Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tư tưởng HCM về văn hóa đạo đức và xây dựng con người mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.94 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Thứ tự

1

Nội dung yêu cầu
đối với Chuẩn đầu
ra học phần
Hiểu quan điểm Hồ
Chí Minh về tính
chất của nền văn
hóa Việt Nam

Thứ tự
tiêu chí
đánh giá

Nội dung yêu cầu đối với các tiêu chí
đánh giá theo chuẩn đầu ra học phần
Quan điểm Hồ Chí Minh về tính dân
tộc của nền văn hóa
Quan điểm Hồ Chí Minh về tính khoa
học của nền văn hóa
Quan điểm Hồ Chí Minh về tính đại
chúng của nền văn hóa
Phân tích quan điểm HCM về tính dân
tộc của nền văn hóa Việt Nam
Phân tích quan điểm HCM về tính
khoa học của nền văn hóa Việt Nam
Phân tích quan điểm HCM về tính đại
chúng của nền văn hóa Việt Nam


Chứng minh tính cách mạng và khoa
học của quan điểm Hồ Chí Minh về
tính chất của nền văn hóa Việt Nam
Phân tích được tính chất của nền văn
hóa ở Việt Nam hiện nay
Đánh giá được thực trạng của nền văn
hóa ở Việt Nam hiện nay

1.1
1.2
1.3
2.1

2

Phân tích để làm rõ
nội dung quan điểm
Hồ Chí Minh về
tính chất của nền
văn hóa Việt Nam.

2.2
2.3
2.4

3

Hiểu và vận dụng
quan điểm Hồ Chí
Minh về tính chất

của nền văn hóa
Việt Nam để xây
dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc ở
Việt Nam hiện nay

3.1
3.2

Đề xuất những giải pháp nhằm tiếp
tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

3.3

1

Trang
2
4
5
6
8
9
10
13
14

18



LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn
đề xây dựng đạo đức Cách Mạng, coi dạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách
mạng. Bác nói rất nhiều về đạo đức, văn hóa cũng như vè xây dựng con người trong
thời chiến cũng như thời bình theo nhiều cách khác nhau. Những hành động cử chỉ
của Bác, lời nói đã để lại nhiều bài học cho chúng ta học hỏi.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của Người
trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ cách mạng cũng như con người Việt Nam mới luôn là vấn đề thời sự, thể
hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên
trì phấn đấu và noi theo. Đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm
góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Trong giai đoạn hiện nay, một phần cán bộ Đảng viên, các tahnh thiếu niên đã
sai lầm với những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, suy đoài gây tác hại không nhỏ đến
người khác và sự vững chắc cũng như làm lung lay lòng tin của Đảng trong toàn thể
nhân dân. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho thế hệ và cán bộ của Đảng viên đồng thời
không nững nâng cao trình độ văn hóa không nằm ngoài mục đích xây dựng con
người mới, xã hội mới đưa đất nước đi lên dân giàu, nước mạnh.
Ý nghĩa của bài tiểu luận “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa, đạo đức và
xây dựng con người mới” soi rõ con đường mà Đảng và nhân dân ta đã và đang đi,
đề cao nhiệm vụ xây dựng đất nước, nâng cao tư duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính
trị, nâng cao tư duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng
năng lực công tác, thực hiện tốc các nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta.

2



CHƯƠNG 7: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA,
ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
I. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về tính dân tộc của nền văn hóa:
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị
kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là một nhà văn hoá
lỗi lạc, một danh nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển
nền văn hoá mới Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Theo Hiến pháp sửa đổi (1993) thì nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc tức là
nền văn hóa mang đầy đủ các nội dung về yếu tố dân tộc, dân chủ, nhân văn và hiện
đại. Tính dân tộc thể hiện qua 3 khía cạnh: là nền văn hóa có cội nguồn, gốc rễ dân
tộc, phát triển dựa trên điều kiện sức mạnh của dân tộc và phát triển luôn luôn vì lợi
ích dân tộc, vì hạnh phúc, phồn vinh của dân tộc. Tính dân chủ được biểu hiện thông
qua sự mở rộng và phát triển dân chủ để khẳng định chủ thể của nền văn hóa thuộc về
nhân dân, để khai thác triệt để tiềm nặng văn hóa dân tộc, phát hiện và phát triển
những tài năng văn hóa. Tính nhân văn của nền văn hóa biểu hiện sự trân trọng những
giá trị của con người, nền văn hóa thấm nhuần những giá trị nhân đạo sâu sắc và phát
triển nhấn mạnh quy luật quan hệ nhân tính, khẳng định vai trò văn hóa ở con người,
khoan dung và mang nặng tính người. Tính hiện đại của nền văn hóa thể hiện qua
việc phát triển nền văn hóa dựa trên cơ sở vật chất ngày càng hiện đại, dựa trên khoa
học - công nghệ hiện đại và phục vụ cho việc đào tạo, giáo dục con người theo
hướng hiện đại, phát triển dựa trên tư tưởng tiến bộ xã hội.

