Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Đề cương Luật tố tụng dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.43 KB, 113 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Phân tích khái niệm luật tố tụng dân sự?
Khái niệm Luật tố tụng dân sự
a, Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, khi giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân
sự theo thủ tục mà Luật tố tụng dân sự quy định thì sẽ xuất hiện những quan hệ
giữa tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án với nhau, với các đương sự, với
những người tham gia tố tụng khác. Các quan hệ này được các chủ thể thực hiện
trong khuôn khổ mà Luật tố tụng dân sự xác định nhằm giải quyết các vụ việc dân
sự. Hành vi của mỗi một chủ thể tham gia vào các quan hệ đó đã được những quy
phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh, buộc các chủ thể này thực hiện các
quyền và nghĩa vụ nhất định. Các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ
án dân sự và thi hành án dân sự chính là đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân
sự.
Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự là các quan hệ xã hội phát sinh giữa
tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, đương sự và những
người tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự và thi
hành án dân sự.
b, Phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự
Với các quy phạm pháp luật, Luật tố tụng dân sự đã tác động tới đối tượng điều
chỉnh bằng các phương pháp điều chỉnh sau đây:
Phương pháp quyền uy mệnh lệnh. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong tố tụng bằng phương pháp quyền uy mệnh lệnh thể hiện ở chỗ quy định
địa vị pháp lý của Tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và các chủ thể khác
trong tố tụng không giống nhau; các chủ thể khác đều phải phục tùng Tòa án, viện
kiểm sát và cơ quan thi hành án. Các quyết định của Tòa án, viện kiểm sát và cơ
quan thi hành án có giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải thực hiện, nếu không sẽ
bị cưỡng chế thực hiện. Quy định này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình,
các cơ quan trên phải có những quyền lực pháp lý nhất định đối với các chủ thể
khác. Do đó, ở các quan hệ do Luật tố tụng dân sự điều chỉnh không có sự bình


đẳng giữa Tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án với các chủ thể khác.
Phương pháp “mềm dẻo – linh hoạt” (bình đẳng thỏa thuận )dựa trên nguyên tắc
đảm bảo quyền bình đẳng và tự định đoạt của các đương sự. Phương pháp điều
1


chỉnh này xuất phát từ các quan hệ pháp luật nội dung mà Tòa án có nhiệm vu giải
quyết trong các vụ việc dân sự là các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao
động, hôn nhân và gia đình. Các chủ thể của các quan hệ này có quyền tự quyết
định quyền lợi của mình khi tham gia vào các quan hệ đó. Trong vụ việc dân sự,
các chủ thể đó là đương sự. Do vậy, để bảo đảm quyền tự quyết định quyền lợi của
các đương sự trong tố tụng, Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ giữa Tòa
án với các đương sự phát sinh trong quá trình tố tụng bằng phương pháp điều chỉnh
này. Theo đó, các đương sự được tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ trước Tòa án. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại hay tranh chấp các
đương sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết giải quyết vụ
việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự, các đương sự
vẫn có thể thương lượng, dàn xếp, thỏa thuận giải quyết những vấn đê tranh chấp,
rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa.
Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng bằng
hai phương pháp quyền uy mệnh lệnh và “mềm dẻo, linh hoạt”, trong đó phương
pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp quyền uy mệnh lệnh.
c. Định nghĩa Luật tố tụng dân sự.
Luật tố tụng dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố
tụng dân sự.
2. Phân tích mối quan hệ giữa luật tố tụng dân sự với luật dân sự, luật hôn
nhân và gia đình, luật lao động, luật thương mại?
Để phân biệt các ngành luật với nhau ta dựa vào đối tượng và phương pháp
điều chỉnh

Luật dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng hợp các
quy phạm pháp luật điêu chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa ị tiền
tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi tham
gia vào các quan hệ đó.
Việc phân biệt một ngành luật này với ngành luật khác cũng dựa vào đối tượng và
phương pháp điều chỉnh cùng những đặc điểm của nó.
+ Chúng ta dễ dàng phân biệt luật dân sự với luật hành chính. Luật hành chính điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực điều hành và quản lý Nhà nước. Các chủ
thể tham gia không bình đẳng về địa vị pháp lí và không thể thoả thuận trong việc
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hành chính, mà được xác lập dựa trên các quy
định của pháp luật.
2


+ Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội bằng cách quy định những
hành vi nào được coi là "hành vi nguy hiểm chó xã hội", đồng thời quy định hình
phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Mặc dù việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế do luật hình sự quy định là sự cưỡng chế của Nhà nước*
nhưng những biện pháp này trước tiên là trách nhiệm của cá nhân với xã hội, với
Nhà nước nói chung. Chức năng chủ yếu của "hình phạt" là trừng phạt và giáo dục;
còn trong dân sự, trách nhiệm tài sản trước tiên là trách nhiệm-cua chủ thể này đối
với chủ thể khác và mục đích chủ yếu của nó là phục hồi tình trạng tài san của bên
bị thiệt hại.
+ Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư bao gồm các quy định
liên quan đến quyền lợi cua chủ thể và về nguyên tắc có thể thay đổi bằng sự thoả
thuận của các bên. Do sự phát triển của xã hội cũng như khoa học pháp lý, trên cơ
sở của luật dân sự đã phát triển thêm những lĩnh vực pháp luật khác như: Luật
thương mại phát triển từ luật dân sự. Trong các giao lưu dân sự, có những quan hệ
được coi là quan hệ thương mại. Đây là những quan hệ đặc thù được điều chỉnh
bởi luật thương mại. Khi điều chỉnh các quan hệ thương mại nếu không có quý

phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì áp dụng các quy định của BLDS năm 2005
để điều chỉnh các quan hệ đó.
+ Luật Lao động được tách ra từ luật dân sự khi sức lao đông trở thành hàng hoá
trong xã hội tư bản. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là bản thân quá trình
lao động mà không phải là kết quả của quá trình đó giữạ người lao động và người
sử dụng lao động. Khi điềụ chỉnh các quan lao động nhưng không có quy phạm
pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì sệ áp dụng các quy định của BLDS năm 2005 để
điều chỉnh các quan hệ lao động đó.
+ Luật hôn nhân & gia đình được tách ra từ luật dân sự 1 điều chỉnh các quan hộ
nhân thân và tài sản giữa vợ - chồng và các thành viên trong gia đình, trong đó
quan hệ nhân thân giữa vợ - chồng là trung tâm, quyết định các quan hộ khác. Các
quan hệ tài sản mà luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh giữa các chủ thể không
độc lập về tài sản và không thể áp dụng nguyên tắc đền bù tương đương. Tài sản
của vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
cùa vợchồng. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản riêng cùa Vợ, chồng và
các thành viên khác trong gia đình. Trong trường hợp không có quy định trong luật
hôn nhân và gia đình, các quan hộ đó sẽ sử dụng các quy định trong BLDS năm
2005 để điều chỉnh.

3


Luật tố tụng dân sự được coi là luật "hình thức" cũa Luật Dân sự và Luật
hôn nhân và gia đình, Luật kinh tế, Luật lao động; quy định trình tự, thủ tục
giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động.
Luật tố tụng điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng
3. Phân tích đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự?
4. Phân tích phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự? So sánh
phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự với phương pháp điều chỉnh của
luật dân sự, luật tố tụng hình sự?

