BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
HOÀNG THỊ KIM DINH
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN
DẠY HỌC CA KHÚC VIẾT VỀ THÁI BÌNH CHO
NGHỆ THUẬT TUỒNG ĐÀO TẤN TRONG
SINHĐỘNG
VIÊN SƯ
PHẠMKHÓA
ÂM NHẠC
HOẠT
NGOẠI
CHOTRƯỜNG
SINH VIÊN
TRƯỜNG
ĐẠINGHỆ
HỌC QUY
NHƠN
CAO ĐẲNG
VĂN HÓA
THUẬT
THÁI BÌNH
Học viên: Hà Thị Thanh Xuân; Khóa: 5 (2015-2017)
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học âm nhạc
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 60140111
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
Khóa 6 (2015 - 2017)
Hà Nội, 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
HOÀNG THỊ KIM DINH
DẠY HỌC CA KHÚC VIẾT VỀ THÁI BÌNH CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM ÂM NHẠC TRƯỜNG
CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT THÁI BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc
Mã số: 81 40 111
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG NGHỊ
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học trong luận văn chưa
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Kim Dinh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBGV
Cán bộ giảng viên
CĐSP
Cao đẳng sư phạm
CĐVHNT
Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật
GS
Giáo sư
GV
Giảng viên
NSUT
Nghệ sĩ ưu tú
Nxb
Nhà xuất bản
PGS
Phó giáo sư
SPAN
Sư phạm Âm nhạc
SV
Sinh viên
THCS
Trung học cơ sở
TN
Thanh nhạc
Tr
Trang
VHNT
Văn hóa nghệ thuật
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC THANH NHẠC ..8
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 8
1.1.1. Phương pháp dạy học, dạy học Thanh nhạc ........................................ 8
1.1.2. Ca khúc và ca khúc viết về Thái Bình ................................................. 12
1.1.3. Giọng nữ cao, giọng nam cao .............................................................. 15
1.1.4. Hơi thở trong thanh nhạc và tư thế hát ................................................. 17
1.2. Vai trò ca khúc Thái Bình trong đời sống và đào tạo ............................. 20
1.2.1. Trong đời sống tinh thần của người dân .............................................. 20
1.2.2. Trong hoạt động chuyên nghiệp và giảng dạy thanh nhạc .................. 23
1.3. Thực trạng dạy học thanh nhạc tại trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật
Thái Bình ......................................................................................................... 25
1.3.1. Khái quát về trường .............................................................................. 25
1.3.2. Chương trình và giáo trình ................................................................... 31
Tiểu kết ........................................................................................................... 36
Chương 2: BIỆN PHÁP DẠY HỌC CA KHÚC VIẾT VỀ THÁI BÌNH ..... 37
2.1. Một số đặc điểm của ca khúc viết về Thái Bình ..................................... 37
2.1.1. Hình thức .............................................................................................. 37
2.1.2. Giai điệu ............................................................................................... 46
2.1.3. Lời ca .................................................................................................... 52
2.2. Lựa chọn ca khúc đưa vào dạy học ......................................................... 59
2.2.1. Tiêu chí lựa chọn .................................................................................. 59
2.2.2. Ca khúc được chọn ............................................................................... 61
2.3. Rèn luyện một số kỹ thuật cơ bản thể hiện ca khúc viết về Thái Bình ......... 62
2.3.1. Hát liền tiếng (legato) ........................................................................... 62
2.3.2. Hát lướt nhanh (passage) ...................................................................... 64
2.3.3. Hát ngân dài ......................................................................................... 65
2.3.4. Hát luyến .............................................................................................. 66
2.4. Xây dựng quy trình dạy học hát và thực nghiệm .................................... 67
2.4.1. Xây dựng quy trình dạy học hát ........................................................... 67
2.4.2. Thực nghiệm sư phạm .......................................................................... 73
Tiểu kết ........................................................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 78
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 83
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc khu vực châu thổ Bắc Bộ. Người
dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp. Hiện nay trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Thái Bình đang phấn đấu trở thành một tỉnh vững
mạnh về mọi mặt. Ở Thái Bình, bên cạnh các loại hình nghệ thuật dân gian có
từ lâu đời như múa rối nước, chèo, thì ca khúc mới viết về mảnh đất này cũng
có một vai trò khá quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân.
Nếu như ca khúc viết về Hà Nội, trong nội dung thường được các tác
giả đề cập tới 36 phố phường, năm cửa ô, Hồ Tây, Hồ Gươm… thì ở ca khúc
viết về Thái Bình, thường gắn với những cánh đồng lúa, dòng sông Trà Lý, cây
cầu Bo và những làng nghề, cũng như truyền thống lịch sử của tỉnh Thái
Bình… Hầu hết ca khúc viết về Thái Bình đều mang âm hưởng dân ca - chủ
yếu nhất là chèo. Có thể kể đến: Nắng ấm quê hương (Vĩnh An), Anh hãy về
quê em (Bùi Anh Tú), Nón trắng trên đồng; Nghe tiếng trống quê hương (Thái
Cơ), Hát về Thái Bình,Bức tranh quê, Vui sao tiếng hát quê ta, Nhịp điệu thành
phố trẻ (Nguyễn Đăng Nghị), Tiếng hát bên dòng sông Trà (Vũ Thiết), Hai chị
em (Hoàng Vân), Hoa xoan đêm hội (Đặng Nguyễn),… Dù được ra đời trong
thời chiến hay thời bình, thì những ca khúc ấy đều có điểm chung là mang đậm
âm hưởng của mảnh đất quê lúa Thái Bình.