3


+ Tính dân chủ được biểu hiện thông qua sự mở rộng và phát triển dân chủ để

khẳng định chủ thể của nền văn hóa thuộc về nhân dân, để khai thác triệt để tiềm
nặng văn hóa dân tộc, phát hiện và phát triển những tài năng văn hóa.
+ Tính nhân văn của nền văn hóa biểu hiện sự trân trọng những giá trị của con
người, nền văn hóa thấm nhuần những giá trị nhân đạo sâu sắc và phát triển nhấn
mạnh quy luật quan hệ nhân tính, khẳng định vai trò văn hóa ở con người, khoan
dung và mang nặng tính người.
+ Tính hiện đại của nền văn hóa thể hiện qua việc phát triển nền văn hóa dựa
trên cơ sở vật chất ngày càng hiện đại, dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại và
phục vụ cho việc đào tạo, giáo dục con người theo hướng hiện đại, phát triển dựa trên
tư tưởng tiến bộ xã hội.
Như vậy, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được hiểu qua hai đặc
trưng: tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu
nước và tiến bộ xã hội mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang tinh
thần dân chủ, nền văn hóa mà trong đó dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt của
đời sống văn hóa dân tộc, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa, tạo động
lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần chung.
Nền văn hoá ấy kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ta trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước thương nòi, tinh thần
đoàn kết, cố kết cộng đồng; tinh thần nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý;
đức tính cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất; tinh thần dũng cảm, kiên cường bất
khuất, mưu trí, gan dạ trong chống giặc ngoại xâm... Những truyền thống ấy không
những phải được giữ gìn mà còn phải được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng
nền văn hoá hiện nay. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác giáo dục
truyền thống lịch sử dân tộc.
Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Đồng thời Người yêu cầu “phải phát huy hết cốt cách dân tộc, phải lột cho hết tinh

4



thần dân tộc, để cổ vũ đồng bào ta, để giáo dục con cháu ta”. Người phê phán mọi
biểu hiện tôn sùng văn hoá ngoại.
Theo Người, càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin bao nhiêu càng phải coi
trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy nhiêu. Người đòi hỏi phải
giữ gìn và phát huy những vốn văn hoá quý báu của dân tộc, loại bỏ những yếu tố
tiêu cực trong đời sống tinh thần của nhân dân vừa kế thừa những truyền thống tốt
đẹp vừa phê phán, loại bỏ các tập tục cổ hủ lạc hậu.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về tính khoa học của nền văn hóa:
Người đòi hỏi phải giữ gìn và phát huy những vốn văn hoá quý báu của dân tộc,
loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh thần của nhân dân vừa kế thừa
những truyền thống tốt đẹp vừa phê phán, loại bỏ các tập tục cổ hủ lạc hậu. Với quan
điể m dân tộc hiện đại, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình
thức”; “Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật xã hội
chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”.
Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là một nền văn hoá “mở”. Gắn chặt với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh, văn hoá không tách rời kinh tếvà chính trị, một m ặt, nó chịu sự
chi phối của kinh tế và chính trị nhưng mặt khác, văn hoá có tác động trở lại to lớn
đến kinh tế và chính trị. Chính vì thế Người coi văn hoá nghệ thuật cũng là mặt trận,
và anh chị em nghệ sỹ là những chiến sỹ trên mặt trận ấy. Người khẳng định: “Rõ
ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ sĩ muốn có tự do
thì phải tham gia cách mạng để làm tròn nhiệm vụ, chiến sỹ nghệ thuật cần có lập
trường vững, tư tưởng đúng... Về sáng tác, thì cần thấu hiểu, liên hệ và đi sâu vào đời
sống của nhân dân. Như thế, mới bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết
của quân và dân ta, đồng thời đểgiúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”.
Người viết tiếp: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta,
văn hoá gánh một phần rất quan trọng”. “Văn hoá cũng như chính trị, kinh tế và tín
ngưỡng, đạo đức đều được phát triển tự do. Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ

5


khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh chị em văn hoá và trí thức phải
làm cũng như là những chiến sỹ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại
quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn coi trọng
sự nghiệp xây dựng văn hoá của nước nhà, và nhiều lần Người đã nói rằng: “Trong
công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cũng phải coi trọng
ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”. Tư tưởng đó của Người thể hiện rõ
quan điểm duy vật, phát triển toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về tính đại chúng của nền văn hóa:
Sâu sắc tính nhân dân (tính đại chúng) Hồ Chí Minh cho rằng: “Cái văn hoá mới
này cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tiến hoá của
tư tưởng hiện đại. Nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải
có một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nền văn hoá mới bắt nguồn từ trong nhân dân sẽ “luôn
luôn tìm tòi những con đường để làm sao có thể kể một cách chân thật hơn, chân
thành hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và suy nghĩ c ủa nhân dân” [Người
luôn uốn nắn, phê bình lối nói, lối viết và lối sáng tác xa rời nhân dân, không phù
hợp với trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân. Đồng thời, Người đề cao vai trò
sáng tạo văn hoá nghệ thuật của nhân dân và coi những sáng tác của nhân dân như
“những viên ngọc quý”. Người thường căn dặn những người làm công tác văn hoá,
nghệ thuật phải đi sâu vào thực tế cuộc sống, hiểu được tâm tư tình cảm, nguyện
vọng, thị hiếu... của nhân dân để từ đó các sáng tác của mình phục vụ được nhân dân
một cách tốt nhất. Tư tưởng đó của Người thể hiện quan điểm vì con người, coi con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Ngày nay, trước những biến động của tình hình thế giới và khu vực đang tác
động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của dân tộc, một mặt, chúng ta tiếp thu có chọn
lọc những giá trị văn hoá tiên tiến, khoa học, đại chúng. Mặt khác, chúng ta cũng

