hiểu được bản chất của sự vật hiện tượng đó. Khi ta phá bỏ được nguyên
nhân ấy, thì sự vật hiện tượng cũng sẽ bị xóa bỏ.
- Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này
có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả, mà có những nguyên nhân
quyết định, thiếu nó kết quả không thể xuất hiện, hay cũng có những nguyên nhân

dù có thiếu thì kết quả vẫn xảy ra. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chủ thể cần
phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân không cơ bản,
nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân
chủ quan, nguyên nhân khách quan... để có phương pháp giải quyết đúng đắn , phù
hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn. Đồng thời phải nắm
được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo
điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt
động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.


- Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện
nhất định nên ta phải nghiên cứu nguyên nhân và kết quả trong điều kiện không
gian, thời gian xác định. Cần phải có cách nhìn mang tính toàn diện và lịch sử- cụ
thể trong phân tích, giải quyết và vận dụng quan hệ nhân- quả.

CHƯƠNG II.

VẬN DỤNG NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG

PHÁP LUẬN TRONG VIỆC NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT TƯ
TƯỞNG TRỌNG NAM KHINH NỮ TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY.
1.

Nhận thức về vấn đề

1.1.

Nguyên nhân
Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có văn hóa


coi trọng nam giới hơn nữ giới. Nam giới có ưu thế vượt trội so với nữ giới về thể
chất, dẫn tới việc họ giành nhiều thành công hơn, có nhiều cá nhân xuất chúng vượt
trội so với phái nữ. Vì lẽ đó, xã hội hình thành quan điểm xem trọng nam giới hơn
theo đúng quy luật "tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội". Đó không phải là ý
muốn chủ quan áp đặt từ phía đàn ông, mà theo nhà tự nhiên học nổi tiếng Charles
Darwin thì đó là sự chọn lọc tiến hóa theo quy tắc "kẻ ưu việt hơn sẽ nắm quyền
thống trị"


Khi việc sử dụng công cụ bằng kim khí xuất hiện và phát triển mạnh mẽ, việc
cày bừa nông nghiệp mang lại hiệu quả rất cao, vượt xa việc hái lượm từ thiên
nhiên. Đàn ông với sức khỏe thể chất tốt phù hợp hơn với công việc này và giành
lấy quyền lực, vị thế trong gia đình, đóng vai trò trụ cột, quyết định, con cái lấy theo
họ cha. Mặt khác, xã hội phân chia giai cấp, quốc gia làm phát sinh chiến tranh, vai
trò của nam giới càng được nâng cao vì phụ nữ không thể chiến đấu giỏi như nam
giới được.



Khi xã hội tư bản hình thành và phát triển, giai cấp tư sản làm chủ trong thời
gian đó, vai trò của nông nghiệp nhường chỗ cho công nghiệp. Xã hội vẫn ưu tiên


cho nam giới hơn vì nam giới làm được nhiều việc hơn so với nữ giới, nhất là các
công việc đòi hỏi sức khỏe như thợ máy, thợ mỏ...


Trong xã hội hiện nay, "bình đẳng giới" được coi trọng, nam và nữ ngang
nhau về mọi mặt. Tuy nhiên đó là về mặt quy định pháp luật, còn thực tế về mặt sức

khỏe thì nam giới vẫn vượt trội hơn hẳn so với nữ giới. Đó là đặc điểm tự nhiên
không thể thay đổi được, do đó các nhân vật xuất chúng (nhà khoa học, lãnh tụ,
tướng lĩnh...) vẫn thường là đàn ông. Ngay cả ở các nước phát triển, nơi mà phụ nữ
được đối xử hoàn toàn bình đẳng với nam giới, thì đàn ông vẫn thường giành những
địa vị cao trong xã hội nhiều hơn hẳn so với nữ giới.
Hiện nay nền văn minh nhân loại đang hướng tới bình đẳng nam nữ với sự đề
cao quyền bình đẳng trong xã hội của nữ giới tương đương nam giới. Tuy nhiên,
những đặc điểm tự nhiên về giới tính được hình thành qua hàng triệu năm tiến
hóa thì không thể thay đổi:



Nam giới có xu hướng hành động nhanh chóng, quyết đoán, trong khi phụ nữ
có xu hướng thụ động, bị cảm xúc chi phối.