5. Phân tích các đặc điểm của quan hệ pháp luật TTDS?
Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là gì?
Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là quan hệ giữa tòa án, viện kiểm sát, cơ
quan thi hành án, đương sự , người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch, người định giá tài sản, và những người liên quan phát sinh trong tố tụng dân
sự và được pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh.
Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự không có sự bình
đẳng giữa các chủ thể, trong đó có Tòa án, Cơ quan thi hành án là các chủ thể có
vai trò quyết định đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Vụ việc dân sự là vụ việc
phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động do Tòa án giải quyết .Vụ việc dân sự được chia làm 2
loại: vụ án dân sự và việc dân sự.

Vụ án dân sự là việc có sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các đương
sự mà họ không thể thương lượng được nên nhờ Tòa án giải quyết

Việc dân sự là loại vụ việc dân sự mà phát sinh, chấm dứt, thay đổi các quan
hệ pháp luật phải do tòa án xem xét quyết định như: Tòa án xem xét yêu cầu
tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết; bị hạn chế hay bị mất năng lực
hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là mất tích hay đã
chết; yêu cầu hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật,…
Đặc điểm của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự?
Là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự mang
đầy đủ các đặc điểm của quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa, là quan hệ có ý
chí ,xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật, nội dung được cấu thành bởi
quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được bảo đảm bằng sự cưỡng chế
của nhà nước.

4



– Tòa án thường là một bên của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự . Tòa án là chủ
thể đặc biệt, duy nhất được thực hiện quyền lực nhà nước nhằm giải quyết vụ việc
dân sự, có quyền ra quyết định buộc các cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan phải
thi hành. Để thực hiện chức năng, tòa án tham gia vào hầu hết các quan hệ nảy sinh
trong tố tụng nên trở thành chủ thể chủ yếu của quan hệ tố tụng dân sự

– Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh trong tố tụng và do luật tố tụng
dân sự điều chỉnh. Việc giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh các quan hệ khác
nhau giữa những cơ quan tổ chức và những người tham gia vào đó.Các quan hệ
này được quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh nên trở thành quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự.

– Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh và tồn tại trong một thể thống
nhất. Tuy trong tố tụng , địa vị pháp lí của các chủ thể đều liên quan đến việc thực
hiện mục đích của tố tụng dân sự là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
. Vì vậy mỗi hành vi tố tụng của một chủ thể đều liên quan đến nhau , dẫn đến
những hậu quả pháp lí đối với nhiều chủ thể khác và góp phần tạo nên sự vẫn động
và phát triển của quá trình tố tụng.Ví dụ : Nguyên đơn khởi kiện thì tòa án phải
xem xét việc thụ lí vụ án. Khi giải quyết vụ án,tòa án có quyền triệu tập những
người tham gia tố tụng đến tham gia tố tụng…..Chính điều này đã làm cho các
quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng dân sự gắn kết lại với nhau,tồn tại cùng
nhau
Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Là một yếu tố cấu thành cơ bản của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tính đa dạng
của các quan hệ được các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh dẫn đến
tính đa dạng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.Tuy vậy
không phải bất kỳ cá nhân , tổ chức nào cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự.Việc xác định đúng các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng có ý

nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự

Cũng như các quan hệ pháp luật khác quan hệ pháp luật tố tụng dân sự gồm 3
thành phần: Chủ thể, khách thể và nội dung.

5


Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các cá nhân, tổ chức tham gia
vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 1 BLTTDS thì chủ thể của
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm : tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành
án, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài
sản và người liên quan.
Tùy theo mục đích,vai trò tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể này mà pháp
luật quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định

Căn cứ vào mục đích tham gia tố tụng và địa vị pháp lí của các chủ thể quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự có thể phân thành 3 nhóm:


Nhóm 1: Các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự, tổ
chức thi hành án dân sự, kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố
tụng như tòa án, viện kiểm sát



Nhóm 2: Các chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hay của người khác như đương sự, người đại diện của đương sự




Nhóm 3: Các chủ thể tham gia tố tụng để hỗ trợ tòa án trong việc giải quyết
vụ việc dân sự như người làm chứng, người giám định và người liên quan

Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là việc giải quyết quan hệ pháp
luật nội dung tranh chấp giữa các đương sự hay việc giải quyết quan hệ pháp luật
nội dung có chứa đựng những sự kiện pháp lý mà tòa án có nhiệm vụ xác định.
Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có đầy đủ những đặc điểm của
khách thể quan hệ pháp luật :
– Là cái mà các chủ thể mong muốn đạt được
– Là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ
Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự còn có đặc điểm riêng là lợi ích
vật chất không hoàn toàn chi phối việc tham gia quan hệ của tất cả các chủ thể.
Trong nhiều trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự xuất
phát từ nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự gồm quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
6


– Quyền tố tụng dân sự là cách xử sự mà pháp luật tố tụng dân sự quy định cho các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện.Tùy theo mục
đích,tính chất tham gia tố tụng của các chủ thể mà pháp luật tố tụng dân sự quy
định cho mỗi chủ thể các quyền tố tụng dân sự nhất định.Trong đó các quyền của
tòa án,viện kiểm sát, cơ quan thi hành án có tính chất đặc biệt,mang tính quyền lực
nhà nước,ngoài các cơ quan ngày không thể chủ thể nào có.

– Nghĩa vụ tố tụng dân sự là cách xử sự bắt buộc mà pháp luật tố tụng dân sự quy
định cho các chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tùy theo yêu cầu của việc
giải quyết và tính chất tham gia tố tụng của các chủ thể mà pháp luật tố tụng dân sự
quy định cho mỗi chủ thể các nghĩa vụ tố tụng dân sự nhất định. Trong đó,việc quy
định cụ thể nghĩa vụ tố tụng dân sự của các đương sự là vấn đề rất cần thiết,tạo
được điều kiện thuận lợi cho tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự.

=> Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của các chủ thể trong quá
trình tố tụng dân sự có ý nghĩa tạo nên sự vận động và phát triển của tố tụng dân
sự. Để đảm bảo được điều này luật tố tụng dân sự đã quy định việc áp dụng chế
tài pháp lý đối với các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các
quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ

6. Trình bày các giai đoạn của tố tụng dân sự Việt Nam?
Khởi kiện ->
Thụ Lý - Chuẩn bị xét xử ->Xét xử
7. Phân tích các đặc trưng cơ bản của mô hình tố tụng thẩm vấn trong
TTDS?
8. Phân tích các đặc trưng cơ bản của mô hình tố tụng tranh tụng trong
TTDS?
9.
Trên thế giới hiện nay có hai dạng mô hình tố tụng hình
sự (TTHS) cơ bản là: mô hình TTHS thẩm vấn và mô
hình TTHS tranh tụng.
Mô hình TTHS thẩm vấn có nguồn gốc từ La Mã cổ đại, được hình thành từ thế
kỷ thứ 6 trước Công nguyên bởi Hoàng đế Justinian; sau này được các luật gia
Pháp và Đức hoàn thiện và phát triển[1]. Mô hình TTHS thẩm vấn coi trọng kiểm
soát và trấn áp tội phạm, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tìm ra chân lý vụ án. Tiến
trình giải quyết vụ án hình sự xem nặng phương pháp thẩm vấn. Tại phiên tòa,
thẩm phán đặt ra những câu hỏi để kiểm tra, đánh giá chứng cứ, bị cáo và người

tham gia tố tụng có nghĩa vụ phải trả lời. Sự thật của vụ án có thể tìm thấy trong
quá trình thẩm vấn. Toà án nắm giữ nhiều trách nhiệm trong việc định hướng
điều tra, có thiên hướng tìm kiếm chứng cứ buộc tội nhiều hơn là gỡ tội. Chứng
7