6


kiên quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư, những sản phẩm văn hoá độc hại từ bên
ngoài.
Đặc biệt, để văn hoá tăng thêm sức mạnh dân tộc, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ thì mỗi người dân chúng ta cần phải giữ gìn nền văn hoá Việt Nam luôn tiên tiến,
đậm đà bản sắt dân tộc.
II. PHÂN TÍCH ĐỂ LÀM RÕ NHỮNG NỘI DUNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ
MINH VỀ VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
2.1. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tính dân tộc của nền văn hóa Việt
Nam:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân
tộc, văn hóa mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân tộc của văn
hóa. Rất nhiều lần Người thường nhắc nhở phải “chăm lo đặc tính dân tộc”, “phát
huy cốt cách dân tộc”, “lột cho hết tinh thần dân tộc” trong xây dựng văn hóa.
Tính dân tộc của văn hóa là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
độc lập, tự cường của dân tộc trong lĩnh vực văn hóa, nên trước hết nó phải được thể
hiện ở nội dung tuyên truyền cho "lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” và “tinh thần vì
nước quên mình” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.
Thấm đẫm tính dân tộc, hiện đại và nhân văn Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Quan điểm này tiếp tục
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính
chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá Việt Nam là
nền văn hoá có gốc rễ, cội nguồn từ truyền thống văn hoá dân tộc, thể hiện tâm hồn,
cốt cách, bản sắc của con người Việt Nam. Nền văn hoá ấy kế thừa truyền thống văn
hoá của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là truyền
thống yêu nước thương nòi, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng; tinh thần nhân ái
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động sản

xuất; tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất, mưu trí, gan dạ trong chống giặc
ngoại xâm... Những truyền thống ấy không những phải được giữ gìn mà còn phải
được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá hiện nay. Chính vì vậy,
Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác giáo dục truyền thống lịch sử dân tộc. Người căn
dặn: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Đồng thời
Người yêu cầu “phải phát huy hết cốt cách dân tộc, phải lột cho hết tinh thần dân tộc,
để cổ vũ đồng bào ta, để giáo dục con cháu ta”. Người phê phán mọi biểu hiện tôn
7


sùng văn hoá ngoại. Theo Người, càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin bao nhiêu
càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy nhiêu.
Người đòi hỏi phải giữ gìn và phát huy những vốn văn hoá quý báu của dân tộc, loại
bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh thần của nhân dân vừa kế thừa những
truyền thống tốt đẹp vừa phê phán, loại bỏ các tập tục cổ hủ lạc hậu. Với quan điểm
dân tộc hiện đại, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”;
“Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật xã hội chủ
nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là một
nền văn hoá “mở”. Một mặt, nó kế thừa và phát huy những giá trị trong truyền thống
dân tộc, mặt khác nó tự làm giàu mình bằng việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hoá nhân loại, làm cho nền văn hoá mới ở Việt Nam vừa mang những đặc trưng phản
ánh cốt cách, bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc, vừa bắt nhịp được với hơi thở
của cuộc sống hiện đại, phù hợp với trình độ khoa học và trình độ văn minh mà nhân
loại đã đạt được.
Tính dân tộc của văn hóa đòi hỏi phải thể hiện được cốt cách và tâm hồn con
người Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, cần cù, dũng cảm, đoàn kết, thương
người... tóm lại là tất cả những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và tính cách Việt Nam
đã được hun đúc trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
Muốn thể hiện được yêu cầu này, Hồ Chí Minh đòi hòi các nhà văn hóa - văn

nghệ phải đi sâu vào quần chúng nhân dân, thực hiện ba cùng với họ, có thể mới phát
hiện và mô tả được chiều sâu của tính cách và tâm hồn quần chúng, lại phải học Lịch
sử, hiểu truyền thống dân tộc. Người từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều người Việt
Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất quý báu của
mình bằng những người nước ngoài"[1]. Lại cũng phải hiểu kỹ hiểu sâu truyền thống
văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Người căn dặn văn nghệ sĩ: Nghệ thuật của cha ông
hay lắm, tốt lắm! Cố mà giữ gìn; làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn
của dân tộc thì không làm được đâu.

Tính dân tộc của văn hóa còn được thể hiện ở hình thức và phương tiện diễn
đạt. Mỗi dân tộc có nếp cảm, nếp nghĩ riêng, có hình thức diễn đạt riêng đi thẳng vào
lòng người, lay động sâu xa tâm hồn họ. Người nhắc nhở: “Nhân dân ta có truyền
thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải học cách kể chuyện của
nhân dân’”.

8


Về mặt ngôn ngữ, Người căn dặn: '‘Tiếng nói là một thứ của cải rất quý báu
của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hóa. Rất toàn diện và sâu
sắc, từ nội dung đến hình thức diễn đạt. Bản thân Người là nhà văn hóa kiệt xuất, là
biểu tượng cao đẹp của bản sắc, tính cách, tâm hồn dân tộc là tấm gương cho các nhà
văn hóa - văn nghệ học tập và noi theo.
2.2. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tính khoa học của nền văn hóa Việt
Nam:
Nhấn mạnh giá trị của truyền thống dân tộc, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng chỉ rõ trong truyền thống có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Một trong những
thiếu hụt của văn hóa cổ truyền là chưa hình thành được một truyền thống khoa học.
Tư duy nông nghiệp là một loại tư duy kinh nghiệm, không mở đường cho khoa học

tự nhiên phát triển, nên tư duy lý luận, khái niệm khoa học, phương pháp khoa học
chưa trở thành mặt chủ đạo của ý thức toàn xã hội. Trong điều kiện đó, mê tín dị đoan
có đất để phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải
phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của
nhân dân.
Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với
khoa học, phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít. Đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm thần bí, mê tín, dị đoan. Người giao cho ngành giáo dục phải “dạy bảo
các cháu thiếu niên về khoa học, kỹ thuật, làm cho các cháu ngay từ thuở nhỏ đã biết
yêu khoa học, để mai sau các cháu trở thành những ngưòi có thói quen sinh hoạt và
làm việc theo khoa học”.
Người nhắc nhở ngành văn hóa: trong việc khôi phục vốn cũ chỉ “nên khôi
phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra", không được “khôi phục cả
đồng bóng, rước xách thần thánh’’”.
Để tuyên truyền nếp sống vệ sinh, phong cách sống và làm việc theo khoa học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết các tác phẩm Đời sống mới, Sửa đổi lối làm việc, nhằm
tổ chức lại các quan hệ văn hóa từ trong một nhà, một làng, một trường học đến các
cơ quan, đơn vị bộ đội,... sao cho việc ăn, ở. học tập, lao động... phải tuân theo Đời
sống mới, bài trừ các phong tục tập quán cổ hủ, làm cho nếp sống xã hội ta mỗi ngày
một tiến bộ hơn, hợp với khoa học và văn minh.
9