Phụ nữ yếu hơn nam giới về thể chất, bởi vì trong hàng triệu năm tiến hóa
phụ nữ không thực hiện nhiệm vụ yêu cầu cao về thể chất như nam giới (phụ nữ hái
lượm, nam giới săn thú).



Chức năng não: phụ nữ nói nhiều hơn, trong khi nam giới được định hướng
nhiều hơn cho hành động. Nam giới học toán (tư duy logic học) tốt hơn, còn phụ nữ
tư duy ngôn ngữ tốt hơn (do họ nói nhiều hơn).



Phụ nữ luôn có xu hướng tìm kiếm một người đàn ông mạnh mẽ để đạt được

sự bảo vệ.



Nam giới có tinh thần sẵn sàng đối mặt với thử thách cao hơn phụ nữ.
Quyền lực và sự kiểm soát là động cơ xã hội thực sự đằng sau việc phân chia
các vai trò giới tính, thông qua phân công lao động. Không chỉ đơn giản là sự khác
biệt về quan niệm xã hội, các đặc điểm tự nhiên đem lại ưu thế cho nam giới (sức
khỏe, tư duy logic, mức độ tập trung trí óc đều tốt hơn phụ nữ), vẫn thường thấy xu
thế nam giới nổi trội rõ rệt trong các công việc phức tạp như nhà lãnh đạo, nhà khoa


học, nghệ nhân... Ngay cả với những công việc thường được dành cho phụ nữ (nấu
ăn), các cá nhân nối bật nhất (đầu bếp chuyên nghiệp) vẫn thường là đàn ông.
Trong xã hội Việt Nam và một số nước Phương Đông hiện nay, tư tưởng này
vẫn tồn tại do hệ quả của việc kìm hãm tốc độ tăng dân số khiến việc lựa chọn giới
tính khi sinh xảy ra phổ biến hơn cộng thêm với tư tưởng của Phương Đông phải có
con trai để nối dõi tông đường khiến cho hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh
tăng đáng kể .
1.2. Kết quả
Tư tưởng có từ ngàn đời nay về trọng nam khinh nữ dường như không có sự
thay đổi trong suy nghĩ của nhiều người. Tâm lý thích con trai vẫn tồn tại nên bằng
cách này hay cách khác. Việc phải có con trai, sinh được con trai mới hoàn thành
'nhiệm vụ' luôn đè nặng lên vai người phụ nữ. Đôi khi gánh nặng tưởng như vô hình
ấy đã gây tổn hại về tinh thần, thể chất với người mẹ. Và không ít đứa trẻ cũng bị hệ
lụy từ quan điểm của chính người thân trong gia đình. Theo quy định, hành vi siêu
âm chẩn đoán giới tính thai nhi bị cấm nhưng có khoảng 85% thai phụ khi được hỏi
vẫn biết giới tính con mình trước khi sinh. Biết giới tính thai nhi từ trong bụng mẹ
sẽ là bình thường nếu như ông bà, cha mẹ coi con hay gái đều là “của trời cho”.
Nhưng với gia đình khát con trai, việc biết trước giới tính sẽ kéo theo nhiều hệ lụy.

Nếu thai nhi còn nhỏ, người phụ nữ sẽ chịu áp lực từ chồng, từ người thân trong
việc bỏ thai nhi gái để trao cơ hội cho thai nhi là bé trai.
Việc bỏ thai nhi chỉ vì chúng là gái gây hậu quả nặng nề về sức khỏe, đặc biệt
là tâm lý với người mẹ mà chỉ những người từng phải bỏ con, từng nằm trên bàn
thực hiện thủ thuật mới hiểu, mới cảm nhận được.
Dù khoa học từ lâu đã công bố nghiên cứu về cặp nhiễm sắc thể thứ 23 ở người
và xác định yếu tố quyết định giới tính một em bé là do người đàn ông, nhưng
dường như lối suy nghĩ cố hữu rằng việc sinh con trai hay con gái là do tại người
phụ nữ đã ăn sâu vào nhận thức của nhiều người và không có cách gì xóa được. Có
lẽ, ngày nào người ta còn đặt nặng khái niệm “đích tôn” hay “con nối dõi”, ngày ấy
vẫn còn tồn tại những thân phận phụ nữ thiệt thòi...