cứ được thu thập trước khi mở phiên toà đòi hỏi phải trọn vẹn, nếu không thẩm
phán sẽ hoãn phiên toà trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Mô hình tố tụng thẩm
vấn có ưu điểm là nhà nước kiểm soát, tránh bỏ lọt tội phạm một cách có hiệu
quả nhất.
Chính vì công việc chứng minh tội phạm được nhà nước ủy nhiệm phần lớn cho
các cơ quan tư pháp (đặc biệt là Tòa án), với hy vọng họ sẽ nhanh chóng khám
phá vụ án, bảo vệ công lý mà không chú trọng đến việc tạo lập cho bị cáo các
quyền để họ tự bảo vệ mình, nên dẫn đến một hệ quả tất yếu là các chức năng tố
tụng (buộc tội, bào chữa, xét xử) không được phân định rạch ròi, địa vị pháp lý
của các chủ thể tham gia tố tụng không bình đẳng thực sự, quyền con người,
quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự dễ bị xâm hại. Dường như những
đặc điểm hạn chế đó của mô hình tố tụng thẩm vấn là không thể tránh khỏi, vì nó
tồn tại mang tính quy luật khách quan.
Mô hình TTHS tranh tụng được áp dụng ở Hy Lạp cổ đại, sau đó được đưa vào
La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” (Procédure des questions
perpétuelle)[2]. Ở nước Anh, lần đầu tiên thủ tục này xuất hiện vào khoảng thế kỷ
10 - 13, trên cơ sở hai bên đương sự tố cáo ra trước phiên tòa và được pháp luật
ghi nhận bình đẳng cho hai bên bằng việc tòa án đóng vai trò là trọng tài quan sát
và phân xử[3]. Sau đó, mô hình tố tụng này được phát triển ở các nước như Mỹ,
Canada, Úc… và tồn tại cho đến ngày nay.
Nếu như ở mô hình tố tụng thẩm vấn, trách nhiệm chứng minh tội phạm do nhà
nước đảm trách để kiểm soát tình hình tội phạm, thì trong mô hình tranh
tụng, trách nhiệm đó được chia sẻ cho các bên buộc tội và bên bào chữa. Mọi
thông tin thu được trong quá trình điều tra đều chưa được xem xét cho đến khi

được trình bày trước toà. Mỗi bên sẽ trình toà “sự thật của mình” và thẩm phán
cùng với bồi thẩm đoàn sẽ quyết định xem “sự thật” nào có tính thuyết phục
hơn”[4].
Chính vì vậy mà thẩm phán giữ vai trò trung lập, là người trọng tài trong việc
tranh tụng. Tại phiên toà, thẩm phán làm nhiệm vụ điều khiển phiên toà, không
tham gia thẩm vấn, điều tra hoặc chỉ tham gia một cách mờ nhạt. Mô hình tranh
tụng cho rằng, chân lý vụ án sẽ được mở ra qua sự tranh luận cởi mở, bình đẳng
của các chủ thể tại phiên toà. Đó là những cuộc “tranh đấu” trong việc lập luận và
đưa ra chứng cứ từ phía buộc tội và phía bào chữa, do đó các phiên toà diễn ra
dân chủ, sinh động. Trách nhiệm đưa ra chứng cứ buộc tội thuộc về công tố viên,
và bên bào chữa có trách nhiệm chứng minh là mình vô tội. Các chức năng tố
tụng cơ bản trong mô hình tranh tụng được phân định rạch ròi, toà án có vị trí
trung tâm thực hiện chức năng xét xử. Vì thế mà vị trí và vai trò của thẩm phán,
công tố viên và phía bào chữa được bình đẳng trong thực hiện quyền, nghĩa vụ do
pháp luật quy định, đặc biệt là quyền đưa ra chứng cứ để chứng minh. Hoạt động
8


xét xử của thẩm phán có tính độc lập cao, không thể bị can thiệp từ phía cơ quan
nhà nước khác. Pháp luật cũng hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào lợi ích hợp
pháp của công dân nhằm tránh sự xâm hại. Điều đó cho thấy sự tương xứng và
bình đẳng trong việc chứng minh tội phạm tại phiên toà; cũng như quyền con
người được nhà nước bảo đảm. Qua đó còn cho thấy ưu điểm ở mô hình tranh
tụng, đó là sự đánh giá chứng cứ của thẩm phán mang tính khách quan; hình thức
tố tụng phải được đáp ứng đầy đủ và coi trọng; tránh được sự xâm hại trái pháp
luật và sự lạm quyền từ cán bộ tư pháp.
Tuy nhiên, mô hình tranh tụng bộc lộ hạn chế cơ bản nhất là phía nhà nước gặp
khó khăn trong việc kiểm soát tình hình tội phạm, nghĩa là tội phạm có thể bị bỏ
lọt. Đồng thời, nhà nước phải tiêu tốn nhiều hơn chi phí tố tụng do phải thiết lập
một hệ thống cơ chế giám sát hoạt động tố tụng nhằm kiểm soát những sai phạm

từ các hoạt động tố tụng và do phiên tòa trong hệ tranh tụng thường kéo dài vì
phải trải qua nhiều phiên tranh tụng.
Mô hình TTHS phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố tụng. Chính việc quy
định các thủ tục TTHS nói chung, thủ tục xét hỏi và tranh luận nói riêng đã làm
nên những đặc trưng cơ bản của mô hình TTHS. Phiên tòa trong mô hình tố tụng
nào thì thể hiện đặc điểm, mục đích của mô hình tố tụng đó. Phiên tòa trong tố
tụng thẩm vấn không phải là sự đối tụng nhau giữa hai bên buộc tội và gỡ tội mà
là sự tiếp tục điều tra công khai nhằm làm rõ sự thật của thẩm phán. Thậm chí là
không bao gồm phần tranh tụng của các bên, hoặc là rất mờ nhạt. Vì lo ngại cơ
quan thực thi quyền điều tra, truy tố và người tham gia tố tụng che giấu sự thật
nên các thẩm phán sẽ kiểm tra tích cực chứng cứ, kiểm tra nhân chứng, cho dù
việc này thuộc về chức năng buộc tội của công tố viên. Vì thế, thẩm phán tại
phiên tòa theo hệ thẩm vấn được trao quyền hạn rất lớn. Việc thu thập chứng cứ
trước khi xét xử chỉ được giao cho cơ quan điều tra và cơ quan truy tố, phía bị
buộc tội và người bào chữa tham gia rất mờ nhạt. Chứng cứ được tập hợp đầy đủ
trong hồ sơ vụ án. Chính vì vậy, phiên tòa thuộc hệ thẩm vấn thường ngắn hơn và
kém sinh động, thiếu tính tranh tụng và khó phân biệt rành mạch giữa các chức
năng tại phiên tòa; bị cáo thường nhanh chóng nhận tội và chấp nhận hình phạt.
Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng thì khác, ở đây là một cuộc tranh đấu qua việc
tranh luận tự do giữa một bên buộc tội và một bên là người bào chữa và bị cáo.
Vai trò của thẩm phán là làm trọng tài phán xét cho cuộc đấu tụng. Bị cáo có
quyền được im lặng, việc nhận tội hay không của họ rất được coi trọng, có ý
nghĩa quyết định đến quá trình tố tụng tiếp theo. Trong phiên tòa theo hệ tranh
tụng, các bên được bình đẳng trong việc thu thập và đưa ra chứng cứ và bị chi
phối bởi thủ tục “mặc cả nhận tội” - điều này hoàn toàn khác biệt với phiên tòa
theo lối thẩm vấn. Địa vị pháp lý của các chủ thể hoạt động tố tụng như công tố

