Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của cư dân khi tham gia phát triển du lịch huyện long điền theo hướng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 77 trang )

1

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Lý do chọn đề tài
Theo Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030" đã chỉ rõ phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP. Bên cạnh đó cần phát triển du lịch
theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại có trọng tâm, trọng điểm và phát triển du lịch bền
vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị trị văn hoá, dân tộc; giữ gìn
cảnh quản, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực cả trong
và ngoài nước cho đầu tư phát triển du lịch; phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh đặc
trưng các vùng, miền trong cả nước. Phát triển du lịch bền vững nói riêng và phát triển
bền vững nói chung được xem là một mục tiêu quan trọng đã được Thủ tướng Chính
phủ nêu rõ trong Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 04 năm 2012 phát triển
bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên,
môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Còn theo Nghị
quyết của Bộ chính trị số 08-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2017 đã chỉ ra rằng 15
năm qua, ngành Du lịch đã có từng bước chuyển biến, ngày càng phát triển rõ rệt và
đạt được những kết quả rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng khách du lịch có sự gia
tăng kể cả khách quốc tế lẫn khách nội địa với tỉ lệ gia tăng trung bình mỗi năm lần
lượt là 10,2% và 11,8%. Đến năm 2016 số lượng khách du lịch đã có sự gia tăng vượt
bậc đóng góp khá lớn cho ngân sách nhà nước với tổng giá trị chiếm 14% GDP cả
nước. Tuy nhiên, ngành Du lịch vẫn chưa thực sự phát huy được hết tiềm năng du lịch
của mình và còn tồn đọng khá nhiều hạn chế đặc biệt là phát triển chưa xứng với tiềm
năng, thế mạnh và chưa mang lại kỳ vọng của xã hội. Các sản phẩm du lịch chưa thật
sự nổi bật, khả năng cạnh tranh còn thấp và chất lượng dịch vụ thiếu tính chuyên
nghiệp, sự hiệu quả không cao. Môi trường du lịch không thu hút được nhiều nhà đầu
tư uy tín. Vai trò của cộng đồng trong phát triển du lịch chưa được phát huy. Mặt khác,




2

thể chế nhất là các chính sách hỗ trợ phát triển du lịch của các cơ quan chính sách vẫn
còn ít, mang nặng tư tưởng bao cấp không thật sự gắn kết được giữa cộng đồng địa
phương và các công ty cũng như các dịch vụ du lịch.
Huyện Long Điền thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, giáp ranh huyện Đất Đỏ, nằm
ở vị trí đồng bằng ven biển, là nơi có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, có cảnh
quan thiên nhiên, di tích có giá trị cao, rất có lợi thế cũng như tiềm năng du lịch để
phát triển du lịch bền vững. Toàn huyện với 4 không gian phát triển du lịch chính gồm
không gian văn hoá Long Điền, không gian sông Cửa Lấp, không gian biển Long Hải Phước Tỉnh và không gian núi Châu Viên cùng các di tích lịch sử như Tổ đình Thiên
Thai, Mộ Bà Rịa, Bàu Thành, Dinh Cô Long Hải, chùa cổ Long Bàn, Đình thần Long
Điền, chùa Long Hoà... và một số nghề truyền thống như nghề đúc đồng, nghề làm
bánh tránh, bánh hỏi… đã tạo dựng cho huyện rất nhiều điều kiện để phát triển du lịch
theo nhiều hướng đặc biệt phát triển du lịch bền vững. Tuy nhiên giàu tài nguyên du
lịch và khai thác tài nguyên du lịch một cách hiệu quả là hai vấn đề hoàn toàn khác
biệt nhất là khi phát triển du lịch bền vững không chỉ đơn thuần là khai thác nguồn tài
nguyên du lịch để đem lại lợi ích kinh tế mà còn phải bảo đảm sự thân thiện với môi
trường, duy trì và bảo tồn giá trị văn hoá- xã hội của địa phương (Spangenberg, 2000,
2002). Mặt khác để phát triển du lịch bền vững trên cả ba khía cạnh gồm kinh tế, môi
trường và xã hội nếu không có một thể chế tốt để quản lý, kết nối và tạo điều kiện tăng
trưởng thì rất khó để thực hiện được (Eden, Falkheden & Malbert, 2000; Spangenberg,
2002; Spangenberg & Valentin, 1999).
Về mặt nghiên cứu hiện có một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã tìm hiểu
về phát triển du lịch bền vững trên nhiều khía cạnh như:
Về nghiên cứu nước ngoài, phát triển du lịch bền vững phải bao gồm tối thiểu
hoá chi phí và tối đa hoá lợi ích về một số mặt như môi trường, kinh tế, xã hội và có sự
tham gia của cộng đồng địa phương (Lindberg & Johnson, 1997; Gursoy & ctg, 2010)
cũng như mang lại sự thoả mãn về kinh nghiệm du lịch của du khách (Choi &

Sirakaya, 2005; Cottrell, Vaske, Shen, & Ritter, 2007; Crotts & Holland, 1993;
Dymond, 1997; Liu, 2003). Khi ngành du lịch tiếp tục phát triển, các nguyên tắc của


3

phát triển du lịch bền vững ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà khai thác du
lịch, khách du lịch và cộng đồng địa phương (Brida & ctg, 2010; Curto, 2006; Gursoy
& Rutherford, 2004). Sự có mặt của cộng đồng địa phương đóng một vai trò hết sức
quan trọng để phát triển du lịch bền vững ( Hanafiah & ctg , 2013). Bên cạnh đó sự hài
lòng của cộng đồng địa phương cũng cần được xem xét đánh giá khi phát triển du lịch
bền vững (Cottrell & Raadik, 2008; Cottrell, Vaske, & Shen, 2007, Cottrell, Vaske,
Shen, & Ritter, 2007; Curto, 2006; Gursoy & Rutherford, 2004; Lindberg & Johnson,
1997; Yuan, James, Hodgson, Hutchinson, & Shi, 2003). Lí thuyết Trao đổi xã hội
được sử dụng để đo lường mức độ tham gia của cộng đồng địa phương trong phát triển
du lịch bền vững (Nunkoo& Ramkissoon, 2011). Mức độ tham gia của của cộng đồng
địa phương phụ thuộc rất nhiều thái độ cũng như sự hài lòng của họ về cả hai mặt lợi
ích nhận được và chi phí bỏ ra (Andereck & ctg, 2005). Phát triển du lịch bền vững
phải dựa trên sự hài lòng của cộng đồng địa phương về mặt lợi ích bao gồm kinh tế,
môi trường, xã hội và thể chế (Cottrell & ctg, 2013).
Về nghiên cứu trong nước, phát triển du lịch bền vững không phải là một việc
dễ dàng đặc biệt khi phải đảm bảo sự dung hoà về môi trường, văn hoá-xã hội và kinh
tế (Vũ Lan Hương, 2016; Phạm Thị Thanh Huyền & Ngô Tuấn Anh, 2017). Thực
trạng về phát triển du lịch theo hướng bền vững tại một số địa phương mới chỉ dừng
lại ở việc đánh giá những gì đã và chưa làm được về mặt môi trường, kinh tế và xã hội
(Nguyễn Xuân Đĩnh, 2017; Trần Tiến Dũng, 2003, 2005, 2007; Mỹ Duyên, 2016)
hoặc chỉ ra vai trò của môi trường với phát triển du lịch bền vững (Trương Văn Đạt,
2015) hay định hướng cho địa phương để có thể phát triển du lịch bền vững (Nhâm
Hiền, 2017). Phát triển du lịch bền vững phải phụ thuộc vào thái độ của cộng đồng địa
phương nhận thức về lợi ích mà họ nhận được gồm lợi ích về mặt kinh tế, môi trường,