Ngày nay, trước những biến động của tình hình thế giới và khu vực đang tác
động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của dân tộc, một mặt, chúng ta tiếp thu có chọn
lọc những giá trị văn hoá tiên tiến, khoa học, đại chúng. Mặt khác, chúng ta cũng kiên
quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư, những sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài.
Đặc biệt, để văn hoá tăng thêm sức mạnh dân tộc, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
thì mỗi người dân chúng ta cần phải giữ gìn nền văn hoá Việt Nam luôn tiên tiến,

đậm đà bản sắt dân tộc.

10


2.3. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tính đại chúng của nền văn hóa Việt
Nam:

Đây là vấn đề thuộc về tính nhân dân, về đối tượng phục vụ của văn hóa - nghệ
thuật. Trước kia, trong xã hội cũ, văn hóa - nghệ thuật được coi là món ăn tinh thần
sang trọng, chỉ dành riêng cho một thiểu số người ăn trên ngồi chốc. Đó là một trong
những điều bất công của xã hội cũ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử:
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo
ra văn hóa, do đó họ phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Người nói: “Quần
chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần
chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là
người sáng tác nữa.
Từ đó Người đặt vấn đề: "Văn hóa phục vụ ai” và Người khẳng định dứt khoát:
Văn hóa phải phục vụ đại đa số nhân dân, phải hướng về đại chúng, phải phản ánh
được tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân. Người thường xuyên nhắc nhở người
cầm bút: “Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai?
Viết cho đại đa số: Công - Nông - Binh.
Viết để làm gì?
Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng”.
Tại Hội nghị những người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng (2-1960),
Người nói: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao
đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng”.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người, do con người làm ra, nó phải trở
về phục vụ con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh giải phóng dân tộc để đem lại

tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó có văn hóa. Đó là tính nhất quán
trong sự nghiệp cách mạng của Người.
Tính đại chúng của văn hóa đòi hỏi các nhà hoạt động văn hóa phải tăng cường
liên hệ với thực tế, đi sâu vào cuộc sống của nhân dân vừa để tìm hiểu và phản ánh
những nỗi lo âu và suy nghĩ, khát vọng và tình yêu, cuộc đời và số phận của nhân
dân; vừa để đem ánh sáng văn hóa đến mọi người mọi nhà, nhất là các vùng sâu,
11


vùng xa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê bình: "Phải thấy rằng nói chung
văn hóa của ta còn loanh quanh trong thành phố, chỗ dễ ăn. Chứ chưa đến chỗ đồng
bào Mèo, đồng bào Mán”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nền văn hoá mới bắt nguồn từ trong nhân dân sẽ
“luôn luôn tìm tòi những con đường để làm sao có thể kể một cách chân thật hơn,
chân thành hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và suy nghĩ của nhân dân”.
Người luôn uốn nắn, phê bình lối nói, lối viết và lối sáng tác xa rời nhân dân, không
phù hợp với trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân. Đồng thời, Người đề cao vai
trò sáng tạo văn hoá nghệ thuật của nhân dân và coi những sáng tác của nhân dân như
“những viên ngọc quý”. Người thường căn dặn những người làm công tác văn hoá,
nghệ thuật phải đi sâu vào thực tế cuộc sống, hiểu được tâm tư tình cảm, nguyện
vọng, thị hiếu... của nhân dân để từ đó các sáng tác của mình phục vụ được nhân dân
một cách tốt nhất. Tư tưởng đó của Người thể hiện quan điểm vì con người, coi con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước.
Tóm lại, ba tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng hợp lại thành một chỉnh thể
thống nhất, ngày càng thấm sâu vào ý thức sáng tạo của các nhà hoạt động văn hóa
nước ta, giúp họ sáng tạo nên những tác phẩm tiêu biểu cho nền văn hóa mới. Dù sau
này, tính chất của nền văn hóa mới có sự thay đổi nhất định về cách diễn đạt, nhưng
tinh thần cốt lõi của nó cũng không đi ra ngoài ba tính chất đã được Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu lên từ những ngày đầu dựng nước.
2.4. Chứng minh tính cách mạng và khoa học của quan điểm Hồ Chí Minh về

tính chất của nền văn hóa Việt Nam:
Hồ chí minh đã khẳng định : “ văn hóa là một mặt trận” và Người luôn căn dặn
“ dân ta phải biết sử ta,cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Bản sắc văn hóa là cái cốt lõi, cái đặc thù, cái định hình làm nên tính riêng biệt,
độc đáo của văn hóa mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành,
bảo tồn và phát huy trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc mình. Cũng giống
như bất kỳ hiện tượng tự nhiên và xã hội nào, bản sắc văn hóa của một dân tộc không
ngừng vận động, phát triển, luôn tiếp thu bổ sung những yếu tố làm phong phú thêm
bản sắc, đồng thời gạn lọc, loại bỏ những yếu tố lạc hậu, không thích hợp.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nền văn hóa nước ta luôn đứng trước thử
thách quyết liệt. Các thế lực xâm lược luôn tìm mọi cách áp đặt vào Việt Nam văn
hóa ngoại lai, âm mưu đồng hóa để dễ bề thống trị. Nhưng thật đáng tự hào, bản sắc
văn hóa Việt Nam đã có sức bền vững, sức đề kháng đến kỳ diệu, làm thất bại mọi âm
12


