Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Rèn luyện kỹ năng thẩm âm, tiết tấu cho học sinh tại một số trung tâm âm nhạc thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.22 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

HỒ THỊ BẢO HOA

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THẨM ÂM, TIẾT TẤU
CHO HỌC SINH TẠI MỘT SỐ TRUNG TÂM
ÂM NHẠC THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
Khóa 5 (2015 - 2017)

Hà Nội, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

HỒ THỊ BẢO HOA

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THẨM ÂM, TIẾT TẤU
CHO HỌC SINH TẠI MỘT SỐ TRUNG TÂM
ÂM NHẠC THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc
Mã số: 60.14.01.11

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Tố Mai


Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học trong luận văn chưa
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 02 tháng 04 năm 2018
Người cam đoan

Hồ Thị Bảo Hoa


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP

Đại học sư phạm

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

Nxb

Nhà xuất bản


PPDH

Phương pháp dạy học

PTDH

Phương tiện dạy học

TĐBK

Từ điển bách khoa

THCS

Trung học cơ sở


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................. 7
1.1. Một số khái niệm ................................................................................. 7
1.1.1. Kỹ năng và rèn luyện kỹ năng ....................................................................7
1.1.2. Năng khiếu ...................................................................................................9
1.1.3. Rèn luyện kỹ năng thẩm âm, tiết tấu ........................................................10
1.2. Vai trò của âm nhạc với sự phát triển toàn diện cho học sinh ............ 13
1.2.1. Âm nhạc với giáo dục thẩm mỹ ...............................................................13
1.2.2. Âm nhạc góp phần giáo dục đạo đức .............................................. 15
1.2.3. Âm nhạc góp phần phát triển trí tuệ .........................................................17
1.2.4. Âm nhạc góp phần phát triển thể chất ......................................................18

1.3. Vai trò của việc phát triển năng khiếu trong dạy học âm nhạc ........... 19
1.3.1. Vai trò của năng khiếu đối với việc học âm nhạc ....................................19
1.3.2. Vai trò của rèn luyện thẩm âm, tiết tấu .....................................................22
1.4. Thực trạng dạy và học tại trung tâm âm nhạc Piano Sonata và Muzik
Art ở Thành phố Hải Phòng .............................................................................24
1.4.1. Khái quát về hoạt động của trung tâm âm nhạc Piano Sonata và
Muzik Art ............................................................................................................24
1.4.2. Năng khiếu âm nhạc của học sinh ở hai trung tâm Piano Sonata và
Muzik Art .............................................................................................................26
1.4.3. Thực trạng dạy học âm nhạc ở hai trung tâm Piano Sonata và Muzik Art ....29
Tiểu kết ............................................................................................................ 34
Chương 2: BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN THẨM ÂM, TIẾT TẤU .................. 35
2.1. Xây dựng bài tập và hướng dẫn rèn luyện thẩm âm, tiết tấu .............. 35
2.1.1. Tiêu chí xây dựng bài tập ..........................................................................36
2.1.2. Bài tập và hướng dẫn luyện tập thẩm âm .................................................37
2.1.3. Bài tập và hướng dẫn luyện các dạng tiết tấu cơ bản ...............................46


2.2. Sử dụng một số phương pháp dạy học vào luyện tập thẩm âm, tiết tấu ......... 56
2.2.1. Kết hợp phương pháp trò chơi ..................................................................56
2.2.2. Luyện nghe cao độ, tiết tấu kết hợp vận động ..........................................62
2.3. Luyện tập lồng ghép thẩm âm - tiết tấu ............................................. 66
2.3.1. Luyện tập lồng ghép trong các giờ dạy hát ........................................... 66
2.3.2. Luyện tập lồng ghép trong các giờ dạy đàn .......................................... 68
2.4. Thực nghiệm sư phạm ....................................................................... 72
2.4.1. Mục đích thực nghiệm...............................................................................72
2.4.2. Nội dung thực nghiệm ...............................................................................72
2.4.3. Đối tượng thực nghiệm .............................................................................73
2.4.4. Thời gian thực nghiệm ..............................................................................73
2.4.5. Tiến hành thực nghiệm..............................................................................73

2.4.6. Kết quả thực nghiệm .................................................................................75
Tiểu kết ............................................................................................................ 77
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 80
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 84


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật của âm thanh, sử dụng âm thanh làm
phương tiện diễn đạt. Để có thể tiếp nhận, thưởng thức và vận dụng kiến
thức vào các hoạt động thực hành (nghe/thưởng thức âm nhạc, xướng âm,
đàn, hát...), người học cần đạt được những kiến thức và kĩ năng ở mức độ
nhất định. Trong tác phẩm âm nhạc, sự tổ chức, liên kết các cao độ và
trường độ là yếu tố ngôn ngữ chính xây dựng nên nội dung, hình tượng.
Chính vì vậy, kỹ năng thẩm âm, tiết tấu là nền tảng để người học bước vào
quá trình nhận thức âm nhạc, là cơ sở để phát triển năng lực phân tích, sáng
tạo cũng như các kỹ năng thực hành khác. Đặc biệt đối với học sinh ở lứa
tuổi tiểu học, kỹ năng thẩm âm, tiết tấu nếu được chú ý rèn luyện đúng
phương pháp còn mang lại hứng thú học tập âm nhạc cao cho các em, tạo
điều kiện cho nhà trường và các cơ sở đào tạo âm nhạc sử dụng loại hình
nghệ thuật này như một phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, rèn luyện
thể chất và trí tuệ.
Thực tế hoạt động giáo dục âm nhạc ở bậc tiểu học cho thấy hầu hết
giáo viên vẫn chưa chú trọng đến rẻn luyện kỹ năng thẩm âm, tiết tấu cho
học sinh mà chủ yếu dạy hát. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy ở môn tập
đọc nhạc của chương trình âm nhạc tiểu học cũng chưa thực sự được xem
trọng. Điều này do nhiều yếu tố, trong đó nội dung chương trình được biên
soạn và năng lực dạy học của giáo viên là hai vấn đề cơ bản. Rất nhiều học

sinh lớp 4, lớp 5 đến trung tâm chúng tôi học đàn, học hát nhưng vẫn chưa
nắm vững về giá trị trường độ của các hình nốt, thậm chí gặp khó khăn lớn
khi giữ chắc phách, nhịp trong quá trình hát hoặc tập bài nhạc cụ.
Các câu lạc bộ phát triển năng khiếu âm nhạc cho học sinh ở thành
phố Hải Phòng là nơi tiếp nhận giảng dạy cho đông đảo con em ở lứa tuổi
tiểu học trên địa bàn thành phố. Ở đó, các em học sinh được học các môn