Một nghiên cứu mới đây Bộ Y tế và Trung tâm sáng kiến sức khỏe - dân số cho
thấy, áp lực phải sinh con trai là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra trầm
cảm sau sinh ở phụ nữ. Trung bình cứ 4 phụ nữ sau sinh thì có 1 phụ nữ trầm cảm.
Nhưng tình trạng trầm cảm càng trầm trọng hơn (gấp 2 lần) ở lần mang thai thứ 2
trong trường hợp gia đình đã có con gái trước đó.
Một số nghiên cứu về bạo hành gia đình cũng chứng minh, phụ nữ sinh con gái
một bề có nguy cơ bị chồng bạo hành trong quá trình mang thai (bao gồm cả bạo
hành thể xác, bạo hành tinh thần) gấp 2 lần so với phụ nữ có con trai.
Không chỉ gây hậu quả về tinh thần, trầm cảm, hay ảnh hưởng sức khỏe mà
trong những trường hợp nghiêm trọng, bạo hành gia đình hay áp lực phải sinh bằng
được con trai có thể dẫn đến suy nghĩ và hành vi tự tử ở người mẹ hoặc gây tổn hại
cho con… Thực trạng trên đã xảy ra ở nhiều nơi, trong nhiều gia đình nhưng cho
đến nay vẫn chưa đủ để cảnh tỉnh mọi người về hậu quả của tâm lý trọng nam khinh
nữ. Những tư tưởng phong kiến cổ hủ nếu không tự giải thoát khỏi nó thì sống rất
gò bó, lúc nào cũng sợ bị đánh giá, gièm pha - nguyên nhân tan vỡ hạnh phúc của
biết bao gia đình chỉ vì tự ái những chuyện không đâu vào đâu.
“Nhiều phụ nữ lầm tưởng rằng việc sinh quý tử có thể tháo gỡ các vấn đề tồn

tại từ lâu trong gia đình như ngoại tình hay mâu thuẫn với hai bên nội ngoại…
Thực tế, không hề vậy", thạc sỹ tâm lý Lã Linh Nga nhận định.
“Nếu tôi sinh ra là con trai, bố đã không lạnh nhật với hai chị em tôi như thế.
Nếu tôi là con trai bố đã không bỏ mẹ con tôi để đến với người đàn bà khác, gia
đình tôi đã không tan tác thế này...” - Đó là lời tâm sự đau lòng của người con gái
phải chịu tư tưởng cổ hủ “ trọng nam khinh nữ” từ chính người nhà mình. Sinh ra
là con gái đâu phải là cái tội, vậy mà nhiều gia đình vẫn giữ cái tư tưởng cổ hủ phải
có con trai nối dõi dòng họ, phải có thằng “chống gậy” cho... Họ phải chịu rất
nhiều sự phỉ báng, nỗi đau thể xác và cả tinh thần từ người nhà, dòng họ dù họ
chẳng làm sai điều gì. Điều đó thực sự có lý?
Nhận định về thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, ông Nguyễn Văn
Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thừa
nhận đây là thách thức hàng đầu với những người làm trong ngành. Thách thức bởi


nó thuộc về tư tưởng, tâm lý nên rất khó để thay đổi. Hoặc nếu có thay đổi được thì
phải mất rất nhiều thời gian, công sức mà khi đó, hậu quả của tình trạng mất cân
bằng giới tính đã cận kề.
Theo thống kê của Vụ Thống kê dân số và lao động (Tổng cục Thống kê), 10
tỉnh có tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất hiện nay Hưng Yên, Hải
Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Hòa Bình, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng
Ninh, Quảng Ngãi. Trong số này, có địa phương tỷ số giới tính khi sinh lên đến 120
trẻ trai/100 trẻ gái. Hà Nội cũng nằm trong top những địa phương có tỷ lệ sinh con
trai cao. Mặc dù đã triển khai nhiều hoạt động giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi
sinh, nhưng tỷ số giới tính khi sinh của Hà Nội đang ở mức cao hơn mức trung bình
của cả nước - với 114 trẻ trai/100 trẻ gái. Ở một số quận, huyện, con số này đã lên
đến 120 trẻ trai/100 trẻ gái.
2.