mưu đồng hóa của các thế lực thù địch. Trải qua những biến thiên của lịch sử, dân tộc
ta đã tỏ rõ bản lĩnh văn hóa của minh, xứng đáng là một dân tộc có hơn bốn nghìn
năm văn hiến. Bản sắc ấy tồn tại cho đến ngày nay và luôn tỏa sáng, trở thành nền
tảng tinh thần của xã hội Việt Nam thời hiện đại.
Ngày nay, những cuộc “xâm lăng văn hóa” vẫn tiếp diễn mạnh hơn và tinh vi
hơn. Khi kinh tế phát triển mang tính chất quốc tế hóa thì văn hóa ngoại lai, văn hóa
phương Tây cũng tràn vào nước ta, đe dọa sự sống còn của bản sắc văn hóa dân tộc.
Trên thế giới trước đây đã từng có khuynh hướng cho rằng muốn hiện đại hóa
đất nước cần vứt bỏ những gì mang tính chất quốc gia, dân tộc mình và phải mang
nền văn minh của Tây Âu, tức là “Tây Âu hóa”. Song, thực tiễn đã chứng minh
những nước có nền công nghiệp phát triển ở châu Á như Nhật Bản và một số nước
khác vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Bản sắc văn hóa Việt Nam
được hình thành từ mấy nghìn năm, tồn tại và phát triển đến ngày nay, vẫn thích hợp
với thời hiện đại và trở thành cốt cách của dân tộc Việt Nam.

Trước xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá của thế giới hiện nay, không một quốc
gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới. Hội nhập về kinh tế, giao lưu
về văn hoá giữa các nước đang diễn ra hết sức sôi động. Tình hình đó đang mở ra thời
cơ lớn để thâu hoá những tinh hoa văn hoá, văn minh nhân loại, làm phong phú thêm
cho văn hoá dân tộc mình, rút ngắn khoảng cách của chúng ta với thế giới. Làm thế
nào để mở rộng giao lưu văn hoá, hội nhập mà không đánh mất cái bản sắc của mình?
Phải lấy bản sắc văn hoá dân tộc làm nền tảng, làm bảng lĩnh. Nền tảng có chắc, bản
lĩnh có vững vàng thì mới tiếp thu tinh hoá văn hoá nhân loại được đúng đắn; mới
chắc lọc được những gì thực sự là tinh hoa, vức bỏ những gì là phế thải của bất cứ
loại phản văn hoá nào từ bên ngoài. Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc phải gắn liền với
việc nâng cao nhận thức, tư tưởng, nâng cao những hiểu biết về văn hoá, khoa học
hiện đại, để phân biệt được những gì thực sự là chân, thiện, mỹ với những cái giả, cái
ác, cấi xấu; nhận cái hay, bỏ cái dở. Khôi phục lễ hội, tôn tạo đình chùa, miếu mạo,
những di tích văn hoá lịch sử và cách mạng, suy tôn các anh hùng liệt sĩ, đẩy mạnh
phong trào đền ơn đáp nghĩa, đề cao văn hoá làng xã, văn hoá dòng họ. Cũng là
những hình thức để tạo ra rào chắn nhằm chống lại sự xâm nhập ồ ạt của văn hoá
ngoại lai. Tuy nhiên, ngay trong việc này cũng phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh:
cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cũ mà xấu thì phải bỏ, cũ mà phiền phức thì
phải sửa; mới mà hay thì phải làm; mới mà dở, hoặc không phù hợp với con người
Việt Nam thì không tiếp nhận. Cảnh giác ngăn chặn âm mưu lợi dụng giao lưu văn
hoá để thực hiện “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chúng ta đang sống
trong kỷ nguyên thông tin, khả năng chuyển tải tức thời mọi thông tin tới bất kỳ điểm
nào ở trên trái đất. Lợi dụng thành tựu này, các “đế quốc văn hoá” đang nhân danh
13


quyền con người để áp đặt cho các dân tộc những thị hiếu và lối sống theo quan điểm
của họ. Các thế lực thù địch của CNXH cũng đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ hoá
về chính trị”, “tự do hoá về kinh tế” để thổi lên những luồng gió độc, phủ nhận quá
khứ, hạ bệ thần tượng, gieo rắc hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng gây mất niềm tin

vào tương lai của CNXH.
Trên lĩnh vực văn hóa kẻ thù đã thông qua cái gọi là “ văn hóa đại chúng,văn
hóa nghe-nhìn” làm cho thế hệ trẻ ngày nay xa rời lối sống tâm hồn dân tộc,chạy theo
các phân giá trị ,để từ tự diễn biến về văn hóa dẫn đên tự diễn biến về chính trị.Đây là
một bước khởi đầu cho việc diễn biến hòa bình trên lĩnh vực chinh trị của cac thế lực
thù địch.Về lối sống họ lợi dụng phim ảnh video để truyền tải để lôi kéo con người
chạy theo thị hiếu sở thích riêng chạy theo lợi ích của cá nhân và dẫn tới các tệ
nạn,hủy hoại nhân cách con người.
Xuyên suốt sự nghiệp văn hóa của mình ,Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: văn hóa
phải phục vụ nhân dân và lấy lợi ích của nhân dân làm “khuôn phép” cho công tác
văn hóa.Với tinh thần đó Người nhấn mạnh: “ cách làm việc,cách tổ chức,nói
chuyện ,tuyên truyền ,khẩu hiệu,viết báo...của chúng ta đều phải lấy câu này làm
khuôn phép: “ từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng.”
Quan điểm của Người: “ Văn hóa phải phục vụ nhân dân và góp phần nâng cao
dời sống vui tươi,lành mạnh của quần chúng nhân dân” là biểu hiện tập trung đậm nét
nhân văn ,làm nên giá trị bất tử của mọi tác phẩm.
Trong tình hình hiện nay chúng ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức
lớn,đặc biệt là thách thức của nền kinh tế thị trường,với những bước tiến chóng mặt
của cách mạng khoa học,bên cạnh những cái hay cái đẹp của nền văn hóa mới,chúng
ta không thể coi thường những ảnh hưởng tiêu cực đang len lỏi vào trong xã hội.Điều
này là một thách thức lớn ,đòi hỏi chúng ta cần có quyết tâm cao trong việc vận dụng
và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