xã hội (Lê Chí Công & ctg, 2016, 2017).
Tuy đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về phát triển du lịch bền vững
nhưng ít đề cập đến vai trò của cộng đồng địa phương trên khía cạnh sự hài lòng của
cộng đồng địa phương với các lợi ích mà họ có thể nhận về mặt kinh tế, môi trường ,xã
hội đặc biệt là thể chế. Đây chính là động lực thôi thúc tác giả thực hiện nghiên cứu


4

"Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của cư dân khi tham gia phát triển du lịch
huyện Long Điền theo hướng bền vững" với mong muốn có một cái nhìn toàn diện
nhất về những yếu tố có thể ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững dựa trên sự hài
lòng của cộng đồng địa phương, từ đó sẽ đưa ra các giải pháp cũng như khuyến nghị
để góp phần đưa du lịch của huyện Long Điền phát triển một cách bền vững.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào các mục tiêu chính sau:
+ Phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch ở huyện Long Điền trong
những năm qua.
+ Xác định và đánh giá các yếu tố tác động đến sự hài lòng của cư dân khi tham
gia phát triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền vững, đặc biệt là thể chế.
+ Đề xuất hàm ý chính sách nhằm góp phần thúc đẩy du lịch huyện Long Điền
phát triển theo hướng bền vững.
Để trả lời cho các mục tiêu trên, câu hỏi nghiên cứu của đề tài gồm:
+ Tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch ở huyện Long Điền trong những năm
qua như thế nào?
+ Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự hài lòng của cư dân khi tham gia phát
triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền vững.
+ Những hàm ý chính sách nào là cần thiết để thúc đẩy phát triển du lịch huyện
Long Điền theo hướng bền vững.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của cư dân khi
tham gia phát triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền vững.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung giới hạn ở huyện Long Điền
Đối tượng khảo sát là người dân huyện Long Điền có tham gia vào các hoạt
động liên quan đến du lịch tại địa phương.
Thời gian tiến hành điều tra, phỏng vấn từ ngày 05/8/2017 đến 10/09/2017.


5

1.4 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng bảng khảo sát với các câu hỏi mở
trên 6 cán bộ huyện Long Điền, 6 doanh nghiệp có kinh doanh du lịch tại huyện Long
Điền và trên 10 người dân địa phương có tham gia các hoạt động liên quan đến du lịch
để thảo luận về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của cư dân khi tham gia phát
triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền vững. Sau khi thảo luận tác giả sẽ thực
hiện việc hiệu chỉnh các câu hỏi sao cho phù hợp hơn dựa trên góp ý của cán bộ,
doanh nghiệp và người dân địa phương.
Nghiên cứu định lượng chính thức sẽ được thực hiện sau khi nghiên cứu định
tính đã cho kết quả khẳng định rằng các câu hỏi cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự
hài lòng của cư dân khi tham gia phát triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền
vững là phù hợp và được sự đồng thuận cao của những người tham gia thảo luận.
Nghiên cứu định lượng được tiến hành bằng cách khảo sát trực tiếp thông qua việc
phát bảng hỏi đến các người dân địa phương có tham gia vào các hoạt động du lịch tại
địa phương theo cỡ mẫu tuân theo các tiêu chí chọn mẫu. Dữ liệu sau khi được mã hoá
sẽ sử dụng các phần mềm thống kê như SPSS và Stata để phân tích kết quả nghiên cứu
với các phân tích chính bao gồm thống kê mô tả, kiểm định độ tin cậy của thang đo
bằng hệ số Cronbach's Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, CFA. Cuối cùng kết
quả chính của nghiên cứu sẽ dựa trên kết quả mô hình cấu trúc SEM về các yếu tố ảnh
hưởng đến sự hài lòng của cư dân khi tham gia phát triển du lịch huyện Long Điền

theo hướng bền vững để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này.
1.5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Kết quả của nghiên cứu này sẽ là cơ sở khoa học để khuyến nghị cho huyện
Long Điền trong việc định hướng phát triển du lịch bền vững dựa trên lợi ích của cộng
đồng địa phương không chỉ về mặt kinh tế, môi trường, xã hội mà còn tạo ra một thể
chế phù hợp hơn cho ngành du lịch của huyện Long Điền.


6

1.6 Kết cấu của Luận văn
Luận văn có cấu trúc gồm 5 chương chính:
Chương 1. Tổng quan về nghiên cứu. Tác giả trình bày về những lý do chính
cần để phát triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền vững dựa trên định hướng
phát triển của ngành du lịch cũng như của Chính phủ. Từ đây đưa ra mục tiêu nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết cấu của chủ đề
nghiên cứu
Chương 2. Tổng quan cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu đi trước. Chương
này tác giả tập trung trình bày các cơ sở lý thuyết của phát triển bền vững nói chung và
phát triển du lịch bền vững nói riêng. Bên cạnh đó, tác giả sẽ đưa ra những nghiên cứu
sẽ được kế thừa trong và ngoài nước từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu của mình.
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu. Nội dung chính của chương sẽ trình bày
phương pháp thu thập dữ liệu, mã hoá và kiểm định độ tin cậy các thang đo trong mô
hình nghiên cứu bằng hệ số tin cậy Cronbach's Alpha, EFA, CFA. Để đánh giá mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố đến phát triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền
vững dựa trên sự hài lòng của cộng đồng địa phương, mô hình cấu trúc tuyến tính
SEM sẽ được trình bày.
Chương 4. Kết quả nghiên cứu. Tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của
các yếu tố đến phát triển du lịch huyện Long Điền theo hướng bền vững dựa trên sự
hài lòng của cộng đồng địa phương với mô hình sử dụng cho việc phân tích là mô hình

cấu trúc tuyến tính SEM.
Chương 5. Kết luận và khuyến nghị chính sách. Dựa vào kết quả nghiên cứu
trong chương 4, tác giả sẽ đưa ra kiến nghị và một số giải pháp giúp cho việc phát triển
du lịch của huyện Long Điền theo hướng bền vững đạt được sự hài lòng của cộng
đồng địa phương trên các lợi ích về mặt kinh tế, môi trường, xã hội và một thể chế
thích hợp.