Quan hệ biện chứng

-Mối quan hệ tất yếu khách quan: Không có nguyên nhân nào không dẫn đến kết
quả nhất định, không có kết quả nào không có nguyên nhân.
+ Tư tưởng :” Trọng nam khinh nữ” không tự nhiên mà có, không tự nhiên xuất
hiện trong tiềm thức của nhân dân. Nó phải có nguyên nhân. Như đã phân tích ở
trên, có rất nhiều nguyên nhân sinh ra tư tưởng :”Trọng nam khinh nữ” ví dụ như:
nam giới có năng lực thể chất và trí tuệ tốt hơn, nam giới giữ địa vị xã hội cao hơn,
nam giới có tinh thần cao hơn khi đối mặt với thử thách,… Những nguyên nhân đó
góp phần sinh ra kết quả đó là :”Tư tưởng trọng nam khinh nữ”.
+ Tất cả nguyên nhân đã trích dẫn không tồn tại nguyên như vậy mà không đưa
lại một kết quả gì. Những nguyên nhân đó hoặc kết hợp với nhau hoặc tự mình tạo
ra một kết quả nhất định hoặc nhiều nhiều kết quả.
(Ví dụ:” Vì nam giới có ưu thế vượt trội so với nữ giới về thể chất, dẫn tới
việc họ giành nhiều thành công hơn, có nhiều cá nhân xuất chúng vượt trội so với
phái nữ nên nam giới được tôn trọng hơn nữ giới” đây là ví dụ về một nguyên nhân
sinh ra một kết quả)


-Nguyên nhân sinh ra kết quả, nguyên nhân bao giờ cũng có trước còn kết quả
bao giờ cũng xuất hiện sau.
( Ví dụ: Tư tưởng trọng nam khinh nữ không xuất hiện trước việc nam giới có
ưu thế hơn phụ nữ về thể chất và trí tuệ)
- Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả có thể
diễn ra theo các hướng thuận nghịch khác nhau và đều ảnh hưởng đến sự hình thành
kết quả .
Để tạo nên được một kết quả thì cần phải có nhiều nguyên nhân. Những nguyên
nhân đó không ngang bằng nhau về vị trí và vai trò trọng việc hình thành kết quả. Ở
đây sẽ có những nguyên nhân trực tiếp(nguyên nhân quyết định) , nguyên nhân gián
tiếp , nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân cơ bản, nguyên
nhân không cơ bản,...
(Ví dụ: Tư tưởng trọng nam khinh nữ ở Việt Nam có nguyên nhân trực tiếp là do

quan niệm lạc hậu còn lưu lại từ thời phong kiến, nguyên nhân gián tiếp là do tác
động của văn hóa Trung Quốc nói riêng và Châu Á nói chung.)
- Ngược lại, một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả
chính và phụ, cơ bản và không cơ bản, trực tiếp và gián tiếp...
(Ví dụ: Việc nam giới có ưu thế hơn phụ nữ về thể chất và trí tuệ không chỉ góp
phần làm xuất hiện kết quả chính là tư tưởng trọng nam khinh nữ mà nó còn là
nguyên nhân của kết quả phụ là kiểu gia đình phụ hệ như ngày nay. Gia đình phụ hệ
là gia đình ở đó người chồng là trụ cột của gia đình, đóng góp lớn nhất trong việc
làm ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu sinh hoạt.)
-Không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng, trong nhiều trường hợp
nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ, thay thế cho nhau.
+Trong sự vận động của thế giới vật chất, các nguyên nhân và các kết quả luôn
vận động không ngừng. Trong một trường hợp xác định thì khái niệm này được xác
định là nguyên nhân, khái niệm kia được xác định là kết quả. Nhưng trong trường
hợp khác thì nguyên nhân, kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. “Cái ở đây hoặc


trong lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc lúc khác lại là kết quả, và ngược
lại”.
(Ví dụ: Trong việc hình thành tư tưởng trọng nam khi nữ thì tư tưởng trọng
nam khinh nữ là kết quả của các nguyên nhân đã trình bày ở trên. Còn trong việc
nam giới có nhiều đặc quyền hơn nữ giới thì tư tưởng trọng nam khinh nữ lại là
nguyên nhân để tạo nên kết quả này. Nói cách khác, việc để nam giới có nhiều đặc
quyền hơn nữ giới trong xã hội việt nam hiện nay là do quan niệm trong nam khinh
nữ ăn sâu vào trong tiềm thức của người dân. Tư tưởng trọng nam khinh nữ là
nguyên nhân hình thành nên kết quả nam giới có nhiều đặc quyền.)
3.