14


III. HIỂU VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ TÍNH CHẤT
CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM ĐỂ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN
TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1. Đánh giá vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay:

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí
quan trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt
Nam, của Phương Đông và Phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và
quốc tế mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa
dân tộc.
Văn hóa là sự tổng hợp các hoạt động nhằm phát huy mọi năng lực con người,
tạo ra những giá trị cao đẹp, đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội và sự tồn vong của
quốc gia, dân tộc. Văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, cả trong sản
xuất vật chất và sản xuất tinh thần; cả trong lao động sáng tạo và trong đấu tranh
chống lại thiên tai, địch họa vì sự sống còn của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
Văn hóa là mục tiêu của kinh tế-xã hội, đồng thời cũng là nội lực trong xây
dựng kinh tế-xã hội của đất nước. Truyền thống văn hóa, sức mạnh văn hóa biểu hiện
trong nguồn nhân lực, trong trình độ tổ chức lao động sản xuất và quản lý kinh tế, xã
hội; thể hiện trong kinh doanh, trong quan hệ giữa các doanh nghiệp và là động lực
bên trong của các quá trình kinh tế. Một nền kinh tế chỉ phát triển ổn định, bền vững
khi nó gắn chặt với những giá trị văn hóa, làm giàu thêm các giá trị văn hóa và thúc
đẩy sự phát triển của văn hóa.
Văn hóa có khả năng to lớn trong khơi dậy, nhân lên tiềm năng, sức sáng tạo
của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển đời sống xã hội.
Tiềm năng, sức sáng tạo của con người không nằm ở đâu khác, mà ở ngay trong văn
hóa và do chính văn hóa tạo nên trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh,
tài năng, kỹ năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Nếu sản xuất vật chất tạo ra ngày
11- Hồ Chí Minh - Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2009, Tập 3, tr. 431

15



càng nhiều của cải cho xã hội, để trên đó đời sống tinh thần ngày càng phong phú, thì
sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị trong nhân cách con người, để từ đó họ không
ngừng lao động sáng tạo, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Với ý nghĩa đó, văn
hóa luôn có mặt và là một trong những tiêu chuẩn của mọi vật phẩm của xã hội...
Và như thế, văn hoá là một bộ phận của đời sống con người - lĩnh vực tinh
thần của đời sống xã hội. Song, nếu quan niệm như vậy thì không giải thích được đầy
đủ về đời sống vật chất. Con người không chỉ có nhu cầu ăn no, mặc ấm, mà hơn thế,
phải ăn ngon, mặc đẹp; nhà cửa không chỉ để che mưa, tránh nắng mà phải hợp lý,
tiện nghi, sang trọng.
Tất nhiên, cái ngon, cái đẹp, cái hợp lý, tiện nghi, sang trọng cũng mang ý
nghĩa tinh thần, nhưng trong đó một phần quan trọng là kết cấu giá trị vật chất. Đời
sống vật chất, như vậy cũng thể hiện văn hoá của con người. Và nữa, khi người ta nói
Việt Nam bách chiến bách thắng trong lịch sử chống ngoại xâm là do văn hoá của
mình, thì ở đó, văn hoá không chỉ là kết tinh các giá trị tinh thần, mà là tổng hoà toàn
bộ sức sống, tinh lực và sức mạnh con người - dân tộc Việt Nam; ở đó có tinh thần
yêu nước, thương người, yêu cuộc sống, nhưng yếu tố đặc biệt hơn còn là sức sống
vật chất chứa đựng trong lao động cần cù, trong óc thông minh sáng tạo, từ xương
máu và sức mạnh vật chất của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Nói văn hoá Việt Nam không có nghĩa chỉ nói đến đời sống tinh thần dân tộc
Việt phương thức hoạt động và phương thức sống của toàn dân tộc, các năng lực hoạt
động và trình độ phát triển người của cả cộng đồng, quốc gia Việt Nam.
3.2.Đánh giá những vai trò của văn hóa góp phần phát triển kinh tế, chính trị,
xã hội ở Việt Nam hiện nay:
*Vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế:
Thứ nhất: Văn hóa và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Kinh tế là kết quả của văn hóa và văn hóa cũng là kết quả của kinh tế. Thực
tiễn ngày càng cho thấy văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và
chính trị. Văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực mà nằm ngay trong quá trình phát