Trường Cao đẳng VHNT Thái Bình được thành lập năm 1975, đến thời
điểm hiện tại đã có hơn 40 năm hình thành và phát triển. Từ một trường trung
cấp, nay đã trở thành trường cao đẳng với nhiều mã ngành khác nhau, đào tạo
cả học sinh, sinh viên trong tỉnh và ngoài tỉnh lân cận. Khoa Sư phạm Âm nhạc
hiện đang là một trong những khoa có số lượng sinh viên đông nhất toàn
trường. Trong chương trình dạy học các ca khúc Việt Nam nói chung và ca
khúc về Thái Bình nói riêng đã đạt được những thành tích nhất định. Tuy nhiên,
khi dạy các ca khúc nói chung và ca khúc viết về Thái Bình nói riêng,
2
giảng viên thường chú ý nhiều tới kỹ thuật thanh nhạc phương Tây như:
hơi thở, cộng minh... mà chưa quan tâm nhiều tới việc phân tích đặc điểm
và cách hát những bài có âm hưởng dân ca… Các em sinh viên đa phần là
những học sinh vừa mới tốt nghiệp trung học phổ thông, bị ảnh hưởng nhiều từ
những dòng nhạc thị trường. Do đó, các em chưa có dịp được tiếp cận về mặt
chuyên môn các ca khúc Thái Bình.
Là một người con được sinh ra và lớn lên ở mảnh đất quê lúa và từng
có thời gian cộng tác tại trường Cao đẳng VHNT Thái Bình, tôi nhận thấy, việc
tìm hiểu và dạy hát các ca khúc viết về quê hương mình cho sinh viên là rất cần
thiết. Bởi những ca khúc này, ít nhiều giai điệu cũng gần gũi với các em hơn,
nên việc dạy các ca khúc viết về Thái bình sẽ có nhiều cơ hội góp phần nâng
cao chất lượng trong quá trình giảng dạy thanh nhạc, mặc khác, từ những giai
điệu sẽ giúp các em yêu và hiểu hơn về quê hương mình. Từ những lý do chủ
quan và khách quan, tôi chọn đề tài Dạy học ca khúc viết về Thái Bình cho
sinh viên Sư phạm Âm nhạc Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái
Bình để làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học
Âm nhạc.
2. Lịch sử vấn đề
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi thấy có một số nghiên cứu liên
quan tới luận văn như sau:
Nguyễn Trung Kiên (2001), Phương pháp sư phạm thanh nhạc,
Viện Âm nhạc xb. Trong nội dung cuốn sách, tác giả đã trình bày nhiều vấn
đề như: hơi thở thanh nhạc, tư thế hát, phân chia giọng hát, một số bài rèn
luyện kỹ thuật.... Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến các trường phái
thanh nhạc trên thế giới, để vận dụng phù hợp, có hiệu quả vào việc dạy
học thanh nhạc ở Việt Nam.
Nguyễn Trung Kiên (2007), Giáo trình chuyên ngành thanh nhạc
bậc đại học cho các giọng Tenor; Soprano; Bariton - Bass, Bộ Văn hóa Thể
3
thao và Du lịch, Học Viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam xb. Cuốn sách có
thể coi như một giáo trình, nhiều ca khúc nước ngoài được tuyển lựa. Cuốn
sách đã cung cấp cho chúng tôi những lựa chọn cần thiết để phục vụ cho
quá trình giảng dạy thanh nhạc tại Trường Cao đẳng VHNT Thái Bình.
Hồ Mộ La (2008), Phương pháp dạy thanh nhạc, Nxb Từ điển
Bách khoa ấn hành. Cuốn sách nghiên cứu về phương pháp dạy học thanh
nhạc cho các trường đào tạo thanh nhạc. Sách gồm hai phần, phần 1: Lý
thuyết cơ bản, phần 2: Kinh nghiệm giảng dạy. Chúng tôi tập trung đến
phần 2 của cuốn sách, đặc biệt là vấn đề xử lý âm khu và vận dụng kỹ thuật
thanh nhạc vào các tác phẩm Việt Nam. Tác giả đã đưa ra những nhìn
nhận, kiến giải mới mẻ về vấn đề của kỹ thuật thanh nhạc trên phương diện
khoa học. Từng vấn đề trong kỹ thuật thanh nhạc được tác giả trình bày cụ
thể như: xây dựng những kỹ thuật cơ bản, xác định loại giọng, rèn luyện
một số kỹ thuật, cũng như cách nghiên cứu và xử lý tác phẩm thanh nhạc.
Trần Ngọc Lan (2011), Phương pháp hát tốt tiếng Việt trong nghệ
thuật ca hát, Nxb Giáo dục Hà Nội. Nội dung cuốn sách, tác giả đã phân
tích, trình bày rõ những đặc điểm, đặc trưng cấu tạo của các âm tiếng Việt
trong nói và hát, qua đó đưa ra những giải pháp để vận dụng các kỹ thuật
và kinh nghiệm xử lý tiếng Việt của nghệ thuật ca hát truyền thống vào
nghệ thuật hát mới.
Ngoài những cuốn sách có tính tầng nền về sư phạm thanh nhạc
như trên, còn có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu để nâng cao chất
lượng giảng dạy thanh nhạc cho sinh viên sư phạm cũng như sinh viên
chuyên ngành tại các trường đại học và cao đẳng chuyên ngành. Chúng tôi
điểm qua một số luận văn thạc sĩ như sau:
Hà Thị Lý (2014), Ca khúc mang âm hưởng dân gian Việt Bắc
trong giảng dạy thanh nhạc tại trường Đại học sư phạm Nghệ thuật Trung
ương, luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học, Trường Đại học
4
Sư phạm Nghệ thuật Trung ương. Luận văn tập trung tìm hiểu thực trạng
dạy học ca khúc mang âm hưởng dân ca Việt Bắc, trên cơ sở cách xử lý
thanh nhạc truyền thống cũng như áp dụng kỹ thuật thanh nhạc châu Âu
vào giảng dạy cho sinh viên thanh nhạc Trường Đại học Sư phạm Nghệ
thuật Trung ương.