7

Tóm tắt Chương 1
Trong chương này tác giả đã giới thiệu lý do thực hiện nghiên cứu dựa trên tình
hình phát triển du lịch của huyện Long Điền và lỗ hổng của các nghiên cứu đi trước.
Từ đó tác giả đã đưa mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp của nghiên cứu
cũng như ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu.


8

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU ĐI TRƯỚC
Chương này tác giả tập trung giới thiệu các khái niệm, lý thuyết liên quan đến
phát triển bền vững, du lịch bền vững, phát triển du lịch, phát triển du lịch bền vững.
Bên cạnh đó, tác giả cũng giới thiệu các nghiên cứu đi trước, từ đó đưa ra mô hình
nghiên cứu và các giả thuyết cần nghiên cứu về phát triển du lịch của huyện Long
Điền theo hướng bền vững.
2.1 Các khái niệm
2.1.1 Khái niệm về phát triển bền vững
Không có một khái niệm chung về PTBV (Valentin & Spangenberg, 2000) vì
thế trong nghiên cứu của mình tác giả đưa ra một số khái niệm cụ thể như sau:

Theo báo cáo của Ủy ban Thế giới về Phát triển và Môi trường (Ủy ban
Brundtland, 1987) cho rằng PTBV là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của thế
hệ tương lai.
Hội nghị thượng đỉnh Trái đất năm 1992 tại Rio de Janeiro, Brazil đã mở rộng
về khái niệm PTBV bằng cách tạo ra các nguyên tắc cho PTBV (Cottrell, van der
Duim, Ankersmid, & Kelder, 2004) là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển, đó là sự phát triển kinh tế (tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội (tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết
việc làm) và bảo vệ môi trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất
lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Năm 2002 quan niệm đầy đủ về PTBV được Liên hiệp quốc đưa ra tại Hội nghị
thượng đỉnh (WSSD) về PTBV họp tại Johannesburg (Nam Phi) khẳng định PTBV là
quá trình phát triển bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định trong mối quan hệ với thực
hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên,
bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.


9

Theo Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của
Việt Nam) đã đưa ra mục tiêu tổng quát của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất,
sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận
của xã hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát
triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và
cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý
và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).

Trong thực tế, PTBV là một khái niệm động và đó là một quá trình mà sự hiểu
biết của người dân thay đổi song song với sự phát triển của xã hội. Trong giai đoạn
đầu, PTBV tập trung chủ yếu vào các vấn đề về môi trường và kinh tế. Theo thời gian,
ngày càng nhiều nhà nghiên cứu nhận ra rằng tiến bộ, công bằng xã hội, xoá đói giảm
nghèo và trao quyền cho cộng đồng địa phương (thể chế) là cốt lõi của sự phát triển
bền vững (Ahn, Lee, & Shafer, 2002; Dymond, 1997).
2.1.2 Khái niệm về phát triển du lịch bền vững
PTBV đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, cụ thể là trong lĩnh vực du lịch
với định hướng du lịch nên được phát triển theo cách có lợi cho cộng đồng địa
phương, tăng cường phát triển kinh tế địa phương, sử dụng được lực lượng lao động,
nông sản và các kỹ năng truyền thống địa phương. Các cơ chế bao gồm chính sách và
pháp luật cần được quy định cụ thể để đảm bảo lợi ích của cộng đồng địa phương (Hội
nghị quốc tế của các Bộ trưởng môi trường về đa dạng sinh học và du lịch, 1997).
PTDLBV là một trong những thành phần của phát triển du lịch và nó tạo ra
những đóng góp đáng kể hoặc ít hoặc phủ nhận sự duy trì các nguyên tắc của sự phát
triển trong một thời kỳ nhất định mà không tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu
và mong muốn của thế hệ tương lai (Tossun, 1998). Ở một khía cạnh cụ thể hơn,
PTDLBV đòi hỏi sự quan tâm của các bên có liên quan đến việc quản lý các nguồn tài
nguyên theo các cách thức khác nhau nhằm khai thác và cung cấp các sản phẩm du
lịch đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, đa


10

dạng hệ sinh thái và bảo đảm sự sống cho thế hệ mai sau (Hens, 1998). PTDLBV là
quá trình phát triển các sản phẩm du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách
du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương mà không ảnh hưởng đến khả năng
đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai (Machado, 2003), đồng thời là việc phát triển các
hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và cộng đồng
địa phương trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên

cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. PTDLBV sẽ có kế hoạch quản lý
nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn nhu cầu về kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người
trong khi đó vẫn duy trì được toàn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, phát triển các hệ
sinh thái và hệ thống hỗ trợ cuộc sống của con người (UNWTO, 2016).
2.1.3 Khái niệm về Thể chế
Theo Đào Hồng Minh (2013) nội dung thể chế thường được hiểu theo hai cách
như sau:
Theo cách hiểu thứ nhất, thể chế là tập hợp những quy tắc chính thức, các quy
định không chính thức hay những nhận thức chung có tác động kìm hãm, định hướng
hoặc chi phối sự tương tác của các chủ thể chính trị với nhau trong những lĩnh vực
nhất định. Các thể chế được tạo ra và đảm bảo thực hiện bởi cả nhà nước và các tác
nhân phi nhà nước (như các tổ chức nghề nghiệp hoặc các cơ quan kiểm định).
Các quy tắc chi phối sự tương tác giữa các cá nhân hay tổ chức có thể mang
tính chính thức hoặc không chính thức. Các quy tắc chính thức bao gồm hiến pháp, các
bộ luật, điều luật, hiến chương, văn bản dưới luật… Trong khi đó các quy tắc không
chính thức có vai trò mở rộng, chi tiết hóa hoặc chỉnh sửa các quy tắc chính thức và
điều chỉnh hành vi của các chủ thể thông qua các chuẩn tắc xã hội (truyền thống, tập
quán, những điều cấm kỵ…) hay các quy tắc ửng xử nội bộ. Vai trò của các thể chế thể
hiện ở chỗ chúng tạo nên một khuôn khổ mà ở đó hành động của các chủ thể trở nên
dễ đoán trước hơn, cho phép các chủ thể thiết lập các kỳ vọng và giảm thiểu các rủi ro
trong quá trình tương tác với nhau.
Theo cách hiểu thứ hai, thể chế là một cơ quan, tổ chức công với các cơ cấu và
chức năng được định sẵn một cách chính thức nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động


11

nhất định áp dụng chung cho toàn bộ dân cư. Đối với một quốc gia, thể chế chính trị
bao gồm chính phủ, quốc hội và các cơ quan tư pháp. Mối quan hệ giữa các thể chế
này được quy định bởi Hiến pháp.