2
học: Piano, violon, hát, múa... Mô hình này đặc biệt được đông đảo phụ
huynh học sinh quan tâm để có thể phát triển toàn diện cho các em. Mặc dù
vậy, các giáo viên chuyên ngành cũng chỉ tập trung thực hiện đúng phần
công việc của mình được giao (dạy nhạc cụ, hát, múa...) mà không chú
trọng đến năng lực thẩm âm, tiết tấu của học sinh. Qua khảo sát một số câu
lạc bộ tại thành phố Hải Phòng, tôi nhận thấy cần thay đổi rất nhiều phương
pháp giảng dạy chưa chuẩn như: giáo viên dạy đàn “truyền tay”, đọc nhạc
“truyền khẩu” cho học sinh mà không cần nhìn vào bản nhạc, học sinh đọc
nốt nhạc yếu, một số còn không thuộc nốt nhạc, không vỡ được bài về tiết
tấu mà nghe giáo viên xướng âm, thậm chí là thầy đàn trước rồi trò đàn
theo... Vì thế, có không ít trường hợp khi về nhà cha mẹ hỏi con tên nốt
trên bản nhạc là gì thì không biết, điều này xảy ra cả với những em đã chơi
bản nhạc đó khá thành thạo. Về dạy hát thì có hiện tượng một số em học
sinh thích hát nhưng nhiều khi hát không chính xác, giáo viên rất chật vật
để dạy hát đúng cho các em. Sở dĩ như vậy là do phương pháp dạy học có
sự thiếu hụt nền tảng cơ bản cho học sinh, gây khó khăn không nhỏ trong
quá trình tiếp thu, rèn luyện kỹ năng diễn tấu nhạc cụ, hát... Thiết nghĩ, để
giải quyết những vấn đề đó cần có sự luyện tập những kỹ năng cơ bản như
rèn luyện thẩm âm, tiết tấu để nâng cao khả năng hát đúng giai điệu, biết
thực hiện trường độ, tiết tấu khi học đàn cho học sinh.
Là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy và quản lý trung tâm âm nhạc

Piano Sonata tại thành phố Hải Phòng, xuất phát từ những vấn đề nêu trên,
để góp phần nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh tại trung tâm, tôi
chọn đề tài: “Rèn luyện kỹ năng thẩm âm, tiết tấu cho học sinh tại một số
trung tâm âm nhạc thành phố Hải Phòng” cho luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc.
2. Lịch sử nghiên cứu
Qua tham khảo, nghiên cứu các tài liệu và tìm hiểu thực tế, chúng tôi


3
nhận thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến phương
pháp rèn luyện xướng âm, đọc- ghi nhạc, tiết tấu cũng như các giáo trình
liên quan đến bộ môn xướng âm như:
- Trịnh Hoài Thu, Nguyễn Thị Tố Mai, Nguyễn Thị Hải Phượng, Trần
Thị Thu Anh (2011), Phương pháp dạy học Ký - xướng âm trong đào tạo
giáo viên âm nhạc phổ thông. Giáo trình gồm bốn chương với những kiến
thức về lý luận và phương pháp dạy học môn Xướng âm, ghi âm và một số
bài tập thực hành Ký - Xướng âm.
- Hoàng Hoa, Phạm Phương Hoa (2002), Giáo trình ký xướng âm
trình độ I, Bộ Văn hóa thông tin - Nhạc viện Hà Nội; Phạm Tú Hương Phạm Thanh Vân (2002), Giáo trình ký xướng âm trình độ II, Bộ Văn hóa
thông tin - Nhạc viện Hà Nội. Hai giáo trình này cung cấp hệ thống bài tập
kí - xướng âm dành cho học sinh, sinh viên các chuyên ngành ở nhạc viện.
- Nguyễn Thị Tố Mai (chủ biên), Nguyễn Đắc Quỳnh, Nguyễn Thị
Phương Mai, Nguyễn Khải, Tài liệu môn xướng âm giọng C- dur và a moll cho hệ ĐHSP Âm nhạc. Tài liệu gồm 5 chương, hai chương đầu rèn
luyện giọng Đô trưởng (C-dur), ba chương cuối là giọng La thứ (a-moll);
Trần Thị Thảo (2014), Nghiên cứu biên soạn Giáo trình dạy học môn
Xướng âm cho năm thứ nhất hệ Cao đẳng Sư phạm Âm nhạc trường Cao
đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Hạ Long, Luận văn tốt nghiệp chuyên
ngành Lý luận và phương pháp dạy học, Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung
ương. Đây là những tài liệu, công trình nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu

giảng dạy và học tập môn kí - xướng âm của sinh viên hệ CĐSP và ĐHSP
ngành Âm nhạc.
Các giáo trình, tài liệu về Lý thuyết âm nhạc cơ bản có đề cập đến các
nội dung dạy học về thẩm âm, tiết tấu:
- Lý thuyết âm nhạc cơ bản của V.A. Va-khra-mê-ev (Vũ Tự Lân
dịch), Nxb Âm nhạc, Hà Nội năm 1993; Giáo trình Lý thuyết âm nhạc cơ