Đàm Minh Hưng (2014), Giảng dạy thanh nhạc cho giọng nam
cao, Luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học, Trường Đại học Sư
phạm Nghệ thuật Trung ương. Luận văn cung cấp cho chúng tôi một số
kinh nghiệm cũng như biện pháp dạy thanh nhạc cho giọng nam cao.
Hoàng Anh Thái (2016), Dạy học ca khúc mang âm hưởng Chèo
cho sinh viên Thanh nhạc trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái Bình,
luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học. Nội dung chính của luận
văn là đi sâu vào vấn đề cách kết hợp kỹ thuật thanh nhạc với cách hát chèo
để xử lý những ca khúc mang âm hưởng chèo.
Vũ Thị Tươi (2016), Biện pháp giải quyết âm khu cao trong dạy
học thanh nhạc, Luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học,
Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương. Qua luận văn, chúng
tôi lĩnh hội được những kiến thức nhất định trong việc dạy thanh nhạc cho
giọng nữ cao.
Phạm Thu Hương (2016), Rèn lu yện hơi thở thanh nhạc trong dạy
học thanh nhạc cho giọng nữ cao hệ đại học sư phạm âm nhạc, trường Đại
học Hải Phòng, luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học, Trường
Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
Phạm Thị Kim Thoa (2016), Rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cho
giọng nữ cao hệ Trung cấp Trường Đại học VHNTQuân đội, luận văn Thạc
sĩ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc, Trường Đại
học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
Nhìn chung, các công trình và luận văn nêu trên là những tài liệu để
chúng tôi tham khảo cho luận văn của mình. Qua quá trình nghiên cứu thực
5
tế, tìm hiểu tài liệu và các tác phẩm liên quan, chúng tôi nhận thấy chưa có
đề tài nào nghiên cứu và áp dụng kỹ thuật thanh nhạc để dạy hát các ca
khúc viết về Thái Bình cho sinh viên Trường Cao đẳng VHNT Thái Bình.
Do vậy, tên luận văn của chúng tôi không trùng lặp với những nghiên cứu
của các tác giả đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm của ca khúc viết về Thái
Bình để đưa vào dạy học, chúng tôi đề ra biện pháp dạy học để rèn luyện
những kỹ thuật cơ bản giúp sinh viên Sư phạm Âm nhạc Trường Cao đẳng
VHNT Thái Bình thể hiện tốt, đúng tinh thần của tác phẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sẽ thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Đánh giá những ưu, nhược điểm trong quá trình dạy học thanh
nhạc, nhất là dạy ca khúc viết về Thái Bình của thày và trò Trường Cao
đẳng VHNT Thái Bình.
Tìm ra những đặc điểm cơ bản nhất về cấu trúc âm nhạc và lời ca
của một số ca khúc viết về Thái Bình, từ đó sẽ lựa chọn các bài phù hợp để
bổ sung vào chương trình dạy học của Khoa Sư phạm âm nhạc cho hợp lý.
Nghiên cứu các kỹ thuật thanh nhạc, từ đó vận dụng những vấn đề
hợp lý để đưa vào dạy học các ca khúc viết về Thái Bình cho SV sư phạm
âm nhạc.
Tiến hành tổ chức thực nghiệm trên cơ sở bài được chọn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biện pháp dạy học ca
khúc viết về Thái Bình cho sinh viên Sư phạm Âm nhạc Trường Cao đẳng
VHNT Thái Bình.
6
Đối tượng áp dụng là sinh viên Sư phạm Âm nhạc năm thứ 2 cho
hai giọng nữ cao và nam cao Trường Cao đẳng VHNT Thái Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thái Bình là một tỉnh đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhạc
sĩ. Từ những năm 60 của thế kỷ trước cho đến nay đã có nhiều ca khúc viết
về Thái Bình và để lại những dấu ấn nhất định trong tâm thức của người
dân nơi đây. Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không thể khảo sát
hết các ca khúc đó, mà chỉ chọn một số bài có tính tiêu biểu về thời điểm
lịch sử cũng như về nghệ thuật để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và quá
trình dạy học. Cụ thể những ca khúc đó là: Hai chị em (Hoàng Vân), Nghe
tiếng trống quê hương, Nón trắng trên đồng (Thái Cơ), Nắng ấm quê
hương (Vĩnh An), Hát về Thái Bình, Bức tranh quê (Nguyễn Đăng Nghị bút danh Thanh Nghị), Tiếng hát bên dòng sông Trà (Vũ Thiết), Anh hãy
về quê em (Bùi Anh Tú), Tân Đệ ơi mình (Đức Miên). Đây cũng là những
bài hát được Đoàn Ca - Múa - Nhạc Kịch Thái Bình sử dụng nhiều trong
các buổi biểu diễn và các đợt hội diễn ca múa nhạc toàn quốc.
Phần thực nghiệm của luận văn, chúng tôi chọn bài: Tiếng hát bên
dòng sông Trà của Vũ Thiết - dạy cho giọng nữ cao; và Hát về Thái Bình của
Nguyễn Đăng Nghị - dạy cho giọng nam cao để ứng dụng vào giảng dạy.
Nghiên cứu này được thực hiện trong thời gian từ tháng 10 năm
2016 đến tháng 04 năm 2017, tại trường Cao đẳng VHNT Thái Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, so sánh, đối chiếu, hệ
thống hóa các vấn đề liên quan. Thông qua phương pháp này sẽ giúp cho
chúng tôi nhận thấy được cấu trúc âm nhạc trong từng ca khúc, để khi áp
dụng vào dạy học sẽ có hiệu quả hơn.