16



triển kinh tế. Mỗi nấc thang của tăng trưởng kinh tế, tạo ra bước phát triển mới về
văn hóa; văn hóa phát triển lại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai: Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, mục tiêu phát triển kinh tế.
Văn hóa là mục tiêu của kinh tế, vì phát triển kinh tế để phát triển con người.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người được hạnh phúc và phát triển
toàn diện. Vì vậy, văn hóa đóng vai trò là mục tiêu trước mắt và lâu dài của sự phát
triển kinh tế.
Văn hóa ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trước hết vì nó là nền tảng tinh
thần, động lực và thông qua mục tiêu cứu cánh mà nó đặt ra cho tất cả chiến lược, kế
hoạch phát triển kinh tế: Mọi kế hoạch phát triển kinh tế đều phải hướng đến mục tiêu
cao nhất là đảm bảo yêu cầu cơ bản nhất là bảo vệ con người, phục vụ con người,
nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Bất cứ chính sách, biện pháp kinh tế nào
về sản xuất, luu thông hay phân phối, về giá, lương, sản phẩm hàng hóa đều phải thực
hiện mục tiêu cao nhất đó yêu cầu cơ bản đó, tức là vì chính lợi ích của con người.
Để kinh tế bền vững phải có một mô hình tăng trưởng xuất phát từ văn hóa và
bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực chất lượng cao. Bằng nguồn tài nguyên
quý nhất, vốn quý nhất là con người, chúng ta có thể làm chủ được khoa học và công
nghệ, tạo ra sức mạnh tác động vào hoạt động kinh tế theo chiều sức mạnh thúc đẩy.
Thứ ba: Văn hóa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định.
Văn hóa phát triển tương xứng là cơ sở cho phát triển kinh tế một cách toàn
diện. Văn hóa và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ đa chiều. Mỗi chiều cạnh của
quan hệ này có thể phát huy khả năng của mình, nhưng các chiều cạnh đó lại có mối
17


quan hệ mật thiết với nhau, cùng lúc phát huy nhiều năng lực khác nhau. Với luận
điểm này, văn hóa thể hiện trước hết thông qua chức năng xây dựng con người, bồi

dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài năng,
đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng. Chính vì thế mà văn hóa sẽ là
điều kiện không thể thiếu để thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định. Thiếu một nền tảng
tinh thần tiến bộ, lành mạnh sẽ không có sự phát triển kinh tế bền vững.
Chẳng hạn như, trong thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay,
rõ ràng vai trò của khoa học, công nghệ, thương nghiệp rất được coi trọng. Tuy nhiên
nếu không có nhận thức đầy đủ về văn hóa, thì dễ dẫn đến tình trạng sùng bái kỹ
thuật, coi buôn bán là cách làm giàu nhanh nhất; các giá trị đạo đức, truyền thống sẽ
bị bỏ qua, chữ tín bị xem nhẹ... Trong xã hội lúc đó sẽ xuất hiện kiểu kinh doanh bất
chấp đạo lý; vì lợi ích kinh tế, người ta sẵn sàng phá bỏ các di tích lịch sử, cảnh quan
văn hóa; vì lợi nhuận, người ta sẵn sàng chà đạp lên mọi phẩm giá của con người...
Như vậy, để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, không thể không chú ý
đến sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; phải luôn bảo đảm sự phù hợp giữa
phát triển kinh tế-xã hội với phát triển văn hóa, giữa phát triển vật chất và phát triển
tinh thần, giữa truyền thống và hiện đại.
3.2.2. Vai trò của văn hóa đối với phát triển xã hội:
Thứ nhất: Hệ giá trị văn hóa điều tiết, cải biến sự phát triển của xã hội.
Điều tiết xã hội: Với hệ giá trị tốt đẹp chân thiện mỹ của mình, văn hóa luôn
làm tròn trách nhiệm của mình đối với việc điều tiết sự vận hành của xã hội.
Cải biến xã hội: ứng với nó là văn hóa chính trị, văn hóa pháp quyền, văn hóa quản lý
xã hội, văn hóa dân chủ, văn hóa công dân, văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử, văn
hóa đối thoại, văn hóa lối sống và nếp sống, văn hóa giáo dục, văn hóa môi trường…
18


Văn hóa góp phần giữ ổn định xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững hiện
nay.
Điều quan trọng nhất khi nói văn hóa là nền tảng tinh thần bởi văn hóa có
chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành
vi của mỗi người và toàn xã hội. Với tính lịch sử, các giá trị, chuẩn mực đó được

truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc, trở thành
hệ thống các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, luật pháp,
khoa học, văn học, nghệ thuật, các thể chế, thiết chế văn hóa, tập quán, lối sống, tạo
nên cái cốt, cái hồn, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi nói bản sắc văn
hóa của con người Việt Nam, chúng ta đặt lên hàng đầu lòng yêu nước với những
khía cạnh như yêu quê hương, xứ sở; lấy dân làm gốc; trân trọng lịch sử, văn hóa dân
tộc; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ; chiến đấu vì độc lập, tự do. Những giá trị đó là
truyền thống văn hóa tốt đẹp được truyền bá, kế thừa và phát triển từ thế hệ này sang
thế hệ khác trong tiến trình lịch sử của dân tộc.
Thứ hai: Văn hóa là nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển xã hội.
Chìa khóa của sự phát triển, cũng như phát triển bền vững bao gồm những
nhân tố như: Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học công
nghệ, nguồn lực con người, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò chủ chốt. Định
hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã nêu lên 8 nguyên tắc chính cần
thực hiện trong quá trình phát triển, thì quy nguyên tắc đầu tiên được nêu ra đầu tiên
là con người, nguồn lực con người có vai trò quyết định, đây là chìa khoá của mọi
chìa khoá. Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy
đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước
giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán
trong mọi giai đoạn phát triển.
19


Vì vậy có thể nhận thấy việc xây dựng con người mới, có đủ phẩm chất, năng
lực đạo đức, vừa hồng vừa chuyên là rất cần thiết trong quá trình phát triển bền vững.
Thứ ba: Hệ Giá trị văn hóa tốt đẹp của văn hóa tác động mạnh đến quá trình phát
triển xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tinh
thần nhân văn nhân đạo xây dựng một xã hội toàn diện hơn.
3.3. Những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vị trí và vai trò của văn hóa trong

đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.
* Xây dựng môi trường văn hóa:
Môi trường văn hóa chính là hệ sinh thái văn hóa, nuôi dưỡng đời sống tinh
thần của xã hội. Xây dựng môi trường văn hóa góp phần ổn định chính trị - xã hội,
tạo bầu không khí tinh thần lành mạnh làm tiền đề để xây dựng con người, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Đảng ta đã nhấn mạnh: "Tạo ra ở các đơn
vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông
trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn,
miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và
không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân... Phát triển và không ngừng nâng
cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số
công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức
văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn
hóa, nghệ thuật"2. Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa; xây dựng trường

2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII,
Sđd, tr.59-60.