9



viên, luật sư, thẩm phán, bồi thẩm được chia sẻ quyền lực và có tính đối trọng
chứ không nghiêng hẳn về bên nào đó.
Dân sự
Trình tự thông thường trong việc giải quyết vụ án dân sự mô hình tranh tụng
Thông thường, các vụ án dân sự được giải quyết theo 03 bước:






Bước thứ nhất: Luật sư của hai bên thu thập tòan bộ chứng cứ của vụ kiện
gửi cho Thẩm phán. Sáu tuần sau khi nhận được tòan bộ chứng cứ của hai bên
đương sự, Thẩm phán và luật sư của hai bên sẽ tổ chức một phiên họp xem xét
đánh giá chứng cứ của mỗi bên. Nếu thống nhất, vụ án sẽ kết thúc ở bước này,
Thẩm phán sẽ ra bản án;
Bước thứ hai: nếu hai bên đương sự không thống nhất được việc giải quyết
vụ án ở bước thứ nhất, luật sư hai bên sẽ chuẩn bị lý lẽ và chứng cứ để giải quyết
những vấn đề còn chưa thống nhất, phiên họp sẽ diễn ra 05 tuần sau phiên họp thứ
nhất. Trường hợp hai bên đương sự thống nhất với nhau, vụ án sẽ kết thúc ở đây,
Thẩm phán sẽ ra bản án;
Bước thứ 3: phiên tòa xét xử sẽ được tiến hành khi hai bên đương sự không
thống nhất được với nhau ở phiên họp lần hai.
Trên thực tế, khoảng 98% các vụ kiện dân sự được giải quyết ở bước thứ nhất và
bước thứ 2.



Vì tòan bộ chứng cứ đã phải xuất trình và được xem xét ở cấp sơ thẩm, nên
có rất ít kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Và do đó, cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại vụ

kiện về khía cạnh luật pháp chứ không xem xét lại các tình tiết của vụ kiện, trừ
trường hợp có chứng cứ mới mà ở giai đoạn sơ thẩm đương sự không thể biết và
chứng cứ này có thể làm thay đổi kết quả giải quyết vụ kiện.
Trình tự giải quyết vụ án dân sự thẩm vấn



Trong mô hình tố tụng xét hỏi, trình tự giải quyết vụ án dân sự không phân
chia thành các bước như trong mô hình tố tụng tranh tụng (3.2, 3, I) mà được thực
hiện theo những phiên làm việc không liên tục: Sau khi khởi kiện, các bên được
triệu tập đến tòa để trình bày miệng về yêu cầu của mình. Kết thúc phiên làm việc
đầu tiên, Thẩm phán sẽ sắp xếp phiên làm việc tiếp theo. Trong các phiên làm việc
này, Thẩm phán đóng vai trò chính và trực tiếp: các bên trình bày ý kiến của mình
bằng cách trả lời các câu hỏi mà Thẩm phán đưa ra.
Sau khi các phiên làm việc đạt kết quả chín muồi, Thẩm phán sẽ hòa giải,
nếu không thành sẽ đưa ra phiên tòa. Tại phiên tòa, sau khi hỏi và nghe các bên
trình bày những tranh luận cuối cùng của mình, Thẩm phán ra bản án.
Trong suốt quá trình làm việc, các bên hoàn tòan tự do đưa ra những lập luận
mới, những chứng cứ mới, thay đổi những lập luận trước đó, thậm chí thay đổi cả
yêu cầu của mình. Với cách làm việc này, việc đưa ra những chứng cứ mới gần





10


như không bao giờ là quá muộn, không có chuyện loại bỏ những chứng cứ mới
được đưa ra ở giai đoạn muộn của quá trình giải quyết vụ án. Hơn nữa, ngay đến

cấp phúc thẩm các bên vẫn được phép đưa ra những lập luận mới hoặc chứng cứ
mới.
10. Chứng minh rằng tố tụng dân sự Việt Nam là tố tụng thẩm vấn nhưng
có tiếp thu một số yếu tố của tố tụng tranh tụng?
1. Bổ sung tranh tụng vào nhóm những nguyên tắc quan trọng trong pháp
luật tố tụng dân sự
Tranh tụng trong tố tụng dân sự xuất phát từ yêu cầu thực hiện chiến lược cải cách
tư pháp của Nhà nước ta. Trước những yêu cầu của việc đẩy mạnh công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực, để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung cũng như đổi mới thủ tục tố tụng dân sự nói riêng trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngày 24/5/2005 Bộ
chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Tiếp
đó, ngày 02/6/2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cả hai nghị quyết này đều xác định nhiều
định hướng quan trọng, toàn diện cho việc xây dựng hệ thống pháp luật và chương
trình cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp nhằm bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể tham
gia tố tụng, người dân có cơ hội được tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thông qua quá trình tranh tụng, góp phần giải quyết nhanh chóng các tranh
chấp dân sự đang ngày càng gia tăng. Ngày 29/3/2011, khi Quốc hội ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định thêm Điều
23a về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân sự. Tuy vậy, do
tranh luận chưa phải là tranh tụng nên nguyên tắc này chưa thật sự bảo đảm được
các yêu cầu của tranh tụng. Tiếp đó, khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, tại
khoản 5 Điều 103 khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm”, đây là quy định mang tính chất bản lề cho việc xây dựng và hoàn thiện
nguyên tắc tranh tụng trong các luật tố tụng nói chung và trong luật tố tụng dân sự
nói riêng. Vì vậy, khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được thông qua thì nguyên
tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự đã được khẳng định là một trong những nguyên

tắc chung nhất của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Tại Điều 24 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong xét xử như sau:
“1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
2. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu
11


thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa
vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát
biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu
cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo
quy định của Bộ luật này.
3. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách
quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại
khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những
vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định”.
Xác định nguyên tắc tranh tụng có mối quan hệ khăng khít, hữu cơ với nhiều
nguyên tắc quan trọng khác trong tố tụng dân sự như: Nguyên tắc “tuân thủ pháp
luật trong tố tụng dân sự”; nguyên tắc “cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự”; nguyên tắc “bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự”; nguyên tắc “quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự”; nguyên
tắc “bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự”... Đồng thời với đó, sự
xuất hiện của nguyên tắc tranh tụng đã làm thay đổi nhiều quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự như: Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng dân
sự; quy định về chứng cứ và chứng minh; quy định về trách nhiệm của Tòa án bảo
đảm cho tranh tụng; quy định về thủ tục tố tụng... Trong đó, sự thay đổi lớn là
phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đã được cơ cấu lại theo hướng thực hiện tranh

tụng bao gồm thủ tục bắt đầu phiên tòa; thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; thủ tục
nghị án và tuyên án.
Tuy nhiên, do thực tế còn chưa có sự thống nhất trong cách hiểu về khái niệm
tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự giữa các nhà khoa học lý
thuyết cũng như thực tiễn nên việc Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định quá
cụ thể về nguyên tắc này tại Điều 24 có thể dẫn tới việc không bao quát hết và
không chính xác nội dung về nguyên tắc tranh tụng. Qua nghiên cứu cho thấy, Bộ
luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga quy định rất ngắn gọn về quyên tắc tranh tụng
tại Điều 12 như sau: “Việc xét xử được tiến hành theo nguyên tắc tranh tụng và
bình đẳng giữa các bên”[1], đây có thể là do nhà xây dựng pháp luật của Nga đã
lường trước được sự phức tạp trong việc áp dụng và bảo đảm thực hiện nguyên tắc
này trong pháp luật dân sự nên họ quy định hết sức tổng quát, ngắn gọn về nguyên
tắc tranh tụng, còn lại các nội dung liên quan sẽ được phát triển thêm ngoài Bộ
luật.
Một điểm nữa là, tên của Điều luật (Điều 24 Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015)
không phù hợp với các nội dung quy định của Điều này, nhất là quy định trong
khoản 2. Tên Điều luật là “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”, vì “xét xử” là một
trong các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên có thể hiểu Điều luật chỉ giới
hạn nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử vụ án, nhưng tại khoản 2 đã quy
12