7
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, quan sát, dự giờ, tổng
kết kinh nghiệm. Chúng tôi dùng phương pháp này để tìm hiểu thực trạng
dạy và học của khoa Sư phạm Âm nhạc Trường Cao đẳng VHNT Thái
Bình, đó sẽ là cơ sở giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Phương pháp này giúp chúng
tôi vận dụng trong luận văn để thuyết trình các thao tác trong giảng dạy và
thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi của những dữ kiện trong
luận văn.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn hy vọng góp một phần nhỏ trong việc nâng cao chất lượng
dạy và học thanh nhạc cho sinh viên Sư phạm Âm nhạc tại Trường Cao đẳng
VHNT Thái Bình, nhất là trong dạy học ca khúc viết về Thái Bình.
Có thể làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên, nhất là đối
với đồng nghiệp có cùng hướng nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực trạng dạy học thanh nhạc
Chương 2: Biện pháp dạy học ca khúc viết về Thái Bình
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC THANH NHẠC
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Phương pháp dạy học, dạy học Thanh nhạc
Qua tìm hiểu và tham khảo một số công trình nghiên cứu về
phương pháp dạy học và dạy học thanh nhạc trong các tài liệu đang lưu
hành, chúng tôi quan tâm đến khái niệm mà các nhà nghiên cứu đưa ra, từ
đó sẽ có những đánh giá và nhận định của riêng mình.
1.1.1.1. Dạy học
Bất cứ một khái niệm hay thuật ngữ nào, tùy theo góc độ nghiên
cứu mà mỗi người có một cách nhìn nhận, giải thích và lĩnh hội khác nhau.
Với khái niệm về dạy học cũng vậy, theo trang hamsterdk.forumvi.com thì:
Dạy học là quá trình hoạt động hai mặt do thầy giáo (dạy) và học
sinh (học) nhằm thực hiện các mục đích dạy học. Nhiệm vụ dạy
học trong nhà trường không chỉ đảm bảo một trình độ học vấn
nhất định mà còn góp phần hình thành nhân cách con người của
xã hội cộng sản chủ nghĩa” [45].
Với cách giải thích trên, chúng tôi cho rằng dạy học là một quá
trình. Do đó, nếu cắt nghĩa từ dạy và từ học tách bạch nhau ra để nói tới sự
riêng rẽ của hai hoạt động, sau đó mới nhập chung để giải thích hai từ dạy
học thì rõ ràng làm mất nghĩa của khái niệm này. Vì mang tính hợp từ (dạy
học) để tạo thành nghĩa chung, nên ý nghĩa dạy học đầu tiên của khái niệm
này là một quá trình. Đã là quá trình thì mang tính thời gian và những hoạt
động diễn ra trong thời gian đó. Nói rõ hơn, dạy học phải được diễn ra
trong một thời gian, không gian nhất định, ở đó có sự gắn kết bó bện giữa
hoạt động của người dạy và người học. Hai hoạt động của một quá trình
không thể tách rời nhau, có dạy nghĩa là có trò để dạy; có học (ở quá trình
9
này) nghĩa là có thày để học. Thày truyền bá kiến thức cho trò và trò lĩnh
hội kiến thức của thày thông qua những hoạt động đặc thù, nhưng hoạt
động này chủ yếu phải diễn ra trên tinh thần tự giác, trong những điều kiện
cần thiết. Hoạt động dạy học có thể diễn ra dưới hình thức một thày một
trò, cũng có thể một thày nhiều trò, ở không gian của lớp học, hoặc thông
qua trực tuyến... Mục đích cuối cùng của hoạt động dạy học là để đào tạo ra
những con người có tri thức và tri thức đáp ứng được nhu cầu của thời đại.
Một cách giải thích khác về dạy học cũng được sự quan tâm của
chúng tôi, đó là trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, có
viết ‘‘dạy là truyền lại tri thức hoặc kỹ năng một cách ít nhiều có hệ thống,
có phương pháp” [34, tr.236]; còn học là “thu nhận kiến thức, luyện tập kỹ
năng do người khác truyền lại” [34, tr.437]. Đây là cách giải thích riêng rẽ
từng bộ phận trong khái niệm, mặc dù rất ngắn gọn, nhưng đã cho thấy cái
cốt lõi nhất về nội hàm của từng thành tố trong khái niệm dạy học.
Trên phương diện về kỹ năng và khả năng áp dụng vào thực tế, nhà sư
phạm Hồ Ngọc Đại cho rằng, dạy học là một quá trình, và quá trình đó gồm:
Toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học
từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục
đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng,
các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có
khả năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ
cuộc sống của mỗi người học [9, tr.239].
Như vậy, từ những cách giải thích của các tác giả nêu trên, chúng
tôi nhận thấy rằng: Dạy học là quá trình tương tác giữa người dạy và người
học. Tuy nhiên, thực tế không chỉ đơn thuần có thế, mà nội hàm của nó
được mở rộng hơn. Theo chúng tôi, đó là quá trình mang bản chất của sự
hoạt động trí tuệ với sự nỗ lực sáng tạo không ngừng của người dạy và
người học. Do đó, muốn đạt được hiệu quả tốt trong quá trình dạy học, thì
10
một điều không kém phần quan trọng là người dạy và người học phải cần có
một phương pháp thích hợp với môi trường, với từng hoàn cảnh cụ thể.
1.1.1.2. Phương pháp dạy học
Trong cuộc sống cũng như trong lĩnh vực dạy học, muốn công việc
đạt hiệu quả cao thì trước tiên phải cần có phương pháp. Tuy nhiên, phải
tùy theo từng việc mà phải chọn những phương pháp cho thích ứng. Nếu
dùng sai phương pháp hay phương pháp không tương thích với mục đích
đặt ra, thì kết quả sẽ không như mong muốn.