Vận dụng giải quyết vấn đề
- Thừa nhận mối quan hệ nhân quả mang tính khách quan và tất yếu,

không thể phủ nhận. Bởi vậy, muốn xóa bỏ được tư tưởng trọng nam khinh nữ thì
ta phải phá bỏ đi được những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành tư tưởng này.
+ Công tác giáo dục về giới, cần phải được tăng cường đẩy mạnh trong nội
dung đào tạo đối với học sinh, sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
giúp các em có sự hiểu biết, ý thức và trách nhiệm về giới trong việc xây dựng
cuộc sống gia đình sau này.
- Một kết quả được tạo thành bởi nhiều nguyên nhân, nhưng ta cần phân
loại, xác định đâu là nguyên nhân quyết định nhất, cơ bản nhất và đâu là không cơ
bản, cái nào là nguyên nhân chủ quan và khách quan,... để tập trung điều chỉnh
cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay.
+ Vì nguyên nhân trực tiếp, quyết định, cơ bản nhất dẫn đến tư tưởng trọng
nam khinh nữ là tư tưởng phong kiến lạc hậu từ xa xưa còn tồn tại đến ngày nay
nên ta cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền kiến thức cho người dân, xóa bỏ
những suy nghĩ hủ tục lạc hậu đã ăn sâu vào suy nghĩ người Việt ta từ bao đời nay.
-

Ngoài ra ta cần có cái nhìn toàn diện, thực tiễn, kết hợp lịch sử-cụ thể

với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay để đưa ra một số giải pháp thiết thực, gắn
liền với đời sống, như:


+ Vận động người dân thực hiện Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và
Gia đình; đưa việc thực hiện bình đẳng giới thành một trong những tiêu chí để đánh
giá, công nhận gia đình văn hóa, làng, bản, khu dân cư văn hóa
+ Nghiêm cấm các cơ sở y tế siêu âm chẩn đoán giới tính và không được
phá thai với lý do lựa chọn giới tính... các ngành chức năng cần tiếp tục nâng cao
trình độ, nhận thức cho phụ nữ, giúp chị em tự tin, mạnh mẽ trong việc đấu tranh
chống lại những quan điểm, suy nghĩ chưa đúng về vai trò, vị trí của người phụ nữ
trong gia đình và xã hội.


KẾT THÚC
Tóm lại, khi xem xét một vấn đề ta cần nhìn nhận, phân tích và tìm hướng
giải quyết trước hết là từ nguyên nhân, thực trạng (kết quả) của vấn đề đó. Xem xét
nguyên nhân và kết quả trong mối quan hệ biện chứng, tức là đặt chúng trong mối
tương tác hai chiều với nhau, không cái nào tách rời so với cái còn lại. Chỉ có bằng
quan hệ biện chứng như vậy, ta mới có thể tìm thấy hướng đi để giải quyết vấn đề
một cách triệt để, chính xác và cụ thể nhất. Từ tất cả những đánh giá xuyên suốt bài
luận văn, chúng em tin rằng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về Cặp phạm trù
Nguyên Nhân và Kết Quả có vai trò rất lớn trong lý luận cũng như là thực tiễn. Mà
ở đây, thực tiễn là chỗ định hướng nhận thức và hướng dẫn cho chúng em tìm ra
những giải pháp để giải quyết vấn đề “Tư tưởng trọng nam- khinh nữ trong xã hội
Việt Nam ngày nay”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin “ (dành cho
sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh) _NXB Chính trị quốc gia, Bộ GD và Đào Tạo, Chương II.
Phép biện chứng duy vật, II. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng
duy vật, tr.79-tr.81
2) Giáo trình “Trung cấp lý luận chính trị-hành chính: Những vấn đề cơ bản về
chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh_ Triết học Mác Lenin” _NXB
Chính trị- Hành Chính, tr.75-tr.78


3) Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin “ (dành cho
sinh viên đại học, cao đẳng) _NXB Chính trị quốc gia, Bộ GD và Đào Tạo,
tr.127-tr.130
4) (truy cập :20/3/2018)
5) (truy cập : 9/11/2017)
6) />

trong_nam_khinh_nu___mot_tu_tuong_lac_hau

can_duoc_thay_doi ( truy cập: 24/12/2015)
7) _ Phạm Thư
8) “Những người vợ bị dồn vào đường cùng vì chồng muốn con trai” - Theo
Vương Linh, báo Đời sống.
9) “Tấn bi kịch của bé gái sinh trong gia đình trọng nam khinh nữ” - Theo
Hoàng Anh, báo Đời sống.



×