định các quyền và nghĩa vụ về tranh tụng như: Thu thập, giao nộp tài liệu, chứng
cứ; thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp… Những quyền và
nghĩa vụ này theo quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không được
thực hiện trong giai đoạn xét xử hoặc phải thực hiện trước giai đoạn xét xử.
Như vậy, các nhà khoa học pháp lý và các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam
cũng cần có sự nghiên cứu về vấn đề này để trong thời gian tới có những hướng
dẫn, điều chỉnh phù hợp.
2. Về cung cấp chứng cứ

Như pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước kia chú trọng mô hình tố tụng thẩm
vấn thì các quy định về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự hết
sức hạn chế, việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự chủ yếu do Tòa án
thực hiện. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đánh dấu sự chuyển biến của
mô hình tố tụng dân sự từ thẩm vấn sang kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng,
cung cấp chứng cứ là quyền và nghĩa vụ của đương sự và đương sự có quyền cung
cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án. Tòa án chỉ thu
thập chứng cứ khi đương sự không thể tự tiến hành thu thập được và có yêu cầu
bằng văn bản.
Tiếp tục phát triển các quy định về cung cấp chứng cứ và để phù hợp với mô hình
tố tụng tranh tụng, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định về thời hạn cung
cấp chứng cứ của đương sự và người tham gia tố tụng khác bảo đảm các chứng cứ
đều được công khai một cách sớm nhất và phục vụ tốt nhất cho việc giải quyết vụ
án.
Theo khoản 4 Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án sẽ xác định các chứng cứ của vụ án mà đương sự phải giao
nộp, đồng thời ấn định khoảng thời gian để giao nộp chứng cứ trong thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án.
Thủ tục giao nộp chứng cứ (tại Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) cũng
được quy định cụ thể hơn so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và khi đương sự
giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho
đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu,
chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí
mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc tài liệu,
chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự
khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác (khoản 5 Điều 96 nêu trên).
Đối với trường hợp chứng cứ được gửi kèm theo đơn khởi kiện thì người khởi kiện
có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao
đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có,
tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân

tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Nếu vì
13


lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ
có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ (khoản 9 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015). Quy định về việc giao nộp và trao đổi chứng cứ của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 có nhiều điểm tương đồng với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
nước Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga...[2]. Nhưng quy định trên của pháp luật Việt
Nam có một số điểm hạn chế như sau:
Thứ nhất, thời hạn cung cấp chứng cứ không được xác định cụ thể (điểm đầu, điểm
cuối) trong Điều luật dẫn tới làm khó cho người tham gia tố tụng bởi mỗi vụ án sẽ
được thẩm phán ấn định khác nhau, người tham gia tố tụng sẽ bị động về thời hạn
cung cấp chứng cứ trong vụ án của mình.
Thứ hai, về nguyên tắc, thời hạn cung cấp chứng cứ phải được thẩm phán ấn định
và công bố cho người tham gia tố tụng biết trước khi kết thúc thời hạn đó một thời
gian hợp lý để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ của
mình nhưng Bộ luật cũng không đề cập về nội dung này.
Thứ ba, theo quy định, đương sự vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thì phải chịu
hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, chưa có quy định pháp luật nào về chế tài của
hành vi đương sự vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nên không có tính răn đe.
Trái lại, đối với thẩm phán, nhu cầu thực tế là để giải quyết vụ án phải có đầy đủ
tài liệu, chứng cứ của vụ án đó, nên khi đương sự vi phạm nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ thì thẩm phán là người sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết chính xác
vụ án.
Như vậy, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về thời hạn cung
cấp chứng cứ và hậu quả của việc đương sự vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
nhưng xem xét kỹ thì thấy chưa cụ thể mà chỉ chung chung, mang tính chất trao
quyền cho thẩm phán trong việc ấn định thời hạn cung cấp chứng cứ. Thiết nghĩ,
với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như vậy, cần phải có hướng dẫn

chi tiết thi hành của Tòa án nhân dân tối cao và tránh việc trao quyền lớn cho thẩm
phán, khi mà thẩm phán không thực sự khách quan, công minh hoặc sáng suốt sẽ
làm ảnh hưởng tới quyền của đương sự về cung cấp chứng cứ phục vụ cho việc
bảo vệ quyền lợi của họ tại Tòa án.
3. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
Pháp luật Việt Nam rất coi trọng việc hòa giải để giải quyết các tranh chấp mâu
thuẫn, bảo đảm giữ được mối quan hệ hài hòa giữa các bên tranh chấp. Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 vẫn giữ thủ tục hòa giải trong tố tụng dân sự nhưng đã phát
triển thành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải (được quy định trong các điều 208, 209, 210, 211). Thủ tục phiên họp có xu
hướng giống với phiên tòa sơ bộ trong pháp luật Liên bang Nga và tố tụng sơ đẳng
hay “tố tụng chuẩn bị” trong pháp luật Nhật Bản[3]. Về trình tự, nội dung của
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được
14


quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quy định này cũng còn
một số hạn chế:
Một là, về trình tự phiên họp gần như tách riêng thành hai phần là kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; không có sự kết hợp, gắn kết
nên nhiều thủ tục đã thực hiện trong phần trước đã lặp lại trong phần sau như:
Đương sự trình bày yêu cầu và phạm vi khởi kiện; việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi,
rút yêu cầu khởi kiện; yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề chưa thống
nhất yêu cầu Tòa án giải quyết… việc lặp lại này gây sự nhàm chán, kéo dài thời
gian không cần thiết của phiên họp.
Hai là, tại điểm d khoản 2 Điều này quy định cho đương sự có quyền đề xuất thẩm
phán hỏi đương sự khác về “những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết”. Quy
định này không rõ ràng, “những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết” là những
vấn đề gì? Nếu mở rộng những vấn đề mà đương sự có quyền yêu cầu thẩm phán
hỏi đối với đương sự khác thì dẫn đến thủ tục của phiên họp đã dài lại càng tốn

nhiều thời gian hơn.
Ba là, khoản 3 Điều 210 nêu trên quy định, thẩm phán sau khi nghe các đương sự
trình bày xong sẽ “xem xét các ý kiến, giải quyết yêu cầu của đương sự quy định
tại khoản 2 Điều này”. Vậy, những yêu cầu nào của đương sự sẽ được xem xét, giải
quyết? Yêu cầu khởi kiện (quy định tại điểm a khoản 2) có được giải quyết không?
Quy định này cho thấy sự thiếu chặt chẽ và không rành mạch. Hơn nữa, một nội
dung quan trọng là thẩm phán phải kết luận về giá trị của chứng cứ tại phiên họp
giống như quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga[4] thì Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 của Việt Nam đã không quy định. Do vậy, Tòa án nhân dân
tối cao nên có hướng dẫn cụ thể các nội dung trong Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 để các thủ tục tránh lặp lại; quy định đương sự có quyền đề xuất thẩm
phán hỏi những vấn đề về chứng cứ của vụ án mà đương sự thấy cần thiết để tránh
kéo dài thời gian của phiên họp.
11. Phân tích những điểm khác biệt cơ bản giữa tố tụng dân sự và tố tụng
hình sự?
12. Phân biệt vụ việc dân sự, vụ án dân sự và việc dân sự? Cho ví dụ.
Vụ Việc Dân sự : Vụ án dân sự
Việc dân sự : giữa các bên tuy không tranh chấp nhưng yêu
cầu tòa án công nhận (làm chấm dứt ,phát sinh quyền và nghĩa vụ nào đó