Theo định nghĩa của Douglas North, thể chế là những luật lệ của cuộc chơi
trong xã hội (rules of the game). Nói chính xác hơn, đó là những ràng buộc do con
người tạo ra để để điều chỉnh và định hình các tương tác của mình. Vai trò chính của
thể chế trong một xã hội là làm giảm tính bất trắc bằng cách cung cấp một cấu trúc cho
hoạt động trong đời sống hàng ngày. Thể chế còn hướng dẫn sự tương tác giữa con
người với người, khi chúng ta muốn chào bạn bè trên đường phố, lái xe, mua cam,
mượn tiền, mở doanh nghiệp, chôn cất một người quá cố... Như vậy, cùng một giao
dịch nhưng được thực hiện ở các nơi khác nhau sẽ phải theo những luật lệ khác nhau.
Theo cách tiếp cận này, thể chế xác định và giới hạn tập hợp các lựa chọn của cá nhân.
Ba cấu thành quan trọng của hệ thống thể chế gồm có thể chế chính thức (thành
văn, như luật lệ), thể chế phi chính thức (bất thành văn, như tục lệ và các quy tắc xử
thế), và các cơ chế, biện pháp chế tài. Thể chế do con người sáng tạo, các ràng buộc
thể chế có thể bao gồm cả những điều cấm kỵ con người làm, những điều con người có
thể làm, hay nên làm. Theo cách này, thể chế là cái khung mà con người phải tuân theo
khi tương tác với nhau. Không thể phủ nhận thực tế là thể chế không ngừng thay đổi,
từ những tục lệ, quy tắc đạo đức, cho tới luật thành văn, hợp đồng giữa các cá nhân.
Đối với North, theo cách tiếp cận vi mô, sự thay đổi thể chế dần dần là do các tổ chức
chính trị và kinh tế nhận thức rằng họ có thể làm tốt hơn bằng cách thay đổi khung thể
chế hiện tại bằng cách nào đó. Nếu thị trường chính trị và kinh tế là hiệu quả, có nghĩa
là không có chi phí giao dịch, thì mọi lựa chọn sẽ luôn hiệu quả. Nhưng các tác nhân
luôn phải hành động dựa trên những thông tin đầy đủ, lựa chọn của họ không phải lúc
nào cũng hiệu quả.
2.2 Cơ sở lý thuyết
2.2.1 Lý thuyết Phát triển bền vững
Theo Ủy ban Liên hiệp quốc về phát triển bền vững (UNDPCSD, 1996a,
1996b) thì PTBV đi từ giả thuyết rằng loài người không tôn trọng, bảo toàn môi


12


trường- môi sinh, thiên nhiên bị hư hại, hệ sinh thái mất cân bằng, di sản môi trườngmôi sinh suy thoái khiến loài người bị đe doạ, tình trạng đói nghèo trên thế giới
nghiêm trọng, chênh lệch giàu nghèo giữa các nước gia tăng, tài nguyên thiên sút giảm
và thiếu hụt. Vấn đề đặt ra là làm sao thoả mãn các yêu cầu cơ bản của con người, bảo
đảm tương lai và an sinh cho các thế hệ sau và đồng thời bảo toàn môi trường- môi
sinh. Phương cách để giải quyết các vấn đề này là PTBV, phát triển tổng hợp, toàn
diện về tất cả các phương diện môi trường, kinh tế, xã hội và thể chế bởi vì không thể
có bền vững về môi trường - môi sinh nếu không có một thể chế phù hợp để bảo vệ hệ
sinh thái. Cũng không thể có công bằng xã hội nếu không bảo đảm được sự bền vững
và cân bằng sinh thái cần thiết để đảm bảo loài người sẽ tồn tại. Và cũng không thể
chăm lo tăng trưởng kinh tế nếu sự tăng trưởng này làm hư hại môi trường- môi sinh,
gây tác hại đến thiên nhiên mà hậu quả là có thể đưa con người tới thảm hoạ. PTBV
bác bỏ các quan niệm thị trường tự điều hoà và quan niệm nhu cầu con người mênh
mông, không bao giờ hết, không cần định chừng mực. PTBV chống khuynh hướng
tiêu dùng không giới hạn và chủ trương loài người phải xét lại các quan niệm và các
chuẩn mực về an sinh, phúc lợi và chất lượng cuộc sống. Một mặt cần giảm kìm giữ
việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường và phá hủy môi
sinh, giảm thiểu rác thải. Mặt khác, số dân đói nghèo trên thế giới có yêu cầu gia tăng
tiêu dùng và sản xuất để thoả mãn các yêu cầu căn bản, bảo vệ và nâng cao nhân
phẩm. PTBV nhận định rằng quan hệ không cân bằng, không bình đẳng trên thế giới
và mô hình toàn cầu hoá kiểu tân tự do là một mối đe doạ cần phòng chống. PTBV
nhằm thoả mãn các yêu cầu căn bản của con người là lương thực, nước sạch, an sinh,
phúc lợi, quyền phát biểu, quyền tham gia,... và nhiều yêu cầu tinh thần và vật chất
khác. PTBV thừa nhận tăng trưởng kinh tế có tính cần thiết nhưng cũng xác nhận tăng
trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần (không phải là điều kiện đủ) cho phát triển. Kinh tế
và xã hội phải hoà hợp, bổ sung thành một thể thống nhất. Nhu cầu con người phải
được đáp ứng, hàng hoá và dịch vụ phải được cung cấp và phân phối trong sự công
bằng. PTBV chủ trương can thiệp vào kinh tế- xã hội để thống nhất các chính sách
hoặc đường lối để thực hiện những thay đổi mong muốn, tạo điều kiện cho con người



13

tiến bộ. PTBV thừa nhận mỗi xã hội, mỗi dân tộc có yêu cầu và lý do để định hướng
phát triển và chọn lựa phương thức hành động riêng biệt. Mục tiêu cuối cùng của
PTBV là thoả mãn yêu cầu căn bản của con người, cải thiện cuộc sống của tất cả mọi
người song song với việc bảo toàn, quản lý hiệu quả hệ sinh thái, đảm bảo tương lai ổn
định.
2.2.2 Lý thuyết Du lịch bền vững & Phát triển du lịch bền vững
Theo Điều 4 mục 18 của Luật Du lịch năm 2006 đã nêu rõ DLBV là sự phát
triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai. Trong bộ công cụ du lịch có trách nhiệm tại
Việt Nam xuất bản tháng 8 năm 2013 đã chỉ rõ DLBV được xem là phương thức tốt
nhất để Chính phủ có thể đảm bảo phát triển du lịch mà không phải đánh đổi lợi ích
lâu dài của người dân địa phương, văn hoá và môi trường. DLBV có thể đáp ứng tất cả
kỳ vọng của Chính phủ về du lịch vì nó đáp ứng được cả ba mục tiêu: phát triển kinh
tế, bảo tồn văn hoá địa phương và bảo vệ môi trường. Tiếp cận gần hơn với các mục
tiêu này là giải pháp mang tính khả thi đối với một quốc gia hay điểm đến nhằm đảm
bảo an toàn cho những nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hoá hữu hạn. Một khi
những nguồn tài nguyên đó mất đi hoặc không còn nguyên vẹn thì sẽ vô cùng khó
khăn để khôi phục và thay thế. Tuân thủ các nguyên tắc của DLBV sẽ tạo ra một
hướng đi tiềm năng vì một tương lai bền vững hơn cho những người lập chính sách và
quy hoạch du lịch.
Đến năm 2017 thì Luật Du lịch bổ sung rõ phương hướng để phát triển du lịch
theo hướng bền vững được quy định tại Điều 3, mục 14 chỉ ra PTDLBV là sự phát
triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm
hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai. Trong đó vai trò của các chủ thể tham
gia hoạt động du lịch đặc biệt là cư dân tại địa phương là quan trọng nhất, sự hài lòng
của họ về các lợi ích nhận được từ việc tham gia du lịch bền vững bao gồm lợi ích về
kinh tế, văn hoá- xã hội, môi trường cũng như có sự hỗ trợ từ các cơ quan ban ngành

có liên quan sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tham gia của cư dân. Một thể chế phù hợp