4
bản (dự án đào tạo giáo viên THCS) của tác giả Phạm Tú Hương viết cho
hệ CĐSP Âm nhạc, năm 2004; Giáo trình Lý thuyết cơ bản về âm nhạc (hệ
CĐSP Âm nhạc) của tác giả Đỗ Hải Lễ, năm 2000; Giáo trình Lý thuyết âm
nhạc cơ bản (hệ Đại học Sư phạm Âm nhạc) của tác giả Trịnh Hoài Thu,
năm 2014; Hoàng Ngọc Anh Thơ (2013), "Dạy học môn Lý thuyết âm nhạc
cơ bản cho sinh viên Cao đẳng Sư phạm Âm nhạc - Trường Cao đẳng Sư
phạm Lạng Sơn", Luận văn thạc sĩ chuyên nghành Lý luận và phương
pháp dạy học Âm nhạc, trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương.
Các công trình và sách trên là nguồn tài liệu để chúng tôi tham khảo
khi viết luận văn. Các tài liệu này tập trung vào những kiến thức thuộc lý
thuyết âm nhạc. Những bài tập xướng âm và tiết tấu chỉ nhằm mục đích
minh họa, bổ sung cho kiến thức lý thuyết và không được trình bày theo
dạng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng.
Tài liệu nước ngoài nổi bật có:
- A. Danhauser and L. Lemoine (1910 - 1923), Singing exercisers
(Sòlfege de Sòlfege), Paris, France với hệ thống các bài học xướng âm từ
thấp đến cao theo giá trị hình nốt, tiết tấu và hóa biểu. Tài liệu này không
biên soạn theo phương pháp tiếp cận về quãng mà chỉ tập trung vào sự tăng
dần dấu hóa trên hóa biểu, thậm chí sớm có những bậc hóa bất thường nên
rất khó áp dụng để làm bài tập rèn luyện thẩm âm, tiết tấu cho HS ở các
trung tâm âm nhạc tại thành phố Hải Phòng.

- Richard Hoffman (2009), The Rhythm Book, America. Tài liệu này
hướng dẫn luyện tập các tiết tấu chủ yếu phục vụ cho học nhạc cụ chuyên
nghiệp ở các nhạc viện, không phù hợp với đối tượng học sinh tiểu học.
Như vậy, cho đến nay, đề tài chúng tôi nghiên cứu biện pháp rèn
luyện kĩ năng thẩm âm, tiết tấu cho học sinh tại các trung tâm âm nhạc
thành phố Hải Phòng không trùng lặp với bất kì đề tài, tài liệu nào.


5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng thẩm âm,
tiết tấu cho học sinh tại một số trung tâm âm nhạc thành phố Hải Phòng. Từ
đó, hỗ trợ việc dạy học hát và đàn có hiệu quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu về tầm quan trọng của năng khiếu trong học tập âm
nhạc .
+ Nghiên cứu thực trạng dạy và học âm nhạc tại hai trung tâm Piano
Sonata và Muzik Art, thành phố Hải Phòng.
+ Đề xuất biện pháp rèn luyện kỹ năng thẩm âm, tiết tấu cho học sinh
tại hai trung tâm Piano Sonata và Muzik Art, thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp rèn luyện kỹ năng thẩm âm, tiết tấu cho học sinh
tại hai trung tâm Piano Sonata và Muzik Art, thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm và khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi
học sinh ở lứa tuổi tiểu học (6-11 tuổi) tại hai trung tâm âm nhạc là Piano
Sonata và Muzik Art, thành phố Hải Phòng.
- Qui mô nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu xây dựng bài tập rèn luyện

thẩm âm và tiết tấu ở mức độ tương đương với đặc điểm phù hợp với học
sinh ở lứa tuổi tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
Khảo sát năng khiếu học sinh và kết quả dạy học đạt được ở hai trung


6
tâm âm nhạc là Piano Sonata và Muzik Art, thành phố Hải Phòng, thống kê số
lượng học sinh trong một nhóm lớp học đàn/hát để làm cơ sở nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp.
So sánh chất lượng đầu vào và kết quả đầu ra ở mỗi trung tâm cũng
như giữa các trung tâm, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng khiếu và
kết quả học tập của HS; tổng hợp, phân loại các nhóm đối tượng theo mức
độ năng khiếu để tiến hành đánh giá một cách khách quan và chi tiết.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm triển khai và thực nghiệm đối chứng
trong năm 2017 để xác thực tính chính xác, khách quan và khả thi của đề
tài.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Biện pháp rèn luyện thẩm âm và tiết tấu


7
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm
Trước khi đi vào những vấn đề mang tính cốt lõi của đề tài như vai trò
của âm nhạc với học sinh, vai trò của việc phát triển năng khiếu trong dạy học
âm nhạc, thực trạng dạy học tại một số trung tâm âm nhạc ở Hải Phòng…, luận
văn xin được giải thích một số khái niệm liên quan đến đề tài.

1.1.1. Kỹ năng và rèn luyện kỹ năng
1.1.1.1. Kỹ năng
Khái niệm về kỹ năng được nhóm tác giả Lê Văn Hồng (chủ biên),
Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thắng đưa ra trong quyển Tâm lí học lứa tuổi
và tâm lí học sư phạm, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội (2012) là “khả năng
vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp...) để giải quyết
một nhiệm vụ mới” [8; tr.80]. Cũng trong tài liệu này, các tác giả cho rằng
kỹ năng là “khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với
những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho dù đó là
hành động cụ thể, hay hành động trí tuệ” [8; tr.166]. Hai khái niệm trên cho
thấy kỹ năng có quan hệ mật thiết với kiến thức, dựa vào kiến thức để điều
khiển hoạt động.
Từ điển Bách khoa Việt Nam do Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên
soạn từ điển Việt Nam (2002) khái niệm: Kỹ năng là “Giai đoạn trung gian
giữa tri thức và kỹ xảo trong quá trình nắm vững một phương pháp hành
động. Đặc điểm đòi hỏi sự tập trung chú ý cao, sự kiểm soát chặt chẽ của
thị giác, hành động chưa bao quát, còn có động tác thừa. Được hình thành
do luyện tập hay do bắt chước” [9; tr. 549-505].

Theo chúng tôi, khái

niệm này chưa trả lời được câu hỏi “kỹ năng là gì?” mà chỉ xem xét kỹ
năng theo hướng tiếp cận về giai đoạn tiếp thu các thao tác vận động.

Với hướng xem xét kỹ năng là hoạt động, sách Tâm lý học do P. A.