Tiêu chí so sánh
Việc dân sự
Tranh chấp xảy
Không có tranh chấp.
Có tranh chấp xảy ra
ra
Tính chất
Là việc riêng của cá nhân, tổ chức, không Là vấn đề giải quyết tranh c
có nguyên đơn, bị đơn mà chỉ có người dân sự giữa cá nhân, tổ chứ
yêu cầu Tòa án giải quyết, từ yêu cầu của , tổ chức khác; có nguyên đ

15


đương sự, Tòa án công nhận quyền và Tòa án giải quyết trên cở bả
nghĩa vụ cho họ.
người có nghĩa vụ thực hiện
Yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không
Hình thức giải công nhận một sự kiện pháp lý nào đó là
Khởi kiện tại tòa
quyết của chủ thể căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ dân
sự.
Chủ thể
Cá nhân, tổ chức
Xác minh, ra các quyết định, tuyên
bố theo yêu cầu của cá nhân, tổ
Giải quyết tranh chấp bằng việc x
Cách thức giải
chức.
theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩ
quyết của Tòa án
Kết quả giải quyết được tuyên
Kết quả giải quyết được tuyên bằn
bằng một quyết định.
Trình tự giải quyết gọn gàng, đơn
giản, thời gian giải quyết nhanh. Trình tự, thủ tục nhiều, phức tạp,
Trình tự, thời
Giải quyết việc dân sự bằng việc quyết việc dân sự, thời gian giải q
gian giải quyết
mở phiên họp công khai để xét đơn Giải quyết vụ án dân sự phải mở p
yêu cầu.

Thầm phán (có thể 1 hoặc 3 thẩm
phán tùy tường vụ việc dân sự),
Viện Kiểm sát, Trọng tài Thương
mại (
Thành phần giải
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, V
nếu yêu cầu liên quan đến việc
quyết
Trọng tài Thương mại Việt Nam
giải quyết tanh chấp theo quy định
của pháp luật về trọng tài thương
mại)
Người yêu cầu và người có quyền
Nguyên đơn, bị đơn, người có quy
Thành phần
lợi nghĩa vụ liên quan. Các đương
nghĩa vụ liên quan. Nguyên đơn
đương sự
sự không có sự đối kháng với nhau
i kháng với nhau về mặt lợi ích
về mặt lợi ích
Lệ phí cố định (Khoảng 200.000
Phí, lệ phí
Án phí được tính theo % giá trị tra
đồng)

16


Ví dụ


Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp
luật; Yêu cầu công nhận thuận tình Tranh chấp về chia tài sản chung
ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia thời kỳ hôn nhân, tranh chấp về n
tài sản khi ly hôn.

13. Những điểm khác biệt giữa thủ tục TTDS rút gọn và thủ tục TTDS thông
thường?
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn thông thường là cơ sở cho việc áp dụng giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn và thủ tục rút gọn là sự lược hoá một số bước
của thủ tục tố tụng thông thường.

Thứ nhất, khái quát về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều có xây dựng và
áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để giải quyết một số loại vụ án dân sự nhất
định. Xét một cách khái quát thì tuy pháp luật mỗi nước có những đặc thù riêng
nhưng nhìn chung thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự được hiểu là một thủ tục
đơn giản hơn thủ tục tố tụng thông thường về thành phần hội đồng xét xử, về thời
gian tiến hành tố tụng… đối với các vụ án có nội dung tranh chấp tương đối rõ
17


ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, các vụ án
có giá ngạch thấp hoặc do các bên đương sự lựa chọn giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn.
Trong mối quan hệ giữa xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường và thủ tục xét xử
theo thủ tục rút gọn thì thủ tục tố tụng dân sự thông thường là cơ sở cho việc áp
dụng giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn và thủ tục rút gọn là sự lược hoá một số
bước của thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

không phải là thủ tục phụ thuộc vào thủ tục tố tụng thông thường mà thủ tục rút
gọn là một thủ tục tố tụng độc lập tương đối so với thủ tục tố tụng thông thường.
Tính độc lập của thủ tục tố tụng rút gọn thể hiện trong trường hợp nếu các điều
kiện xét xử theo thủ tục tố tụng rút gọn không còn đáp ứng thì vụ việc vẫn có thể
được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.

Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là một quy trình tố tụng riêng biệt được
Toà án áp dụng để giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, lao
động có nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp hoặc các bên đương sự
thoả thuận lựa chọn thủ tục này. Theo đó, trong một thời hạn ngắn ngắn, thẩm
phán độc lập tiến hành xem xét và ra phán quyết về vụ án tranh chấp mà không
nhất thiết phải tuân theo tuần tự các bước như trong thủ tục tố tụng thông thường.
Đặc điểm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thủ tục được hình thành trên cơ sở đơn giản hóa
thủ tục tố tụng thông thường nhằm giải quyết một số loại vụ việc cụ thể nhanh
gọn, hiệu quả và có những đặc điểm sau đây: (1) Được áp dụng để giải quyết các
vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp không lớn, những vụ việc dân sự đơn giản;
(2) Thủ tục giải quyết đơn giản, thời hạn giải quyết được rút ngắn (từ 2 đến 3
lần); thường được giải quyết bằng một Thẩm phán; quyết định của Tòa án có
quốc gia quy định có hiệu lực thi hành ngay, có quốc gia cho phép kháng cáo lên
Tòa án cấp trên; (3) Chi phí tố tụng thấp hơn nhiều so với chi phí tố tụng thông
thường.
Ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Ý nghĩa to lớn của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn nằm ngay trong chính tên gọi
của thủ tục này với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể tiếp
cận công lý một cách nhanh chóng. Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
18


có ý nghĩa không chỉ đối với các đương sự, Toà án mà nó còn có ý nghĩa xã hội

rộng lớn và sâu sắc.
Thứ nhất, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, hội nhập kinh tế quốc tế và là sự hiện thực hoá chiến lược cải cách tư pháp
của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ giảm đáng kể các chi phí tố tụng cho
đương sự và Toà án trong quá trình giải quyết vụ án. Thông thường pháp luật các
nước có quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đều quy định án phí mà đương
sự phải chịu là thấp hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Bên cạnh đó, do các
vụ án đơn giản, xét xử nhanh nên các chi phí đi lại, thuê luật sư không phát sinh.
Tòa án cũng không phải tiến hành tất cả các trình tự, thủ tục để đưa vụ án ra xét
xử mà gần như chỉ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung
cấp. Vì vậy, các chi phí phát sinh như định giá, thẩm định tại chỗ, thu thập tài
liệu, chứng cứ cũng không phát sinh.
Thứ ba, trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, thời gian để tiến hành tố tụng được
rút gắn đi rất nhiều lần so với thủ tục tố tụng dân sự thông thường. Do vậy, quyền
lợi hợp pháp của đương sự sẽ được bảo vệ một cách nhanh chóng, kịp thời.
Thứ tư, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền tiếp
cận công lý của công dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án có thể
nhanh chóng giải quyết vụ án. Đối với công dân thì thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
sẽ tạo điều kiện thuận lợi để họ tiến hành khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong các vụ án có nội dung tranh
chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng...thì cả nguyên đơn và bị đơn không phải trải
qua tất cả các thủ tục tố tụng như trong thủ tục thông thường, mà chỉ tiến hành
một số thủ tục luật định cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là phương tiện để Thẩm phán có thể chủ động và
linh hoạt trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự vì họ không phải
thực hiện tất cả các trình tự, thủ tục như thủ tục tố tụng dân sự thông thường.
Ngoài ra, với đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thời gian giải quyết
nhanh chóng, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng đơn giản nên thủ tục này sẽ là
một phương tiện được người dân tin cậy trong việc sử dụng để nhanh chóng bảo