14

từ các ban ngành sẽ giúp cư dân cũng như cộng đồng địa phương thuận lợi hơn trong
việc tham gia cũng như hiểu rõ hơn về các lợi ích mà họ nhận được. Từ đó giúp cộng
đồng địa phương phát triển du lịch không chỉ vì mục đích chạy theo lợi ích kinh tế mà
sẽ cố gắng để phát triển du lịch tại huyện Long Điền hài hoà với các lợi ích về văn
hoá- xã hội và môi trường. Như vậy PTDLBV là sự phát triển trên cả ba khía cạnh
gồm:
Về kinh tế: PTDLBV thúc đẩy những lợi ích kinh tế dài hạn và có thể thực
hiện được cho tất cả các đối tượng hưởng lợi một cách công bằng. Bên cạnh đó bảo
đảm cho những hoạt động kinh tế sống động lâu dài, tạo nên sự thịnh vượng cho tất cả
mọi tầng lớp xã hội và đạt được hiệu quả giá trị cho tất cả mọi hoạt động kinh tế.
Về văn hoá xã hội: PTDLBV dẫn đến việc sử dụng tối ưu các nguồn tài
nguyên tự nhiên và văn hoá nhưng vẫn bảo tồn và tôn trọng bản sắc văn hóa – xã hội
của cộng đồng ở các điểm đến; bảo tồn di sản văn hóa và những giá trị truyền thống
trong cuộc sống của họ; tham gia vào quá trình hiểu biết và chấp thuận các nền văn
hóa khác; đem lại lợi ích xã hội cho tất cả mọi thành viên, bao gồm những người có
thu nhập thấp và góp phần vào việc giảm nghèo tại địa phương.
Về môi trường: PTDLBV tạo ra những điểm đến hấp dẫn về môi trường, thu
hút một luồng khách du lịch ổn định hơn, thêm vào đó nó giúp tăng trưởng nền kinh tế
địa phương và tạo nên một xã hội hạnh phúc hơn. PTDLBV giúp việc sử dụng tài
nguyên môi trường một cách tối ưu để những tài nguyên này trở thành một yếu tố quan
trọng trong phát triển du lịch, duy trì những quá trình sinh thái thiết yếu và hỗ trợ cho
việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học.
Để có thể đạt được cả ba mục tiêu này trong PTDLBV đòi hỏi các doanh nghiệp
du lịch cần tôn trọng, có sự hỗ trợ tích cực cho cộng đồng và môi trường địa phương.
Bên cạnh đó vai trò của Chính phủ đặc biệt là chính quyền địa phương của điểm đến

được xem là như là một cầu nối quan trọng để giúp các mục tiêu trên của DLBV có thể
đạt được, các vai trò này bao gồm:
Điều phối các hoạt động ngành: Chính phủ hay chính quyền địa phương của
điểm đến được yêu cầu hỗ trợ điều phối doanh nghiệp thuộc khối tư nhân trong các


15

hoạt động chung của họ nhằm giảm thiểu những nguy cơ tiềm ẩn đối với nền kinh tế,
xã hội và môi trường đồng thời phát huy tối đã những tác động tích cực.
Quản lý tài nguyên: Các vấn đề trong PTBV như nguồn nước, không khí, các
di sản tự nhiên, văn hóa và chất lượng cuộc sống vượt ra ngoài trách nhiệm của cá
nhân trong khối doanh nghiệp tư nhân và theo lẽ thông thường, việc quản lý tài nguyên
tự nhiên thuộc trách nhiệm, sự lãnh đạo của Chính phủ hay chính quyền địa phương
của điểm đến trong việc thúc đẩy phát triển du lịch.
Đưa ra tiêu chuẩn và xây dựng năng lực: Rất nhiều doanh nghiệp du lịch có
hiểu biết hạn chế về những ảnh hưởng rộng rãi từ những hoạt động của họ đối với nền
kinh tế, xã hội và môi trường. Chính phủ hay chính quyền địa phương của điểm đến
đóng vai trò chủ yếu trong việc thiết lập những tiêu chuẩn, nâng cao nhận thức và năng
lực nhằm tạo ra những thay đổi tích cực theo xu hướng tốt hơn trong thực tế.
Thực thi pháp luật: Quy hoạch sử dụng đất, các quy định về lao động và môi
trường, việc cung cấp cơ sở hạ tầng và các dịch vụ môi trường, dịch vụ xã hội đều
thuộc về trách nhiệm của chính phủ hay chính quyền địa phương của điểm đến và là
nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch bền vững.
Lãnh đạo và xúc tiến các hoạt động bền vững: Chính phủ hay chính quyền
địa phương của điểm đến cần đảm nhận vai trò lãnh đạo trong việc khuyến khích du
khách nhận thức rõ hơn về tác động từ những hoạt động của chính họ.
PTDLBV không thể tách rời quyền lợi của cộng đồng dân cư hay rộng hơn là
sự tham gia của cộng đồng trong PTDLBV là một điều kiện quan trọng để đảm bảo sự
phát triển đó không đi ngược lại với mục tiêu của PTDLBV. Theo Điều 7 của Luật Du

lịch năm 2017 đã nêu rõ cộng đồng dân cư có quyền tham gia và hưởng lợi ích hợp
pháp từ hoạt động du lịch; có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch, bản sắc văn hoá
địa phương; giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường để tạo sự hấp
dẫn du lịch. Cộng đồng dân cư được tạo điều kiện để đầu tư phát triển du lịch, khôi
phục và phát huy các loại hình văn hoá, nghệ thuật dân gian, ngành, nghề thủ công
truyền thống; sản xuất hàng hoá của địa phương phục vụ khách du lịch, góp phần nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương.