Riêng về lĩnh vực giáo dục, đến nay có rất nhiều quan điểm về
phương pháp dạy học. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ lựa chọn một số về phương
pháp dạy học có tính khái quát, phù hợp với hướng tiếp cận của luận văn.
Theo GS Nguyễn Ngọc Quang thì: “Phương pháp dạy học là con đường
chính yếu, cách thức làm việc phối hợp, thống nhất của thày và trò, trong
đó thày truyền đạt nội dung trí dục để trên cơ sở đó và thông qua đó mà chỉ
đạo sự học tập của bản thân, để cuối cùng đạt tới mục đích dạy học” [38,
tr.34].
Cách cắt nghĩa của GS Trần Bá Hoành cho dù câu chữ có khác,
nhưng về cơ bản, phần nào có sự tương đồng với GS Nguyên Ngọc Quang.
GS Trần Bá Hoành giải thích như sau: “Phương pháp dạy học là cách thức
hoạt động của giáo viên trong việc chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập
nhằm giúp học sinh chủ động đạt được mục tiêu dạy học” [12, tr.27].
Có thể còn nhiều quan điểm khac nhau, nhưng nhìn chung phương
pháp dạy học có những điểm đáng chú ý đó là phản ánh: sự vận động của
quá trình chuyển giao kiến thức của người dạyđến quá trình nhận thức của
người học, nhằm đạt được mục đích học tập đề ra; là cách thức hoạt động,
tương tác, trao đổi thông tin, dạy học (truyền đạt và lĩnh hội) giữa người
dạy và người học; là cách thức tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của
người dạy, để kích thích và xây dựng động cơ, tổ chức hoạt động nhận thức
11
và kiểm tra, đánh giá kết quả nhận thức của người học; một quá trình thuộc
về cách thức tổ chức của người dạy, tác động đến sư tự điều khiển, tự kiểm
tra đánh giá của người học.
Từ những quan điểm và đặc trưng về phương pháp dạy học như
trên, chúng tôi cho rằng: Phương pháp dạy học là quá trình có tính hệ
thống, logic về cách thức hoạt động của người dạy và người học; quá trình
đó được tiến hành dưới sự điều khiển có tính chủ đạo của người dạy, nhằm
giúp người học chiếm lĩnh tri thức, thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
1.1.1.3. Dạy học thanh nhạc
Theo cuốn Phương pháp sư phạm thanh nhạc của nhà sư phạm
Nguyễn Trung Kiên thì:
Thanh nhạc là môn nghệ thuật có sự phối hợp giữa âm nhạc và
ngôn ngữ. Tuy là âm nhạc, nhưng cơ quan tạo nên giọng hát của
con người khác xa với những nhạc cụ bình thường, có thể gọi là
nhạc cụ sống với sức mạnh biểu cảm lớn lao, khả năng phổ cập
rộng rãi [15, tr.7].
Phương pháp dạy học thanh nhạc, cơ bản cũng phải được nhìn nhận
cơ bản giống với phương pháp dạy học như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, dạy
học thanh nhạc lại có những điểm khác, bởi dạy học thanh nhạc là một hoạt
động sư phạm đặc biệt, mang tính đặc thù, thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo
của những người nghiên cứu làm công tác sư phạm. Do vậy, yêu cầu đối
với GV dạy học thanh nhạc ngoài phương pháp dạy học chung, thì phải có
trình độ kiến thức, năng lực chuyên môn thanh nhạc cũng như sự hiểu biết
sâu sắc kỹ thuật, nghệ thuật ca hát. Đặc biệt, người dạy phải có phương
pháp truyền thụ kiến thức thanh nhạc đến người học. Quá trình dạy học
thanh nhạc là quá trình tác động của nhà sư phạm thanh nhạc với đối tượng
đào tạo, là quá trình phân tích, diễn giải kiến thức thanh nhạc, nhằm tạo nên
giọng hát có kỹ thuật, âm thanh đẹp, có sức truyền cảm sâu sắc.
12
Hiện nay, dạy học thanh nhạc có hai hình thức chính là: dạy học
thanh nhạc trong đào tạo chuyên ngành và dạy học thanh nhạc trong đào
tạo giáo viên âm nhạc. Sự khác nhau của hai hình thức dạy học này xuất
phát từ việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo. Thiết nghĩ, là GV
thanh nhạc, muốn thực hiện tốt được nhiệm vụ dạy học của mình, thì cần
phải hiểu rõ sự khác biệt giữa hai hình thức đào tạo này, từ đó mới có thể
đưa ra được phương pháp dạy học phù hợp, giúp quá trình dạy - học đạt
được mục tiêu đào tạo một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
1.1.2. Ca khúc và ca khúc viết về Thái Bình
1.1.2.1. Ca khúc
Ở Việt Nam, ca khúc có các từ đồng nghĩa như: bài hát, bài ca,
khúc ca. Cho đến nay đã có nhiều cách giải thích khái niệm về ca khúc,
chẳng hạn:
Trong cuốn Từ điển âm nhạc của tác giả Vũ Tự Lân, xuất bản năm
2015 có giải thích:
Ca khúc, bài hát - là một trong những hình thức thanh nhạc, phổ
biến rộng rãi trong sáng tác âm nhạc dân gian, trong sinh hoạt âm
nhạc và cả trong âm nhạc chuyên nghiệp. Ca khúc là thể loại âm
nhạc lâu đời nhất, cho đến ngày nay ca khúc vẫn là thể loại phổ
biến nhất…[23, tr.56].
Trong cuốn Các thể loại âm nhạc của các tác giả Nga (Lan Hương
dịch), thì ca khúc là: “những sáng tác của nhân dân (dân ca), những tác
phẩm của nhạc sĩ chuyên nghiệp (ca khúc quần chúng)… có cả những tiết
mục trong ô - pê - ra cũng được gọi là ca khúc” [33, tr.19].