vệ quyền lợi của mình. Từ đó hạn chế được các hiện tượng tiêu cực hiện nay như
khiếu kiện kéo dài hoặc người dân thiếu tin tưởng vào tính hiệu quả của hệ thống
Toà án nên đã tự mình hành xử bằng cách bắt nợ, đòi nợ thuê dẫn đến gây mất
19


trật tự xã hội và có thể phát sinh thành các tội phạm hình sự.
Thứ năm, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần giảm áp lực công việc cho cán
bộ ngành Toà án, đặc biệt là đối với Thẩm phán khi mà số lượng các vụ án tranh
chấp về dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình ngày một gia tăng.
Trong điều kiện không thể tăng biên chế Thẩm phán tương ứng với sự gia tăng số
lượng công việc và ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp thì việc xây dựng thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn với một trình tự, thủ tục đơn giản, thời gian giải quyết ngắn
sẽ giúp cho các Thẩm phán nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử, chủ động
giải quyết được số các vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch
thấp. Do vậy, Thẩm phán sẽ có thời gian tập trung nghiên cứu, giải quyết các vụ
án có tính chất phức tạp đòi hỏi một trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Thứ hai, những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục
rút gọn
Về khái niệm
Điều 316 quy định: “Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải
quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này với trình tự
đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường nhằm giải
quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật”.
Như vậy, thủ tục rút gọn là một chế định mới, lần đầu tiên được quy định trong
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Mục đích của việc áp dụng thủ tục rút gọn là để
giải quyết vụ án dân sự với trình tự, thủ tục đơn giản so với thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự thông thường, nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo
đảm đúng pháp luật.
Về các điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Thủ tục rút gọn không áp dụng để giải quyết việc dân sự chỉ áp dụng để giải
quyết vụ án dân sự khi có đầy đủ ba điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều
317: (1) Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa
nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án
và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ. (2) Các đương sự đều có địa chỉ
nơi cư trú, trụ sở rõ ràng. (3) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản
tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở
Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các
20


đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có
thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Với quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì thủ tục rút gọn được áp dụng
ngay cả tranh chấp có giá trị trên một trăm triệu đồng chứ không phải chỉ dưới
một trăm triệu đồng như trước đây theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Hay nói cách khác, tiêu chí này không phân biệt giá trị tranh chấp. Đây là một
điều hết sức hợp lý bởi giá trị tranh chấp mặc dù lớn hay nhỏ nhưng tính chất đơn
giản, đương sự thừa nhận sự việc thì vẫn xét xử theo thủ tục rút gọn, không nên
kéo dài việc giải quyết vụ án.
Về thành phần, trình tự giải quyết thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Việc giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn được thực hiện ở cấp sơ thẩm và phúc
thẩm; Thành phần Hội đồng xét xử sở thẩm và phúc thẩm chỉ do một thẩm phán
tiến hành (Điều 65); tại cấp sơ thẩm, việc xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn
không có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 11).
Trình tự thủ tục rút gọn được quy định tại Phần thứ tư Bộ luật tố tụng dân sự từ
Điều 316 đến Điều 324; trường hợp không có quy định thì áp dụng những quy
định khác của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án.
Về thời hạn giải quyết
Kèm theo các điều kiện nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng thì việc quy định

thời hạn ngắn nhất để giải quyết vụ án là điều không thể thiếu, do đó, trong thời
gian 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án sơ thẩm, thẩm phán phải ban hành quyết
định đưa vụ án ra xét xử (Điều 318). Và ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
thì thời hạn này cũng chỉ 01 tháng (Điều 323). Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử
ở cả giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm chỉ là 02 tháng, giảm 04 tháng so với thủ tục
thông thường (chưa kể thời gian gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử đối với thủ tục
thông thường).
Một điểm đặc biệt hơn là ngay cả việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm cũng không
làm mất đi hiệu lực của thủ tục rút gọn, và khi lí do tạm đình chỉ không còn thì
vụ án vẫn được tiếp tục xét xử theo thủ tục này (khoản 3, Điều 323). Chỉ khi xuất
hiện tình tiết mới hoặc cần phải tiến hành giám định; cần phải định giá, thẩm định
giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá; cần phải áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
21


quan; phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập; phát sinh đương sự cư trú
ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng
cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp, trừ trường hợp quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 317 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì vụ án mới chuyển
sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Về hiệu lực của bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn
Điều 321 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: Bản án quyết định sơ thẩm của
Tòa án theo thủ tục rút gọn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm rút
gọn. Bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn cũng có thể bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trong Bộ luật Tố tụng Hình sự (Điều 319, 320), thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng
khi có đủ 04 điều kiện: Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; Sự việc
phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít

nghiêm trọng; Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Bên cạnh đó, việc áp
dụng thủ tục này chỉ tiến hành ở cấp sơ thẩm, nếu vụ án có kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm hay xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì cũng không được giải quyết theo thủ
tục này.
Khác với tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định vụ án được xét
xử rút gọn ở cả giai đoạn phúc thẩm, đây là điểm tiến bộ và cần thiết bởi vì nếu
vụ án được xét xử nhanh chóng ở giai đoạn sơ thẩm nhưng đến giai đoạn xét xử
phúc thẩm lại bị kéo dài, điều đó sẽ làm mất đi ý nghĩa của việc rút gọn.
Về mức án phí
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 326/2016/UBTTQH14, ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định: “đối với
vụ án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động và vụ án hành chính được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì mức
án phí bằng 50% mức án phí quy định tại mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án
ban hành kèm theo Nghị quyết này”. Đây là quy định hoàn toàn phù hợp vì
những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn là những vụ án đơn giản, cần
xét xử nhanh nên các chi phí đi lại, thuê luật sư, thu thập chứng cứ… đều ở mức
thấp. Tòa án cũng không phải tiến hành nhiều thủ tục tố tụng mà gần như chỉ căn
22


cứ vào những tài liệu, chứng cứ đương sự cung cấp; không phát sinh chi phí giám
định, định giá, thu thập chứng cứ
14. Phân biệt thủ tục TTDS rút gọn và thủ tục giải quyết việc dân sự?
1.Về việc thay đổi người tiến hành tố tụng khi giải quyết việc dân sự
Để đảm bảo cho quá trình giải quyết việc dân sự khách quan và đúng đắn thì
những người tiến hành tố tụng phải thật sư vô tư, khách quan trong quá trình giải
quyết việc dân sự. Do đó nếu có căn cứ cho thấy họ không vô tư, khách quan
trong khi tiến hành tố tụng thì họ có thể phải bị thay đổi. Vì vậy, Điều 368