8
Rudich chủ biên (1974), Nxb Mir Maxcova, Nguyễn văn Hiếu dịch (1986),
Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội định nghĩa: “Kỹ năng là động tác mà cơ sở
của nó là sự vận dụng thực tế các kiến thức đã tiếp thu được để đạt kết quả
trong một hình thức hoạt động cụ thể” [31; tr.119]. Tương tự như vậy, Từ
điển Triết học, bản dịch tiếng Việt (1986), Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va khái
niệm: “Kỹ năng - những động tác đã trở thành máy móc do được lặp lại sau
một thời gian dài... Kỹ năng không những là kết quả mà còn là điều kiện
hoạt động sáng tạo của con người” [35; tr.296].
Các khái niệm trên mặc dù có cách diễn đạt khác nhau nhưng đều
mang bản chất chung là: kỹ năng luôn gắn liền với kiến thức, được hình
thành từ quá trình tư duy vận dụng kiến thức để thực hiện một hành
động/động tác trong chuỗi các hành động nhằm đạt một mục tiêu nhất định.
Như vậy, kỹ năng là những động tác được thực hiện trên cơ sở vận dụng
những kiến thức đã tiếp thu, được hình thành qua quá trình rèn luyện và
còn chịu sự kiểm soát của các giác quan. Như vậy, kỹ năng hoạt động âm
nhạc là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, phương pháp...) vào các
hoạt động đàn, hát, nghe nhạc, xướng âm... Nói cách khác, kỹ năng hoạt
động âm nhạc là một chuỗi các thao tác/động tác được hình thành từ ba cấp
độ: nhận biết - thông hiểu - vận dụng/thực hành.
1.1.1.2. Rèn luyện kỹ năng
Từ khái niệm về kỹ năng, chúng ta có thể hiểu rèn luyện kỹ năng là sự
lặp đi lặp lại một thao tác/động tác trong một thời gian dài theo trình tự
phương pháp cụ thể. Đứng trước một nhiệm vụ/vấn đề cần giải quyết bằng
một loại kỹ năng, mỗi người có những mức độ vận dụng khác nhau. Ví dụ,
hai HS học piano đều có kỹ thuật ngón tốt như nhau, nhưng khi cùng vỡ bài
một tác phẩm thì em A hoàn thành sớm, em B hoàn thành muộn hơn. Điều

đó chứng tỏ khả năng vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn của em B
chậm hơn. Như vậy, bất kì một kỹ năng nào cũng cần được trải qua quá


9
trình rèn luyện để có thể giảm thiểu những sai lệch trong thao tác hoạt động
hoặc tư duy.
Rèn luyện kỹ năng hoạt động âm nhạc là quá trình tập luyện chuỗi các
thao tác/hoạt động trong một thời gian dài để có khả năng nhận biết và thực
hành (đàn, hát, nghe nhạc...) một cách vững vàng. Mỗi môn học (âm nhạc)
đều có những kỹ năng đặc trưng riêng. Ví dụ: người học nhạc cụ cần kỹ
năng thị tấu, người học hát cần kỹ năng diễn xuất, người học chỉ huy cần
kỹ năng bao quát dàn nhạc... Nhưng, xét một cách tổng thể thì kỹ năng
thẩm âm, tiết tấu vẫn là yếu tố cơ bản nhất, là nền tảng của các kỹ năng
riêng biệt ấy.
1.1.2. Năng khiếu
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của nhóm tác giả do Nguyễn Như Ý chủ
biên (1998), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, năng khiếu là “những phẩm
chất sẵn có của con người được bộc lộ ra ở một lĩnh vực nào đó” [28;
tr.1172]. Tương tự, Từ điển Tiếng Việt do Lưu Văn Hy chủ biên (2008),
Nxb Thanh niên định nghĩa năng khiếu: “khả năng tự nhiên giúp con người
hoàn thành tốt công việc nào đó” [12; tr. 676]. Những khái niệm này cho
thấy, năng khiếu là bản chất bẩm sinh, vốn có của trẻ ngay từ lúc ra đời,
luôn là kết quả của sự di truyền với các gen mang tính trạng trội hoặc sự
gặp gỡ của các gen mang tính trạng lặn (sinh học). Trong quá trình sống,
sinh hoạt, học tập... năng khiếu trong mỗi con người có thể được bộc lộ,
phát triển đến đỉnh cao hoặc bị kìm hãm, thậm chí bị triệt tiêu. Đề tài
NCKH cấp bộ “Những tiêu chí xác định năng khiếu âm nhạc để tuyển chọn
học sinh cho các cơ sở đào tạo âm nhạc trên phạm vi toàn quốc” của nhóm
tác giả Trần Thu Hà, Nguyễn Phúc Linh, Ngô Văn Thành, Đỗ Xuân Tùng

cho rằng: “Môi trường, điều kiện sống có liên quan tới quá trình hình thành
và phát triển năng khiếu, tài năng của con người... thường được chia làm
hai yếu tố cơ bản: môi trường gia đình và môi trường xã hội” [6; tr.34].


10
Trong đó, các tác giả xem xét môi trường gia đình ở góc độ yếu tố di
truyền và bầu không khí gia đình. Bầu không khí gia đình hay môi trường
xã hội, nhà trường là cơ sở, là điều kiện đủ cho sự phát triển năng khiếu cá
biệt thành tài năng. Một đứa trẻ từ nhỏ đã bộc lộ phẩm chất năng khiếu âm
nhạc tốt (như khả năng nghe, ghi nhớ và tái hiện giai điệu, bắt chước đàn
lại một câu/đoạn nhạc rất nhanh, lặp lại tiết tấu tốt...) nhưng không được
tiếp xúc thường xuyên, không được học âm nhạc một cách khoa học thì sẽ
không thể phát triển năng khiếu ấy. Cũng có những trường hợp từ nhỏ chưa
bộc lộ năng khiếu nhưng lớn lên được sống trong môi trường, điều kiện
thuận lợi, thường được tiếp xúc với lĩnh vực mà phẩm chất người ấy vốn
đang ẩn chứa ở dạng tiềm năng, người đó sẽ phát huy được tố chất sẵn có
để trở thành một người tài giỏi.
1.1.3. Rèn luyện kỹ năng thẩm âm, tiết tấu
1.1.3.1. Rèn luyện kỹ năng thẩm âm
- Thẩm âm:
Hiện nay hầu như rất hiếm có tài liệu hay từ điển Tiếng Việt đưa ra
khái niệm này. Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên (1998),
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, định nghĩa thẩm âm là “Khả năng thẩm thụ
âm thanh” [28; tr.1540]. Mặc dù cách giải nghĩa này chưa được rõ ràng do
vẫn dùng lại từ Hán Nôm (thẩm thụ) nhưng cũng mở ra được một cách hiểu
đơn giản mà khá sát thực. Thẩm âm là năng lực cảm nhận về âm thanh
trong (tác phẩm) âm nhạc, đó là các cao độ, giai điệu, quãng, hợp âm...
Chúng tôi cho rằng, thẩm âm là từ để diễn tả khả năng nghe và nhắc lại cao
độ hoặc nét giai điệu/câu nhạc với một âm bất kì (ví dụ: “la”). Sự nhắc lại