Cách giải thích khái niệm về ca khúc ở hai cuốn sách trên đều có
điểm chung, đó là ca khúc là một thể loại âm nhạc, nó hiện diện cả trong
âm nhạc dân gian và âm nhạc chuyên nghiệp. Tuy nhiên, cách giải thích
khái niệm như vậy dù mang tính khái quát nhưng chưa có sự tương thích
13
giữa ngoại diên và nội hàm của khái niệm. Do đó chúng tôi chú ý nhiều đến
cách giải thích của tác giả Dương Anh, ông cho rằng:
Ca khúc là danh từ dùng để gọi những tác phẩm âm nhạc được
thể hiện bằng giọng người (thanh nhạc). Nó là sản phẩm của một
tập thể (ca khúc dân ca), hay do nhạc sĩ chuyên nghiệp sáng tác.
Ca khúc gồm hai bộ phận hợp thành đó là âm nhạc và lời ca.
Trong dân gian, tùy theo tính thực hành xã hội mà có nhiều loại
ca khúc khác nhau, có loại gắn với nghi thức tâm linh trong hội
hè, những có loại gắn với trò chơi, ru con, hay lao động sản xuất.
Trong âm nhạc chuyên nghiệp cũng vậy, do nhu cầu phản ánh
hiện thực của sống xã hội, nên ca khúc có nhiều dòng với nhiều
thể loại khác nhau [1, tr.162].
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với cách giải thích này. Tuy nhiên, do
nội dung nghiên cứu luận văn là dạy học ca khúc viết về Thái Bình cho
sinh viên sư phạm âm nhạc, vì thế ở đây chúng tôi không bàn đến ca khúc
dân gian mà chỉ quan tâm đến ca khúc mới (ca khúc hình thành những năm
30 của thế kỷ XX đến nay, được sáng tác trên 5 dòng kẻ, chủ yếu theo thủ
pháp của phương Tây). Chính vì lẽ đó, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với
cách lý giải của tác giả Dương Anh, khi cho rằng:
Phần chia ca khúc thành nhiều loại/ dạng khác nhau là việc làm
vô cùng khó khăn. Tuy nhiên trên thực tế đã có những cách phân
chia không giống nhau, bởi cách tiếp cận của từng người với
những mục đích khác nhau... Như vậy, dù được phân chia thành
nhiều loại/ dạng khác nhau, nhưng nhìn chung trong ca khúc thì
yếu tố giai điệu phải được đặt lên hàng đầu. Giai điệu vừa có sự
hoàn chỉnh về hình tượng âm nhạc, mang tính độc lập, nhưng vừa
có sự liên kết chặt chẽ với lời ca trong một tổng thể cấu trúc hoàn
chỉnh [1, tr.162].
14
Nhìn chung ca khúc thường có cấu trúc ngắn gọn, được viết ở hình
thức một đoạn, hai đoạn hoặc ba đoạn đơn, có thể có hoặc không có phần
nhạc đệm. Nội dung phản ánh trong ca khúc rất đa dạng, từ những xúc động
của riêng từng người, đến phong cảnh thiên nhiên, đất nước, Tổ quốc và
những sự kiện lịch sử …
Như vậy, ca khúc là một tác phẩm âm nhạc được biểu diễn bởi
giọng người thường được viết ở hình thức nhỏ; một, hai hoặc ba đoạn đơn
có hoặc không có nhạc đệm. Ca khúc là một bộ phận của loại hình nghệ
thuật âm nhạc, nó không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của người
dân. Đặc biệt ở Việt Nam, ca khúc đã góp phần không nhỏ trong việc động
viên tinh thần nhân dân trong công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước
xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Ca khúc viết về Thái Bình
Trên cơ sở giải thích khái niệm như trên, thì ca khúc viết về Thái
Bình được hiểu là những bài ca do các nhạc sĩ sáng tác theo phương thức
của phương Tây. Ngoài đặc điểm chung như những ca khúc khác, thì ca
khúc viết về Thái Bình cũng có nét riêng. Nét riêng đó thường được biểu
hiện rõ trong giai điệu và lời ca. Giai điệu không cầu kỳ mà mộc mạc, uyển
chuyển, đằm thắm dễ hát dễ đi vào tâm trí người nghe. Tính chất âm nhạc
thường gần gũi với âm hưởng của chèo. Lời ca cũng mộc mạc giản dị, với
nhiều địa danh, con người trong tỉnh được nhắc tới. Thậm chí những địa
danh con người đó được đưa ngay vào tên của ca khúc, chẳng hạn: Nón
trắng trên đồng, Nghe tiếng trống quê hương (Thái Cơ), Hát về Thái Bình
(Nguyễn Đăng Nghị), Hai chị em (Hoàng Vân), Thái Bình một bản tình ca
(Phạm Trọng Toàn)... là những ví dụ điển hình. Đặc biệt, khi thưởng thức
toàn bộ âm hưởng (giai điệu và lời ca) của ca khúc, thì người nghe dễ dàng
nhận diện đó là ca khúc viết về Thái Bình chứ không phải về một vùng quê
nào khác.
15
1.1.3. Giọng nữ cao, giọng nam cao
Trong dạy học thanh nhạc, việc phân chia thành các loại giọng hát
là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, để thực hiện công việc này không phải là
việc đơn thuần, mặt khác việc phân loại cũng chỉ mang tính tương đối, bởi
giọng hát của mỗi người còn bị chi phối bởi gen di chuyền, điều kiện môi
trường, xã hội… Dẫu vậy người ta vẫn có những cơ sở nhất định để xác
định giọng hát trong thanh nhạc chuyên nghiệp. Theo nhà sư phạm thanh
nhạc Nguyễn Trung Kiên thì: "Chủ yếu việc xác định, phân loại giọng hát
được tiến hành thông qua tai nghe, dựa vào những đặc tính của từng loại
giọng để phân biệt. Những đặc tính đó là: âm vực của giọng, âm sắc của
giọng, các nốt chuyển giọng" [16, tr.64].