BLTTDS năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định về thay đổi người tiến hành tố tụng
khi giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, khoản 54 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLTTDS năm 2011 lại chỉ đề cập đến thủ tục thay đổi thư ký Tòa án
trước khi mở phiên họp mà không quy định về thủ tục thay đổi thư ký phiên họp
tại phiên họp giải quyết việc dân sự. Điều này là chưa hợp lý bởi tại phiên họp
các đương sự mới thực hiện quyền yêu cầu thay đổi thư ký phiên họp của mình
thì Thẩm phán hoặc hội đồng giải quyết việc dân sự phải xem xét, giải quyết. Vì
vậy, khoản 2 Điều 368 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về thay đổi thư
ký phiên họp ở tại phiên họp như sau:
– Trường hợp việc dân sự do một Thẩm phán giải quyết thì việc thay đổi Thẩm
phán, Thư ký phiên họp do Chánh án của Tòa án đang giải quyết việc dân sự đó
quyết định;
– Trường hợp việc dân sự do Hội đồng giải quyết việc dân sự gồm ba Thẩm phán
giải quyết thì việc thay đổi thành viên Hội đồng, Thư ký phiên họp do Hội đồng
giải quyết việc dân sự quyết định.
Tuy nhiên, trong trường hợp Thẩm phán, Thư ký phiên họp hoặc các thành viên
của hội đồng giải quyết việc dân sự bị thay đổi tại phiên họp thì khoản 2 Điều
368 BLTTDS năm 2015 lại không quy định rõ là phiên họp bị hoãn hay vẫn tiến
hành họp. Thiết nghĩ, TANDTC cần có hướng dẫn là trong trường hợp này phiên
họp bị hoãn vì không có Thẩm phán điều khiển phiên họp cũng như không có thư
ký ghi biên bản phiên họp đồng thời việc hoãn phiên họp sẽ tạo điều kiện cho
Thẩm phán thay thế có thời gian nghiên cứu hồ sơ để giải quyết việc dân sự
chính xác và đúng pháp luật.
Ngoài ra, khoản 54 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm
2011 quy định việc thay đổi kiểm sát viên tại phiên họp do Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp quyết định cũng chưa hợp lý. Bởi tại phiên họp, mọi quyết
định đều phải do Thẩm phán hoặc Hội đồng giải quyết việc dân sự quyết định
chứ Viện trưởng Viện kiểm sát không có quyền quyết định. Hơn nữa, nếu tại
23



phiên họp mà phải thay đổi kiểm sát viên thì phiên họp có bị hoãn không hay vẫn
tiến hành phiên họp thì khoản 54 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS năm 2011 cũng không có quy định. Điều này dẫn đến Tòa án không có
cơ sở pháp lý giải quyết nếu yêu cầu thay đổi kiểm sát viên được chấp nhận ở tại
phiên họp. Do đó, khoản 3 Điều 369 BLTTDS năm 2015 quy định tại phiên họp,
việc thay đổi Kiểm sát viên do Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự quyết
định. Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên thì Thẩm phán, Hội đồng giải
quyết việc dân sự ra quyết định hoãn phiên họp và thông báo cho Viện kiểm sát
để Viện kiểm sát bố trí Kiểm sát viên khác thay thế. Hoãn phiên họp sẽ giúp
Kiểm sát viên được thay thế có thời gian nghiên cứu hồ sơ việc dân sự để việc
kiểm sát được hiệu quả.
2.Về thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự
BLTTDS năm 2015 về cơ bản vẫn quy định trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp
như khoản 55 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011
nhưng có sự thay đổi là Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết việc
dân sự thì còn phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc
dân sự ngay sau khi kết thúc phiên họp. Ngoài ra, phiên họp giải quyết việc dân
sự do 1 Thẩm phán tiến hành hoặc hội đồng giải quyết việc dân sự gồm 3 Thẩm
phán tiến hành nên Điều 369 BLTTDS năm 2015 quy định người điều khiển
phiên họp và ra quyết định giải quyết việc dân sự là Thẩm phán hoặc hội đồng
giải quyết việc dân sự chứ không chỉ quy định như khoản 55 Điều 1 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 là Thẩm phán điều khiển phiên họp
và ra quyết định giải quyết việc dân sự.
3.Về quyết định giải quyết việc dân sự
Về cơ bản quyết định giải quyết việc dân sự quy định tại Điều 315 BLTTDS năm
2004 tiếp tục được quy định tại khoản 1,2 Điều 370 BLTTDS năm 2015. Tuy
nhiên, khoản 3,4 Điều 370 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung các quy định sau:
– Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án có liên quan
đến việc thay đổi hộ tịch của cá nhân phải được Tòa án gửi cho UBND nơi đã

đăng ký hộ tịch của cá nhân đó theo quy định của Luật Hộ tịch.
– Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án được công
bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), trừ quyết định có chứa thông
tin quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.
Có thể nói rằng các quy định mới này nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch
của quyết định giải quyết việc dân sự, đảm bảo tất cả mọi người đều thuận lợi
biết về phán quyết của Tòa án cũng như thực hiện việc hiện đại hóa các hoạt
động tố tụng của Tòa án.
24


4.Về kháng cáo, kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự
Với nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thì Điều 371 BLTTDS
năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định về kháng cáo, kháng nghị quyết định giải
quyết việc dân sự tại Điều 316 BLTTDS năm 2004. Tuy nhiên, về người có
quyền kháng cáo đối với quyết định dân sự thì Điều 371 BLTTDS năm 2015
không quy định về quyền kháng cáo của người đại diện của đương sự trong việc
dân sự. Điều này là chưa thực sự hợp lý bởi đương sự trong việc dân sự có thể ủy
quyền cho người khác thực hiện việc kháng cáo (ủy quyền kháng cáo yêu cầu
tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển…) trừ
việc dân sự phải do chính các đương sự thực hiện (việc dân sự liên quan đến nhân
thân của các đương sự). Hoặc người đại diện theo pháp luật của người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan kháng cáo.
5.Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Nhằm đảm bảo cho đương sự có đủ thời gian cần thiết để suy nghĩ và quyết định
xem mình có nên kháng cáo không cũng như để thu thập thêm tài liệu, chứng cứ
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì khoản 1 Điều 372 BLTTDS
năm 2015 đã nâng thời hạn kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm đối với quyết định
giải quyết việc dân sự từ 7 ngày lên 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định. Trong
trường hợp họ không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn mười

ngày được tính từ ngày họ nhận được quyết định hoặc quyết định đó được thông
báo, niêm yết.
Tuy nhiên, Điều 372 BLTTDS năm 2015 không có quy định về kháng cáo quá
hạn. Thiết nghĩ, nếu các đương sự trong vụ án dân sự được kháng cáo quá hạn thì
đương sự trong việc dân sự cũng được quyền kháng cáo quá hạn để đảm bảo sự
bình đẳng giữa các đương sự trong vụ án dân sự và việc dân sự. Theo đó, khi
người có quyền kháng cáo vì lí do chính đáng như ốm đau, tai nạn… lí do bất khả
kháng mà không thực hiện được quyền của mình thì Tòa án xem xét lí do có thể
chấp nhận kháng cáo quá hạn. Điều này cũng cần được hướng dẫn cụ thể.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 317 BLTTDS năm 2004, thời hạn kháng nghị đối
với quyết định giải quyết việc dân sự của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết
định giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát
cùng cấp lại được nâng lên là 10 ngày trong BLTTDS năm 2015 (khoản 2 Điều
372), giữ nguyên thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp dài hơn so với Viện kiểm sát
cùng cấp vì thông thường khi phát hiện ra sai sót hoặc có vi phạm trong việc ra
quyết định của Tòa án nhưng quá thời hạn thì Viện kiểm sát cùng cấp sẽ báo cáo
25


×