ấy không chỉ đòi hỏi đảm bảo về cao độ mà có khi còn gắn liền với tiết tấu.
Một HS có năng lực thẩm âm, tiết tấu vững sẽ luôn hoàn thành bài học hát,
đàn nhanh hơn. Cùng một bài học hát, HS có năng lực thẩm âm tốt sẽ ghi
nhớ và tái hiện lại giai điệu chỉ sau một đến hai lần nghe. Ngược lại, HS có


11
năng lực thẩm âm, tiết tấu yếu hơn sẽ phải có thời gian nhiều hơn để ghi
nhớ và tái hiện. Có trường hợp HS ghi nhớ được các cao độ của giai điệu,
nhưng khi hát thì chỉ đúng cao độ mà sai nhiều về tiết tấu.
Như vậy, có thể xem xét thẩm âm như một khái niệm riêng biệt với
nội hàm có khi chỉ là sự nhắc lại cao độ và có khi bao gồm cả tiết tấu,
không tách rời tiết tấu. Khả năng thẩm âm có cơ sở bản chất từ năng khiếu
âm nhạc của một cá nhân cụ thể, các yếu tố môi trường có thể làm phát huy
hoặc kìm hãm khả năng này. Cha ông ta vẫn có câu thành ngữ “trăm hay
không bằng tay quen” nhằm nói lên vai trò quan trọng của việc thực hành,
luyện tập thường xuyên đối với bất kì một công việc nào. Trong đời sống
thường ngày, HS ít có điều kiện để tập trung vào rèn luyện thẩm âm bởi
việc học tập ở nhà trường phổ thông ngày nay gần như chiếm đa số thời
gian của các em. Vì thế, việc luyện tập được thực hiện trong thời gian học
tập ở trung tâm là rất cần thiết.
- Rèn luyện kỹ năng thẩm âm:
Rèn luyện kỹ năng thẩm âm trong luận văn này muốn đề cập là quá
trình tập luyện chuỗi các thao tác/hoạt động trong một thời gian để người
học có khả năng nhận biết và thực hành (hát, nhắc lại) được âm thanh một
cách chuẩn xác. Sự luyện tập càng nhiều thì kỹ năng thẩm âm càng tốt,
càng hỗ trợ hiệu quả hơn cho HS khi học hát, đàn, rút ngắn thời gian cho
các em trong quá trình tiếp nhận một đơn vị bài học cụ thể. Điều đó không
chỉ nâng cao chất lượng dạy và học mà còn đảm bảo đúng mục tiêu đào tạo
là xây dựng một nền tảng kiến thức, kỹ năng và thái độ chuẩn mực cho

người học trong lĩnh vực âm nhạc.
1.1.3.2. Rèn luyện kỹ năng tiết tấu
- Tiết tấu:
Tiết tấu là một trong những phương pháp diễn tả của âm nhạc, được
phát triển rất sớm từ khi giai điệu còn chưa định hình. Hiện nay có nhiều tài


12
liệu với những khái niệm khác nhau về tiết tấu. Sách Lý thuyết âm nhạc cơ
bản của V.A. VA. Khra-mê-ev, một trong những tài liệu được sử dụng
nhiều ở nước ta định nghĩa: “Tiết tấu là tương quan độ dài của các âm
thanh nối tiếp nhau”[36; tr.36]. Theo chúng tôi, định nghĩa trên chưa làm rõ
được tính có tổ chức của độ dài âm thanh trong âm nhạc. Bởi, các âm thanh
nối tiếp nhau trong một câu/tác phẩm âm nhạc luôn nằm trong mối quan hệ
chặt chẽ, được tổ chức bởi chủ định của người viết/sáng tác. Một khái niệm
khác của Đào Ngọc Dung trong sách Phân tích tác phẩm âm nhạc, Nxb
Giáo dục, Hà Nội (2001), cho rằng: “Tiết tấu là sự nối tiếp các âm và các
kết cấu âm nhạc bằng thời gian ngân vang của âm thanh (độ dài của âm và
độ dài của kết cấu) có tổ chức và có quy luật” [1; tr.20]. Giáo trình Hình
thức và thể loại âm nhạc dùng cho hệ đào tạo CĐSP của Nguyễn Thị
Nhung đưa ra khái niệm về tiết tấu ở hai nghĩa khác nhau: “Theo nghĩa
hẹp, tiết tấu chỉ sự liên tục có tổ chức độ dài ngắn của âm thanh. Theo
nghĩa rộng, tiết tấu là mối tương quan về thời gian giữa các phần, các
chương nhạc trong một tác phẩm” [19; tr.25]. Hai cách hiểu về tiết tấu này
đều cùng đề cập đến tính tổ chức về mặt thời gian của âm thanh, dù đó là
giữa một số âm hay các kết cấu âm nhạc trọn vẹn.
Qua các khái niệm nêu trên, chúng tôi cho rằng: tiết tấu là sự tổ chức
trường độ của các âm thanh trong một tác phẩm âm nhạc. Tiết tấu không
chỉ là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển và tạo tính thống nhất trong tác
phẩm âm nhạc mà còn có khả năng biểu đạt riêng các trạng thái cảm xúc.