Trong thanh nhạc chuyên nghiệp, người ta chia thành hai loại giọng
chính là: giọng nam và giọng nữ (bao gồm cả giọng thiếu nhi và người lớn).
Mỗi loại giọng lại có thể chia ra thành nhiều loại khác nhau. Giọng nữ có: nữ
cao, nữ trung, nữ trầm. Giọng nam có: nam cao, nam trung và nam trầm Tuy
nhiên, do giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn, nên chúng tôi chỉ đề cập
đến giọng nữ cao và giọng nam cao với những đặc tính điển hình.
1.1.3.1. Giọng nữ cao
Giọng nữ cao, tiếng Ý gọi là Soprano, là giọng hát cao nhất trong
các loại giọng. Đây là giọng mang thuộc tính nữ, hát tốt ở những âm khu
cao với đặc trưng là âm thanh sáng sủa. Giọng nữ cao thực hiện được nhiều
loại kỹ thuật như: legrato, staccato, trillo, passage... Giọng nữ cao có thể
thể hiện tốt được những tác phẩm đòi hỏi kỹ thuật tinh tế và điêu luyện như
trong các thể loại opera, romance của quốc tế và Việt Nam.
Âm vực của giọng: c1 - c3
16
Khoa học thanh nhạc phương Tây chia giọng nữ cao thành ba loại
chính: nữ cao kịch tính, nữ cao trữ tình và nữ cao màu sắc. Mỗi loại giọng
này đều mang những đặc điểm riêng và được thể hiện qua âm vực, âm sắc
và âm khu. Trong sách của các nhà sư phạm thanh nhạc Mai Khanh, Hồ
Mộ La, Nguyễn Trung Kiên... đều có chung những nhận xét vè các loại
giọng nữ cao như sau:
Giọng nữ cao kịch tính (soprano - dramatico): có đặc điểm là âm
sắc chắc khỏe, mạnh mẽ, âm vực rộng, khi hát xuống âm khu thấp (từ g1
xuống b) âm sắc dày dặn, hơi giống âm thanh của giọng nữ trung.
Giọng nữ cao trữ tình (soprano - lyrico): có âm sắc mềm mại uyển
chuyển, âm vực rộng với âm thanh bay bổng, mềm mại trong sáng và êm
dịu, giọng có thể chuyển thành kịch tính ở những đoạn cao trào.
Giọng nữ cao màu sắc (sopran - coloratura): âm sắc trong sáng, linh
hoạt, nhẹ nhàng, đặc biệt có khả năng luyến láy các nốt ở âm vực cao rất
tốt, âm vực rộng hơn so với nữ cao bình thường. Ở âm khu cao giọng nữ
cao, âm sắc nghe giống tiếng sáo.
Sở trường của giọng nữ cao là việc thể hiện tốt những kỹ thuật, kỹ
xảo ở âm khu cao. Để thể hiện được những kỹ thuật, kỹ xảo đó đòi hỏi
người học phải nắm chắc những kỹ thuật hát cơ bản như: tư thế, khẩu hình,
hát rõ lời, hát chuẩn xác và cộng minh. Tuy nhiên, từ cách chia giọng hát
đến yếu cầu về kỹ thuật để đạt được trình bày ở trên đều là những chuẩn
mực chung cho giọng nữ cao theo quan niệm của người phương Tây. Từ
thực tế giảng dạy, thì thấy những chuẩn mực trên áp dụng vào Việt Nam,
không phải lúc nào cũng đúng. Có những sinh viên giọng nữ cao nhưng
vẫn có thể xuống thấp đến nốt a ở quãng tám nhỏ.
1.1.3.2. Giọng nam cao
Tương tự như giọng nữ cao, giọng nam cao (tenor) cũng có những
đặc điểm chung như sau:
17
Giọng nam cao có âm vực rộng, thường có màu sắc âm thanh trong
sáng, bay bổng, là giọng cao nhất trong các loại giọng nam. Theo cách chia
của các nhà khoa học thanh nhạc phương Tây, thì giọng nam cao thường có
âm vực từ nốt c1 và lên cao tới nốt a3 hoặc cao hơn.
Giọng nam cao được chia thành ba loại chính và cũng có những đặc
điểm riêng về âm sắc:
Giọng nam cao kịch tính (dramatic tenor), đặc điểm của giọng hát
này thường dày, khoẻ, có thể lên đến c3.
Giọng nam cao trữ tình (lirico tenor) có đặc điểm âm sắc thường
đẹp, sáng, bay bổng.
Giọng nam cao nhẹ (leggiero tenor), âm sắc của loại giọng này
thường nhẹ nhàng, trong sáng, thanh thoát nhưng hơi mảnh.
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu về các giọng hát, những tư liệu
liên quan tới chuyên ngành như cuốn Lịch sử thanh nhạc phương Tây,
Phương pháp dạy thanh nhạc của Hồ Mộ La, cuốn Phương pháp sư phạm
thanh nhạc của Nguyễn Trung Kiên, chúng tôi thấy rằng những nhà sư
phạm thanh nhạc đã đúc kết và đưa ra hình thức nhận biết giọng hát rất đa
dạng. Tuy nhiên, cũng như giọng nữ cao, giọng nam cao không phải lúc
nào cũng phù hợp khi hát ca khúc Việt Nam vì có những bài giọng nam cao
phải hát xuống cả nốt g (quãng tám nhỏ).