16

Vai trò của cộng đồng dân cư đối với sự phát triển của du lịch rất quan trọng,
cách thức mà cộng đồng cư dân tham gia vào các hoạt động du lịch sẽ có vai trò quyết
định tới sự bền vững của quá trình phát triển. Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong
việc tạo ra các sản phẩm du lịch có nét đặc thù của địa phương, đi đôi với bảo vệ môi
trường du lịch là hết sức quan trọng, không những có tác dụng to lớn trong việc giáo
dục du khách mà còn góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức của chính họ trong việc
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Đây là một trong những yếu tố có ý
nghĩa quyết định đảm bảo sự PTDLBV, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh du
lịch, góp phần thực hiện công tác giảm nghèo, giảm bớt các tệ nạn xã hội tại địa
phương. Đặc biệt trong ngành du lịch, môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động du lịch
và ngược lại, phát triển du lịch cũng có tác động lớn đến môi trường.
PTDLBV với sự tham gia và đóng góp của tất cả các bên liên quan: các nhà
quản lý, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, khách du lịch và cộng đồng dân cư địa
phương. Để thu hút được sự tham gia của cộng đồng dân cư, cơ quan quản lý nhà nước
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật và thông tin về các đường lối, chính sách phát triển du lịch; xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện quy định pháp luật trong hoạt động du lịch, cộng đồng sẽ
nhận thức một cách sâu sắc về sự cần thiết phải PTDLBV, đảm bảo chia sẻ lợi ích từ
PTDLBV.

2.2.3 Lý thuyết Trao đổi xã hội
Theo Blau (1964) các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi các giá
trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay danh dự. Những người trao
nhiều cho người khác có xu hướng được nhận lại nhiều lần, những người nhận nhiều
từ người khác sẽ cảm thấy có sự tác động, hay áp lực từ phía họ. Chính tác động của
áp lực này giúp cho những người cho nhiều có thể được nhận lại nhiều từ phía những
người mà họ đã được trao nhiều. Người ta gọi đó là sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích.
Có 4 nguyên tắc tương tác trong trao đổi xã hội như sau:
+ Nếu một hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng lặp lại.


17

+ Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu
hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh tương tự.
+ Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều chi
phí vật chất và tinh thần để đạt được nó.
+ Khi nhu cầu của các cá nhân gần như hoàn toàn được thoả mãn thì họ ít cố
gắng hơn trong việc nỗ lực tìm kiếm chúng.
2.3 Tổng quan các nghiên cứu đi trước
2.3.1 Các nghiên cứu trong nước
Theo nghiên cứu của Trần Tiến Dũng (2003, 2005, 2007) về PTDLBV ở Phong
Nha - Kẻ Bàng đã cho thấy thực trạng phát triển du lịch của Phong Nha - Kẻ Bàng còn
khá nhiều bất cập và hạn chế khi mà các sản phầm du lịch còn ít, thời gian lưu trú của
khách quá thấp, việc di chuyển của khách du lịch khá mất thời gian, cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ du lịch chất lượng chưa thật cao. Du lịch còn mang tính mùa vụ, bộ máy
quản lý, kinh doanh du lịch còn rất chồng chéo, chưa tách bạch công tác quản lý Nhà
nước về du lịch và hoạt động du lịch. Lực lượng lao động tại địa phương tham gia vào
du lịch có trình độ không cao, chưa được qua đào tạo về nghiệp vụ du lịch, vai trò của
các ban ngành chưa được thể hiện một cách rõ rệt trong việc định hướng cho cộng

đồng địa phương về các lợi ích mà họ nhận được khi tham gia.
Nghiên cứu Phạm Hồng Long (2012) về ảnh hưởng của du lịch và hỗ trợ phát
triển du lịch ở Vịnh Hạ Long, Việt Nam: kiểm tra nhận thức của người dân đã cho thấy
đa số người dân đều mong muốn hỗ trợ cho du lịch phát triển. Họ đều cho rằng du lịch
mang lợi ích kinh tế và góp phần bảo tồn văn hoá xã hội cho Vịnh Hạ Long. Tuy nhiên
họ cũng đều đồng ý rằng du lịch cũng đang gây ra tác động tiêu cực đến môi trường
khi mức độ ô nhiễm ngày càng tăng. Bên cạnh đó những người được hỏi ủng hộ phát
triển du lịch bền vững, nhưng họ quan tâm nhiều đến vai trò của Chính phủ và cộng
đồng địa phương trong việc kiểm soát và hỗ trợ du lịch bởi họ không biết hoặc không
nắm rõ cũng như được tạo điều kiện thuận lợi nhất khi tham gia PTDLBV. Điều này
vô tình gây cản trở không nhỏ về sự tham gia của cộng đồng và các lợi ích mà người
dân có thể nhận được mới chỉ tạm dừng lại ở khía cạnh kinh tế, văn hoá- xã hội


18

Nghiên cứu của Trương Văn Đạt (2015) về BVMT để PTDLBV đã chỉ ra du
lịch là một trong những ngành có đóng góp lớn cho phát triển kinh tế Việt Nam. Tuy
nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động du lịch đã gây ra những hệ lụy đến
môi trường. Giải pháp đề ra để hướng tới PTDLBV, mỗi người dân, doanh nghiệp,
chính quyền địa phương nơi có hoạt động du lịch cần nâng cao ý thức BVMT; Hoàn
thiện công tác quy hoạch BVMT; Đầu tư, nâng cấp công cụ, thiết bị nhằm BVMT
trong hoạt động du lịch thông qua các hoạt động tuyên truyền, vận động người dân, du
khách tham gia BVMT; Xây dựng mô hình Nhà nước và cộng đồng tham gia BVMT,
điển hình như Thành phố Hạ Long, Đà Nẵng được công nhận danh hiệu Thành phố
bền vững về môi trường.
Nghiên cứu của Mỹ Duyên (2016) về PTDLBV ở Núi Cấm, tỉnh An Giang đã
chỉ ra hoạt động du lịch ở núi Cấm đã đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế địa
phương, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thời gian qua. Các hộ
gia đình sống dưới chân núi và các tuyến đường lên núi đã tham gia vào các hoạt động

phục vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, bán quà lưu niệm... cho du khách. Tuy nhiên
nguồn lực tham gia vào hoạt động du lịch hạn chế về số lượng lẫn chất lượng. Nhận
thức của người dân về quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia hoạt động du lịch chưa
có chuyển biến sâu sắc. Sự trải nghiệm, khám phá văn hóa của du khách vẫn mờ nhạt.
Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch chưa hoàn thiện và chưa đáp
ứng tốt nhu cầu của du khách.
Nghiên cứu của Vũ Lan Hương (2016) về PTDLBV tỉnh Hoà Bình đã chỉ ra
tỉnh Hoà Bình có đủ các điều kiện về môi trường, văn hoá, xã hội cũng như có sự tham
gia của cộng đồng dân cư thuận lợi cho PTDLBV. Còn nghiên cứu của Phạm Thị
Thanh Huyền & Ngô Tuấn Anh (2017) đánh giá về PTDLBV của Hà Nội cho thấy Hà
Nội có những lợi thế sẵn có về tự nhiên, văn hoá, lịch sử để PTDLBV. Tuy nhiên
PTDLBV tại Hà Nội vẫn còn rất nhiều bất cập khi mà lượng khách du lịch tăng nhưng
tổng thu về du lịch lại thấp. Bên cạnh đó các cơ sở lưu trú, sản phẩm dịch vụ phục vụ
du lịch còn nhiều hạn chế không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịnh.