Trong thẩm âm luôn có mặt của tiết tấu. Tuy nhiên, những bài tập tiết tấu
có thể tách rời khởi bài tập thẩm âm.
- Rèn luyện kỹ năng tiết tấu:
Từ những phân tích về các khái niệm và vai trò của tiết tấu, có thể nói,
rèn luyện kỹ năng tiết tấu là quá trình tập luyện chuỗi các thao tác/hoạt
động trong một thời gian để người học có khả năng nhận biết và thực hành


13
(nhắc lại) được các nét nhạc/câu nhạc một cách chuẩn xác về trường độ trong
mối quan hệ giữa các nốt với nhau. Rèn luyện kỹ năng tiết tấu chính là hình
thành và phát triển tri giác về sự chuyển động của các âm thanh trong âm
nhạc, là cơ sở cho người học có nhận thức khái quát nhất về bài học (đàn, hát)
để bước vào hoạt động học tập, biểu diễn đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Vai trò của âm nhạc với sự phát triển toàn diện cho học sinh
1.2.1. Âm nhạc với giáo dục thẩm mỹ
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội do
Nguyễn Như Ý chủ biên (1998), Thẩm mỹ được hiểu là “khả năng cảm thụ
và nhận biết về cái đẹp” [28; tr.1050]. Giáo dục thẩm mỹ là một trong
những bộ phận hợp thành nền tảng của trình độ văn hóa nói chung. Nhiều
nhà giáo dục đã xem giáo dục âm nhạc là giáo dục thẩm mỹ cho con người.
Giáo dục thẩm mỹ cho lứa tuổi tiểu học là giúp học sinh tiếp xúc, gợi lòng
say mê và hứng thú, biết thưởng thức và tiếp thu cái đẹp trong đời sống
hàng ngày.
Khi thể hiện một bài hát hoặc nghe một bản nhạc đồng thời học sinh
có thể cảm nhận được tính chất của bài hát hay tình cảm của bản nhạc đó.
Âm nhạc có thể tác động đến những trạng thái cảm xúc của con người qua
những giai điệu có trong tác phẩm. Hoạt động học tập âm nhạc giúp học
sinh phát triển, cảm thụ và lĩnh hội được những cái đẹp trong nghệ thuật,
trong tự nhiên, trong các mối quan hệ xã hội. Một quá trình dạy học âm

nhạc chỉ được xem là tốt khi người GV mang lại được cho HS những xúc
cảm thẩm mỹ đúng đắn, trong sáng. Biểu hiện của những xúc cảm thẩm mỹ
là khả năng đánh giá, nhận xét về ý nghĩa của lời ca, của giai điệu, biết
chọn lọc những tác phẩm phù hợp để nghe hoặc hát cho người khác nghe...
Bài hát là phương tiện giáo dục thẩm mỹ thiết thực nhất cho HS. Các bài
hát dành cho lứa tuổi tiểu học có giai điệu đơn giản, khúc chiết, hình tượng
âm nhạc rõ ràng, lời ca phản ảnh nhiều nội dung phong phú và lành mạnh.


14
Thông qua học hát, HS nhận thức được những hình ảnh mang tính biểu
trưng về cái Đẹp. Chẳng hạn, hình ảnh dòng suối và đàn cá tung tăng,
khung cảnh yên bình của núi rừng trong bài hát Bạn ơi lắng nghe (dân ca
Ba Na); hình ảnh con cò cánh trắng và cánh đồng lúa thân thương với
người nông dân qua bài hát Con cò cánh trắng (Xuân Giao), biểu tượng
đẹp của màu hoa phượng đỏ trong ca khúc Mùa hoa phượng nở (Hoàng
Vân), hay khung cảnh con đường đến trường của các em học sinh vùng cao
với “hương rừng thơm đồi vắng, nước suối trong thầm thì, cọ xòe ô che
nắng...” trong ca khúc Đi học (nhạc: Bùi Đình Thảo, lời thơ: Minh Chính)
giúp cho trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương đất nước. Với giai điệu
nhẹ nhàng, tươi vui nhí nhảnh, hồn nhiên, các bài hát của lứa tuổi thiếu nhi,
thiếu niên chắc chắn mang lại cho HS những xúc cảm mới tích cực hơn.
Tình cảm thẩm mỹ còn bao gồm cả sự nhận thức cái đẹp ở cách ứng
xử, giao tiếp của HS đối với mọi người và thiên nhiên. Ví dụ: Hình ảnh con
chim nhỏ đáng yêu “gặp bác chào mào, chào bác. Chim gặp cô sơn ca, chào
cô...” trong ca khúc Con chim vành khuyên (Hoàng Vân) giúp cho trẻ hiểu
thêm giá trị của lời chào, dạy trẻ biết kính trọng, lễ phép với người lớn...
Như vậy, thông qua hoạt động học tập âm nhạc, những tác phẩm âm nhạc
có hình tượng đẹp sẽ đánh thức tâm hồn trẻ, giúp trẻ dần dần hướng đến
những giá trị nghệ thuật trong sáng, lành mạnh. Có thể hiểu rộng hơn về

cách ứng xử ở trẻ bao gồm cả sự sáng tạo trong cách biểu diễn. Nói cách
khác, đó là biểu hiện về cách ứng xử của HS với tác phẩm, với người nghe,
người xem. Mỗi HS chắc chắn có một năng lực, mức độ nhận thức tác
phẩm khác nhau. Trong thực tế, có những người đàn rất điêu luyện nhưng
người nghe không cảm nhận được cái hay, cái đẹp của nội dung, hình
tượng âm nhạc. Bởi lẽ, hình tượng âm nhạc không đơn thuần được xây
dựng bởi các cao độ, tiết tấu mà còn gắn liền với các sắc thái khác như to,
nhỏ, mạnh, nhẹ... Trong biểu diễn thanh nhạc/hát cũng vậy, có em HS hát


15
rất chuẩn xác về cao độ, tiết tấu, kết hợp tốt với nhạc đệm, âm thanh giọng
hát tròn, đẹp nhưng mang lại xúc cảm không cao đối với người nghe. Sự
phô diễn kỹ thuật khác với tái hiện tác phẩm. Kỹ thuật là điều kiện tiên
quyết để biểu đạt tác phẩm, nhưng xúc cảm thẩm mỹ của người biểu diễn
đối với tác phẩm là yếu tố quan trọng để chuyển tải những thông điệp sâu
sắc hơn của tác phẩm đến với người nghe. Chỉ có những HS có nhận thức
đúng đắn và toàn diện về tác phẩm (các quy luật, nguyên tắc tổ chức âm
thanh, nội dung, hình tượng tác phẩm...) mới có thể sáng tạo được phương
thức diễn xuất phù hợp, nâng cao hiệu quả biểu đạt của tác phẩm.
1.2.2. Âm nhạc góp phần giáo dục đạo đức
Âm nhạc dễ dàng đi vào lòng người hơn tất cả mọi ngôn ngữ. Chính
vì thế, giáo dục âm nhạc có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển đạo đức con người. Âm nhạc có khả năng thể hiện một cách tinh tế thế
giới nội tâm của con người, những rung cảm hết sức tế nhị của niềm vui,
đau khổ, day dứt. suy tư, ước vọng, nghi ngờ, tin tưởng, niềm tự hào, chiến
thắng…đối với các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ trong đời sống
một cách đầy đủ và đa dạng. Trong khi trực tiếp tác động vào lĩnh vực tình
cảm của con người, âm nhạc còn có khả năng thống nhất con người trong
cùng một trạng thái cảm xúc và trở thành phương tiện giao tiếp hết sức