1.1.4. Hơi thở trong thanh nhạc và tư thế hát
Trong dạy học thanh nhạc, nhất thiết GV và sinh viên phải hiểu sơ
qua về lý luận thanh nhạc. Chúng tôi không thể đi hết được các vấn đề, ở
đây chúng tôi bàn tới về hơi thở và tư thế đứng trong luyện tập ca hát nhằm
đáp ứng mục tiêu của luận văn đề ra.
18
1.1.4.1. Hơi thở trong thanh nhạc
Về cơ bản vẫn là chu trình hít vào thở ra, nhưng hơi thở trong thanh
nhạc không chỉ đơn giản có vậy. Hơi thở thanh nhạc phải thực hiện nhiệm
vụ kép, tức là vừa duy trì sự sống, vừa đảm bảo về kỹ thuật cần thiết để
phục vụ cho kỹ thuật thanh nhạc. Trong dạy học và biểu diễn thanh nhạc
hơi thở có vài trò vô cùng quan trọng. Khi nói đến kỹ thuật ca hát, các nhà
sư phạm thanh nhạc trong và ngoài nước không thể không quan tâm tới hơi
thở, cho dù đến nay vấn đề này chưa có sự thống nhất trong quá trình dạy
học và biểu diễn thanh nhạc. Có người đưa ra quan điểm hơi thở chỉ là một
hoạt động tự nhiên, nhưng cũng có người lại cho rằng hơi thở là quan
trọng, nó quyết định toàn bộ quá trình học tập và biểu diễn thanh nhạc. Qua
Cuốn Phương pháp sư phạm thanh nhạc của Nguyễn Trung Kiên do Viện
Âm nhạc xuất bản, chúng tôi được biết F Lamperti (1813 - 1892) - người
đại diện cho trường phái của nghệ thuật ca hát ở Ý nửa sau thế kỷ XIX khi bàn về hơi thở, ông cho rằng: “Nghệ thuật của ca hát là nghệ thuật của
hơi thở” [14, tr.48].
Riêng với bản thân đã có thời gian học tập, sau đó có giảng dạy và
được tập huấn thanh nhạc, được tiếp xúc với các nhà sư phạm thanh nhạc
nổi tiếng ở trong nước, tôi thấy rằng, hơi thở dẫu không phải quyết định
toàn bộ chất lượng ca hát, nhưng đều được các nhà sư phạm quan tâm đặc
biệt. Từ thực tế dạy học thanh nhạc, đặc biệt là hoạt động ca hát trên các
sân khấu ca nhạc hiện nay thì thấy nhiều em giọng hát đẹp, tầm cữ rộng,
nhưng hơi thở không tốt khi thể hiện câu hát bị vụn, người nghe dễ thấy
tiếng xì, hay tiếng hấc. Nếu hơi thở không tốt sẽ không biểu hiện được nội
dung của câu nhạc, hình tượng âm nhạc sẽ bị cắt xén, vụn vặt, mất tính
thẩm mỹ, ngoài ra gây nên sự mệt mỏi cho chính người hát. Khi bàn bơi
thở trong dạy học thanh nhạc, nhà sư phạm Nguyễn Trung Kiên cho rằng
đây là vấn đề khá quan trọng cả trong quá trình học và sau này ra thực hành
thanh nhạc. Chúng tôi tóm lược một số ý chính như sau:
19
Ngoài chức năng chính cung cấp dưỡng khí cho cơ thể và tác
động lên thanh đới để tạo ra âm thanh, hơi thở trong thanh nhạc
còn giải quyết một vấn đề nữa là góp phần làm rõ ý nghĩa của
câu hát… Ngoài mục đích giải quyết yêu cầu của âm thanh, còn
phải phục vụ cả ý nghĩa của câu hát nữa… Đôi khi hít thở còn
biểu hiện những cảm xúc tinh tế trong diễn xuất, chẳng hạn biểu
hiện một sự xúc động đột ngột, sự ngạc nhiên, hoặc sự dồn dập
của cao trào âm nhạc. Tuy nhiên, những tác dụng đó cũng chỉ là
thứ yếu. Ý nghĩa quan trọng chủ yễu của hơi thở vẫn là cùng với
thanh đới tạo ra âm thanh, góp phần quyết định chất lượng của
giọng hát [14, tr.46-47].
Các ca khúc viết về Thái Bình, giai điệu chủ yếu thường dàn trải,
ngân nga, trữ tình. Đây là một trong những đặc điểm chúng tôi cần chú
trọng trong quá trình lên lớp, rèn luyện hơi thở cho SV để khi hát các em sẽ
thể hiện đúng tinh thần của ca khúc viết về Thái Bình.
1.1.4.2. Tư thế hát
Trong quá trình dạy học thanh nhạc, ngoài việc dạy cho SV các kỹ
thuật, kỹ xảo ca hát thì tư thế hát cũng là một phần vô cùng quan trọng. Tư
thế hát không đúng sẽ không có được những âm thanh hay và đẹp. Tư thế
hát, ngoài vấn đề ảnh hưởng tới hơi thở âm thanh, nó còn thể hiện phần nào
phong cách, tư chất của người hát. Khi thể hiện tác phẩm thanh nhạc có thể
ngồi, hoặc đứng hát. Đứng hát, thực hiện hít thở thường dễ dàng hơn khi
ngồi hát. Dẫu ở tư thế nào đi chăng nữa, thì người hát phải đảm bảo sự
thoải mái để thể hiện một cách tốt nhất tác phẩm. Trong dạy học thanh
nhạc trên lớp, chúng tôi chỉ cho học ở tư thế đứng hát.
Đứng hát phải đứng thẳng ở tư thế thả lỏng tự nhiên, nghĩa là không
được so vai, hoặc quá ưỡn ngực về phía trước, không bám hoặc vịn tay vào
đàn piano hay vê tay vào gấu áo. Đứng thẳng ở tư thế thả lỏng tự nhiên, sẽ