19

Theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Đĩnh (2017) về PTDLBV tại tỉnh Thái bình
đã chỉ ra tỉnh Thái Bình có nhiều tiềm năng để PTDLBV nhưng hiện tại du lịch ở tỉnh
Thái Bình vẫn đang gặp nhiều thách thức lớn như: Hoạt động du lịch còn manh mún,
tạm thời, dịch vụ còn nhiều bất cập, chưa có sản phẩm du lịch đặt trưng, giao thông
chưa thuận lợi. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nhâm Hiền (2017) về Đà Nẵng hướng tới
PTDLBV đã cho thấy du lịch mặc dù mang lại lợi ích về mặt kinh tế nhưng lại gây ảnh
hưởng tiêu cực đến môi trường, thiên nhiên. Giải pháp cho các vấn đề này là phát triển
du lịch Đà Nẵng theo hướng bền vững về đảm bảo lợi ích về cả kinh tế, xã hội và môi
trường. Nghiên cứu của Lê Chí Công & Hồ Huy Tựu (2017) về ảnh hưởng của nhận
thức lợi ích đến thái độ và hành vi của cộng đồng địa phương tham gia chương trình
PTDLBV tại khu vực duyên hải Nam Trung Bộ sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính
SEM đã chỉ ra thái độ của cộng đồng địa phương đối với chương trình PTDLBV đóng

vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa nhận thức lợi ích với ý định hành vi.
2.3.2 Các nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu của Chen & Chen (2010) về thái độ của cộng đồng địa phương với
PTDLBV sử dụng mô hình cấu trúc SEM đã cho thấy PTDLBV là một cách hiệu quả
để phục hồi nền kinh tế của một điểm đến cho dù đó là nông thôn hay thành thị. Vai
trò của cộng đồng địa phương tác động tích cực đến sự PTDLBV cũng như hỗ trợ cho
việc PTDLBV. Còn nghiên cứu của Andriotis (2004) về tác động của nhận thức trong
cộng đồng địa phương với PTDLBV và Yoon, Gursoy, & Chen (2001) về việc thừa
nhận lý thuyết phát triển du lịch cùng sử dụng mô hình cấu trúc SEM đã chỉ ra rằng sự
phát triển của ngành du lịch phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí, sự tham gia và hỗ trợ
của người dân địa phương. Du lịch, do đó, nên được phát triển theo nhu cầu và mong
muốn của người dân địa phương. Sự hiểu biết của người dân địa phương về nhận thức
của du lịch và thái độ của họ đối với phát triển du lịch là nền tảng cho sự thành công
và bền vững của bất kỳ loại hình phát triển du lịch nào (Gursoy, Chi, & Dyer, 2009;
Yoon và ctg, 2001). Theo nghiên cứu của Lee, Li, & Kim (2007) về nhận thức và thái
độ của cộng đồng địa phương đối với du lịch tại một thành phố lịch sử đã cho kết quả
là việc phát triển du lịch mà không có quy hoạch và hội nhập phù hợp với giá trị và


20

môi trường địa phương có thể gây ra thiệt hại về văn hóa, môi trường và kinh tế cho
người dân. Hội nghị quốc tế của các Bộ trưởng môi trường về đa dạng sinh học và du
lịch (1997) đã nêu rõ các hoạt động du lịch và thu hút du lịch cần được phát triển, có
tính đến tác động đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Phối hợp nỗ lực của Chính phủ,
khu vực tư nhân và tất cả các bên liên quan khác cần được thực hiện để thống nhất các
tiêu chí đo lường và đánh giá tác động của du lịch đối với thiên nhiên và đa dạng sinh
học.
Theo nghiên cứu của Lindberg & Johnson (1997) về mô hình nhận thức của
cộng đồng địa phương đối với du lịch sử dụng mô hình cấu trúc SEM đã cho kết quả là

PTDLBV bao gồm tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi ích về mặt môi trường, kinh
tế, xã hội. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Cottrell, Vaske, Shen, & Ritter (2007) về đo
lường tính bền vững của du lịch ở Manuel Antonio và Texel sử dụng mô hình cấu trúc
SEM chỉ ra yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng nhất trong việc đo lường tính
bền vững của du lịch, tiếp theo sau đó là yếu tố kinh tế, văn hoá và xã hội. Mặt khác
nhận thức của du khách về PTDLBV theo thời gian đã làm thay đổi sở thích du lịch
của họ.
Theo nghiên cứu của Gursoy, D., & Rutherford, D. G. (2004) về thái độ của
cộng đồng địa phương hướng đến du lịch sử dụng mô hình cấu trúc SEM đã cho thấy
sự ủng hộ của cộng đồng địa phương đến phát triển du lịch chịu ảnh hưởng không chỉ
bởi lợi ích về mặt kinh tế, văn hoá xã hội, môi trường mà còn chỉ ra mức độ quan tâm
của cộng đồng địa phương đến phát triển du lịch sẽ gia tăng khi các lợi ích trên gia
tăng. Nghiên cứu của Cottrell& ctg (2007) về nhận thức của cộng đồng địa phương về
PTDLBV tại Chongdugou, China sử dụng phân tích phương sai (ANOVA) đã cho kết
quả là sự hài lòng của cộng đồng địa phương chịu ảnh hưởng của bốn khía cạnh trong
PTDLBV gồm thể chế, kinh tế, văn hoá - xã hội và môi trường. Kết quả này cũng xuất
hiện trong kết quả nghiên cứu của Cottrell, Vaske, & Shen (2007) ; Curto (2006);
Gursoy & Rutherford (2004); Lindberg & Johnson (1997); Yuan, James, Hodgson,
Hutchinson, & Shi (2003). Còn nghiên cứu của Sebele (2010) về du lịch cộng đồng:
lợi ích và thách thức tại Khama Rhino Sanctuary Trust, Central District, Botswana đã


21

chỉ ra khi có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ góp phần
bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, gia tăng lợi ích về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường
của địa phương. Quá trình tham gia của cộng đồng địa phương sẽ góp phần quan trọng
để phát triển du lịch theo hướng bền vững của điểm đến. Hơn nữa theo nghiên cứu của
Cottrell & ctg (2013) về mức độ hài lòng của cộng đồng địa phương: trường hợp của
công viên tự nhiên Frankenwald sử dụng mô hình cấu trúc SEM đã cho kết quả là