20


học, cơ quan, đơn vị văn hóa; xây dựng làng bản, khối phố văn hóa là những nội
dung quan trọng để xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở.

21


*Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật:

Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế và nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát
vọng vươn tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ của nhân dân. Nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của sự nghiệp văn học, nghệ thuật là sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư
tưởng, nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý nghĩa giáo
dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân
hiện nay. Khuyến khích các tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, phong cách sáng
tạo, đáp ứng mọi nhu cầu tinh thần lành mạnh của nhân dân. Nâng cao trách nhiệm
của đội ngũ nghệ sĩ trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Đồng thời bài trừ các khuynh
hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính. Đấu tranh chống lại các khuynh hướng sáng
tác trái với đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ nghệ
thuật cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên, nhi đồng. Khuyến khích các
hoạt động văn nghệ quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng
thụ các giá trị nghệ thuật cao của dân tộc và nhân loại.
*Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa:
Di sản văn hóa là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân
tộc do lịch sử để lại, bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa còn là cơ sở để liên kết cộng đồng, là nền tảng để sáng tạo các giá trị
văn hóa mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa với các dân tộc khác trên thế
giới. Di sản văn hóa không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp
phần khẳng định niềm tự hào dân tộc, mà còn là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã
hội. Giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng qua hệ thống di sản văn hóa có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay. Vì vậy, đầu tư cho việc bảo tồn,
tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với việc
bảo vệ và phát huy vai trò của di sản văn hóa dân tộc là công việc vừa cơ bản, vừa
cấp bách, cần phải được tiến hành nghiêm túc, kiên trì và thận trọng.

22


*Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ:

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
“Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”3.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến
cơ bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo cần tập trung bồi
dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tinh thần tự hào dân
tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng khoan dung, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh
thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người
lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm với hiệu quả
thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây
dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà văn hóa,
nhà quản lý và kinh doanh giỏi. Có chính sách tốt trong việc sử dụng nhân lực và
nhân tài để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa.
Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng được coi là chìa
khoá cho sự phát triển. Do đó, cần tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để
khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Phát huy vai
trò của khoa học xã hội và nhân văn trong việc tổng kết thực tiễn và đi sâu nghiên
cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý
luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho
việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát huy
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.112.

23


nhân tố con người và văn hóa Việt Nam. Khoa học tự nhiên chú trọng việc nghiên
cứu thực tiễn, nghiên cứu cơ sở khoa học của việc phát triển công nghệ trọng điểm,

khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo phòng tránh thiên tai.
Khoa học và công nghệ tập trung nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao
khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, bảo vệ môi trường và an ninh quốc
phòng. Coi trọng việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá vào trong sản xuất và dịch vụ.
Mở rộng giao lưu và hợp tác khoa học giữa các địa phương, các ngành trong nước và
quốc tế. Các địa phương, các ngành cần chú trọng xây dựng các luận cứ khoa học cho
các dự án, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, có cơ chế để phát huy vai trò
dân chủ của nhân dân tham gia đóng góp vào các chương trình, dự án này. Mặt khác,
cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn người lao động sử dụng đúng những
thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, tránh tình trạng lạm dụng hoặc
thiếu hiểu biết khi sử dụng những thành tựu này (thuốc trừ sâu, thuốc kích thích, các
chất độc hại gây ô nhiễm môi trường và gây độc hại cho người tiêu dùng).
*Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng:
Các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm sách, báo, tạp chí, các đài phát
thanh và truyền hình ở Trung ương và địa phương…, đóng vai trò to lớn trong việc
tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể chính trị - xã hội tới nhân dân và phản ánh nguyện vọng của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước, góp phần to lớn vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh phát triển chiến lược truyền
thông quốc gia, các địa phương, các ngành, các cấp ở cơ sở cần tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, kỹ thuật, tạo điều kiện để phát triển mạnh mạng lưới thông tin văn hóa ở
cơ sở. Phấn đấu đến năm 2010, hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát
thanh, truyền hình đến mỗi gia đình. Phát triển các điểm văn hóa kết hợp với hệ thống
bưu cục khắp các xã trên phạm vi cả nước. Dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các
24


dân tộc trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng đồng bào dân tộc. Sớm phát
hiện và xử lý kiên quyết đối với việc tuyên truyền các thông tin phản động và phản

văn hóa.
*Bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số:
Nước ta gồm có 54 dân tộc anh em từng đoàn kết, gắn bó với nhau trong quá
trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu văn hóa của
đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng và
phong phú trong sự thống nhất; bổ sung và hỗ trợ, tạo điều kiện để mỗi dân tộc phát
triển bình đẳng trong cộng đồng quốc gia Việt Nam. Vì vậy, xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không thể không chú ý tới nhiệm vụ hết
sức quan trọng là bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số. Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong
mỹ tục của các dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh;
khai thác các kho tàng văn hóa cổ truyền. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong
phú thêm nền văn hóa của nhân loại. Đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc
hại”4.
Cần nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức và những nhà quản lý
người dân tộc, khuyến khích họ công tác tại địa phương mình. Tăng cường công tác
điều tra, sưu tầm, tôn tạo, bảo vệ và phát huy các công trình văn hóa mới, xây dựng
lối sống, tác phong, phong tục và tập quán mới phục vụ yêu cầu phát triển hiện nay,
mở rộng hợp tác giao lưu, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để cùng tiến bộ.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.115.

25


×