nhạy cảm giữa con người mà không cần đến ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ biểu
cảm đặc biệt của âm nhạc, những con người từ lục địa xa xôi, không cùng
ngôn ngữ, phong tục, tập quán, chế độ xã hội… ở một chừng mực nào đó,
có những hiểu biết nhất định về nhau.
Những bài hát thiếu nhi dành cho học sinh lứa tuổi tiểu học luôn chứa
đựng nội dung giáo dục đạo đức rất cụ thể. Nhiệm vụ của GV trong quá
trình dạy học là chuyển tải nội dung giáo dục ấy đến với HS thông qua các
hoạt động học tập sinh động. Khái niệm giáo dục đạo đức đối với trẻ được
hiểu là những thuộc tính tâm lý tốt, biểu hiện bằng hành động trong khi


16
tương tác với con người và các sự vật hiện tượng xung quanh. Những bài
hát về thế giới thiên nhiên, động vật với những hình ảnh đáng yêu hay lời
ca về tình cảm gia đình, bạn bè, thầy cô giáo... gợi mở cho HS tình cảm yêu
quý, trân trọng, sự lễ phép. Trong mỗi bài hát thiếu nhi, thiếu niên, đều có
thể tìm được nội dung giáo dục đạo đức cho HS. Ví dụ: bài hát Em vẫn nhớ
trường xưa (Thanh Sơn) không chỉ gợi cho HS tình cảm đối với thầy cô mà
còn bồi đắp nhận thức về trách nhiệm của bản thân trong học tập, từ đó các
em có ý thức “em siêng năng gắng học hành ngày ngày, để mai sau đây sẽ
nên người thành tài...”; Bài hát “Hạt gạo làng ta” (Nhạc: Trần Viết Bính,
thơ: Trần Đăng Khoa) mang đến với HS hình ảnh quê hương thân thương
với sự lao động khó nhọc vất vả của những người cha, người mẹ để làm
nên hạt gạo. Qua đó, các em biết yêu quý những người lao động và thương
yêu cha mẹ hơn.
Các hoạt động diễn xuất khi biểu diễn hay vận động theo nhạc trong
bài hát giúp cho HS có sự tự tin hơn, hồn nhiên hơn. Hoạt động âm nhạc
làm cho các em nhút nhát trở nên mạnh dạn, tăng cường năng lực hòa nhập
cộng đồng cho HS. Mỗi tác phẩm âm nhạc đều mang đến một tâm trạng
khác nhau đối với HS, từ đó không ngừng tạo nên sự phong phú về xúc

cảm, ảnh hưởng tốt đến hành vi văn hóa của các em. Điều này hình thành ở
các em đức tính nhẫn nại, nhu cầu chuẩn xác trong hành động, thao tác,
thói quen chính xác về thời gian... Bên cạnh đó, tính kỉ luật của HS là một
thuộc tính tâm lí thuộc về phạm trù đạo đức, cũng được hình thành thông
qua hoạt động học tập âm nhạc. Mỗi câu nhạc, đoạn nhạc... đều là sự tổ
chức chặt chẽ của các yếu tố ngôn ngữ (cao độ, trường độ...). Người học
bắt buộc phải đảm bảo tuân thủ đúng nguyên tắc tổ chức ấy khi hát hoặc
đàn. Một nhạc công không thể đàn tự do để mặc người hát “chạy theo”.
Ngược lại, người hát không thể hát tự do, bỏ qua tất cả các nguyên tắc về
tiết tấu, cao độ, hòa âm... Ngay cả trong hoạt động hát hay vận động tập thể


17
thì tính kỉ luật cũng được hình thành bởi các yêu cầu về sự đồng đều, hòa
giọng, chính xác phách nhịp. Tất cả những tác động trực tiếp hay gián tiếp
mà hoạt động học tập âm nhạc mang lại cho trẻ đều góp phần hình thành
những phẩm chất đạo đức tốt.
1.2.3. Âm nhạc góp phần phát triển trí tuệ
Âm nhạc còn giúp trẻ phát triển trí nhớ. Khác với các loại hình nghệ
thuật khác, hình tượng âm nhạc không mang ý nghĩa cụ thể, rõ rệt như từ
ngữ trong nghệ thuật văn chương và cũng không tái hiện thế giới khách
quan bằng những bức tranh có đường nét bố cục chặt chẽ, có mảng màu
phong phú trong hội họa. Đặc trưng diễn tả của âm nhạc mang tính ước lệ,
khái quát khá cao. Vì thế, quá trình nghe nhạc, học hát hoặc học đàn sẽ rèn
luyện cho trẻ thói quen tập trung chú ý cao, dần tiến đến hình thành năng
lực tập trung chú ý. Trí nhớ của trẻ chịu ảnh hưởng lớn bởi khả năng tập
trung chú ý. Âm nhạc lại là loại hình nghệ thuật đòi hỏi khả năng tập trung
chú ý cao. Vì thế, sự tích cực tập trung chú ý trong mỗi giờ học đàn/hát sẽ
đóng vai trò quan trọng đối với việc củng cố và phát triển trí nhớ. Thông
qua các hoạt động âm nhạc, học sinh còn hình thành năng lực so sánh, phân

tích, đánh giá tác phẩm. Sự chuyển động của giai điệu, tiết tấu, hòa âm...
trong một tác phẩm tạo cho các em định hình dần về tính chất, đặc điểm,
hình tượng, cấu trúc trong âm nhạc, là cơ sở để học sinh hình thành thế giới
quan khoa học.
Các ca khúc thiếu nhi còn cung cấp cho trẻ nhiều kiến thức về tự
nhiên và xã hội. Mỗi giờ học hát, mối bài hát thiếu nhi hầu như gắn liền với
một/một vài kiến thức nhất định. Chúng ta có thể tìm thấy trong bất kì một
ca khúc thiếu nhi nào cũng đều mang lại một hoặc một vài đơn vị kiến thức
nhất định về văn hóa, xã hội hoặc tự nhiên. Chẳng hạn, ca khúc “Chú voi
con ở bản Đôn” cung cấp cho học sinh các nội dung kiến thức cụ thể: địa
danh “Bản Đôn” ở tỉnh Đăk Lăk, thuộc Tây nguyên, một vùng đất trù phú


18
của đất nước; Hình ảnh chú voi con tác giả tái hiện lại rất sát thực và sinh
động: “chưa có ngà nên còn trẻ con”; sau khi lớn lên, công việc mà chú voi
sẽ làm để giúp đỡ con người là “kéo gỗ cho buôn làng của ta”. Có thể nói,
ca khúc có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với trẻ về cả mặt đạo đức và kiến
thức khoa học tự nhiên, kiến thức về cuộc sống sinh hoạt thường ngày của
người dân Tây nguyên. Tương tự, bài hát Chị ong nâu và em bé của nhạc sĩ
Tân Huyền không chỉ mang nét hồn nhiên vô tư của tuổi thơ mà còn tích
hợp trong đó kiến thức khoa học về quá trình làm mật của loài ong và vai
trò của nhụy hoa. Rất nhiều kiến thức tự nhiên, xã hội mà các ca khúc thiếu
nhi chuyển tải. Mỗi bài hát có thể được xem là một “dữ liệu” khoa học đối
với trẻ, là nơi để trẻ khám phá thế giới xung quanh bằng phương thức riêng
của các hoạt động âm nhạc.
1.2.4. Âm nhạc góp phần phát triển thể chất
Mọi hoạt động diễn ra trong quá trình học âm nhạc đều có tác dụng
góp phần làm cho học sinh phát triển nhanh về thể chất. Khi nghe nhạc,
mối liên hệ giữa khả năng nghe và cách cảm nhận âm nhạc sẽ được phát

triển trong một chừng mực nhất định, giúp cho học sinh nhạy bén và nhanh
nhẹn hơn. Việc giáo dục âm nhạc với những tác dụng của nó sẽ giúp học
sinh có những tình cảm và hành vi tốt đẹp, đẩy mạnh hoạt động trí tuệ
thường xuyên và hoàn thiện mọi vận động thể chất. Các hoạt động thở sâu,
lấy hơi đều tuân theo sự hướng dẫn một cách khoa học của GV, hát giúp
phát triển cơ quan phát thanh, hô hấp của học sinh. Hoạt động nhún nhảy,
múa theo bài hát cũng có tác dụng rất tốt đến quá trình phát triển hoàn thiện
cơ thể học sinh. Các hoạt động học tập âm nhạc ở lứa tuổi học sinh tiểu học
hầu hết gắn liền với các hình thức vận động theo nhạc (múa, nhún nhảy, gõ
đệm...). Dù ở cách thức vận động nào, người giáo viên cũng luôn chú ý đến
yếu tố tiết tấu, nhịp điệu của tác phẩm. Quá trình vận động theo nhạc của
học sinh không thể thực hiện một cách tự do mà phải được tuân thủ theo


19
những quy luật nhịp điệu nhất định, kết hợp chặt chẽ với sự vận hành hơi
thở và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi. Ở giai đoạn từ 6 tuổi đến
11 tuổi, các em học sinh đang thời kì phát triển và ổn định dần về các đặc
điểm thể chất. Hệ cơ xương đang mềm dẻo, rất phù hợp với các hoạt động
nghệ thuật như múa, học đàn, khiêu vũ... Sự vận động có tính khoa học gắn
liền với nhịp điệu âm nhạc diễn ra hàng ngày tạo điều kiện tốt cho cơ
xương phát triển và giữ được độ mềm dẻo, linh hoạt. Hệ hô hấp còn yếu,
dung lượng khí trong phổi còn nhỏ, thanh đới vẫn còn non, mảnh, các
xoang chưa phát triển. Vì vậy, quá trình học tập và hoạt động âm nhạc giúp
trẻ có khả năng tự điều tiết hơi thở phù hợp với hoạt động thể lực, tạo nên
sự đồng bộ giữa hô hấp và vận động, giúp cho quá trình tuần hoàn máu
diễn ra tốt hơn, có tác dụng tích cực để nuôi dưỡng sự phát triển của não.
Những yếu tố trên cho thấy: hoạt động âm nhạc tác động trực tiếp đến các
cơ quan trên cơ thể trẻ, từ bộ máy phát thanh, hô hấp, hệ thần kinh cho đến
cơ xương. Qua đó có thể khẳng định rằng, âm nhạc góp phần tích cực vào

quá trình phát triển thể chất của học sinh.
1.3. Vai trò của việc phát triển năng khiếu trong dạy học âm nhạc
1.3.1. Vai trò của năng khiếu đối với việc học âm nhạc
Trong bất kì một lĩnh vực nào, năng khiếu - tố chất vốn có - của chủ
thể hoạt động là điều kiện cần và đóng vai trò quan trong việc thành công
hay thất bại, đạt hiệu quả cao hay thấp, xử lý tình huống nhanh hay chậm...
Một học sinh có năng khiếu âm tốt, sự nhận thức về cao độ, tiết tấu, tính
chất, cấu trúc... một tác phẩm sẽ nhanh nhạy hơn những trẻ khác có năng
khiếu thấp hoặc không có năng khiếu. Năng khiếu âm nhạc được thể hiện
qua các tiêu chí cụ thể như: Thính giác âm nhạc; tiết tấu, nhịp điệu; trí nhớ
âm nhạc, khả năng làm chủ cao độ bằng giọng hát và cảm xúc âm nhạc.
Trong đề tài nghiên cứu cấp bộ Những tiêu chí xác định năng khiếu âm
nhạc, các tác giả Trần Thu Hà, Nguyễn Phúc Linh, Ngô Văn Thành, Đỗ


×