PTDLBV trên bốn khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế có ảnh hưởng đến
sự hài lòng của cộng đồng địa phương. Khía cạnh kinh tế ảnh hưởng mạnh nhất đến sự
hài lòng của cộng đồng địa phương, kế tiếp là thế chế, xã hội và môi trường.
2.4 Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
2.4.1 Mô hình nghiên cứu
Theo Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam về Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam được ban hành theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ngày 17/8/2004 đã chỉ rõ PTBV trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đặc biệt ưu
tiên PTBV những lĩnh vực có tác động đặc biệt tới môi trường trong đó có du lịch.
Định hướng cũng nêu rõ để phát triển du lịch theo hướng bền vững trên cả ba khía
cạnh trên rất cần huy động sự tham gia rộng rãi của các cấp chính quyền, doanh nghiệp
kinh doanh du lịch và cộng đồng dân cư. Tháng 8 năm 2013 Bộ công cụ du lịch có
trách nhiệm tại Việt Nam do Liên minh Châu Âu tài trợ đã được ban hành có nêu rõ
cốt lõi của du lịch có trách nhiệm là những nguyên tắc của du lịch bền vững mà theo
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc và Tổ chức Du lịch Thế giới, nhằm mục
đích được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Khía cạnh môi trường, cần tận dụng tối ưu các nguồn tài nguyên môi trường
tạo thành một yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch, duy trì quá trình sinh thái
quan trọng và giúp đỡ để bảo tồn di sản thiên nhiên và đa dạng sinh học. Bảo vệ và
quản lý các nguồn tài nguyên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên không thể thay mới và
quý hiếm đối với cuộc sống con người. Hạn chế đến mức độ tối thiểu sự ô nhiễm


22

không khí, đất và nước, và bảo tồn sự đa dạng sinh học và các tài sản thiên nhiên đang
còn tồn tại.
Còn khía cạnh văn hoá xã hội, cần tôn trọng tính xác thực văn hóa xã hội của
cộng đồng địa phương, bảo tồn những công trình, di sản văn hóa sống và những giá trị

truyền thống của họ, và đóng góp sự hiểu biết. Tôn trọng nhân quyền và sự bình đẳng
cho tất cả mọi người trong xã hội. Đòi hỏi phải phân chia lợi ích một cách công bằng,
với trọng tâm là giảm đói nghèo. Chú ý đến những cộng đồng địa phương, duy trì và
tăng cường những hệ thống, những chế độ hỗ trợ đời sống của họ, thừa nhận và tôn
trọng các nền văn hoá khác nhau, và tránh được mọi hình thức bóc lột.
Khía cạnh kinh tế, cần đảm bảo khả thi, lợi ích kinh tế lâu dài cho tất cả các
bên có liên quan được phân phối một cách công bằng, trong đó có việc làm ổn định cơ
hội tạo thu nhập và các dịch vụ xã hội cho địa phương, cùng với đó là góp phần xóa
đói giảm nghèo. Tạo nên sự thịnh vượng cho tất cả mọi tầng lớp xã hội và đạt được
hiệu quả giá trị cho tất cả mọi hoạt động kinh tế. Điều cốt lõi, đó là sức sống và phát
triển của các doanh nghiệp và các hoạt động của các doanh nghiệp đó có thể duy trì
được lâu dài.

Môi trường

Văn hóa xã hội

Kinh tế

Hình 2.1 Ba khía cạnh của Du lịch bền vững


23

Mặc dù vậy DLBV không chỉ là đạt được tính bền vững nó còn đòi hỏi tất cả
chúng ta, từ khách du lịch, các nhà quản lý và nhân viên trong nhà hàng, khách sạn,…
đến các cơ quan quản lý du lịch, cần tham gia tích cực hơn trong việc tạo ra các thay
đổi tích cực qua việc ra quyết định và thực hiện chúng để tối đa hóa lợi ích kinh tế, xã
hội và môi trường và giảm thiểu tác động tiêu cực liên quan. Chìa khóa cho sự thành
công của DLBV trước hết là trách nhiệm của tất cả các bên liên quan. Mỗi một quyết

định mà chúng ta thực hiện hàng ngày có thể có tác động đến con người và môi trường
xung quanh. Để thực hiện du lịch có trách nhiệm yêu cầu chúng ta phải được dẫn dắt
bởi chính lương tâm, đạo đức và pháp luật trong xã hội chúng ta, để đưa ra các quyết
định khi cả nhà cung cấp lẫn người tiêu dùng du lịch sẽ có lợi ích ròng tích cực nhất
đối với con người và môi trường xung quanh. Đây có thể xem là một trong những yếu
tố quan trọng góp phần đảm bảo du lịch được PTBV và được xem là một khía cạnh
thứ tư của du lịch bền vững, được gọi là thể chế.
Điều này thể hiện rõ trong các nghiên cứu của nước ngoài như Ủy ban Liên
hiệp quốc về PTBV (1996a, 1996b); Spangenberg, J. H. (2000) đã nêu rõ PTBV phải
đảm bảo cả bốn khía cạnh kinh tế, văn hoá xã hội, môi trường và thể chế. Lý thuyết về
PTBV được đưa ra bởi Spangerberg đã nêu rõ PTBV là duy trì các hệ thống hoạt động
trong thời gian dài, để tránh thiệt hại không thể đảo ngược và để lại cho các thế hệ
tương lai cách sử dụng di sản của họ với mục đích cung cấp chất lượng cuộc sống mà
họ thích. Điều này không chỉ đề cập đến các hệ thống tự nhiên nằm trong nền kinh tế
công nghiệp của chúng ta, mà còn về xã hội, kinh tế và đặc biệt đối với các hệ thống
của các tổ chức. Nó dựa trên, nhưng không giới hạn ở một mức sống nhất định, bao
gồm các giá trị phi tiền tệ như môi trường lành mạnh, cơ hội bình đẳng và sự gắn kết
xã hội của xã hội như vậy. Hơn nữa, tiêu chuẩn sống không chỉ là thu nhập tiền tệ, mà
còn bao gồm tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ, được mua, quyên góp và tự thực hiện,
cá nhân hoặc chung, mà chúng ta tận dụng trong cuộc sống hàng ngày của mình. Ở ba
khía cạnh môi trường, kinh tế và văn hoá xã hội đã được đề cập trong các nghiên cứu
trước, riêng khía cạnh thể chế được Spangenberg nêu chi tiết đó là tập hợp những quy
tắc chính thức, không chính thức hay những nhận thức chung có tác động kìm hãm,


24

định hướng hoặc chi phối sự tương tác của các chủ thể với nhau trong những lĩnh vực
nhất định. Các thể chế được tạo ra và đảm bảo thực hiện bởi cả nhà nước và các tác
nhân phi nhà nước (như các tổ chức nghề nghiệp hoặc các cơ quan kiểm định). Các

quy tắc chi phối sự tương tác giữa các cá nhân hay tổ chức có thể mang tính chính thức
hoặc không chính thức. Các quy tắc chính thức bao gồm hiến pháp, các bộ luật, điều
luật, hiến chương, văn bản dưới luật… Trong khi đó các quy tắc không chính thức có
vai trò mở rộng, chi tiết hóa hoặc chỉnh sửa các quy tắc chính thức và điều chỉnh hành
vi của các chủ thể thông qua các chuẩn tắc xã hội (truyền thống, tập quán, những điều
cấm kỵ…) hay các quy tắc ứng xử nội bộ. Vai trò của các thể chế thể hiện ở chỗ chúng
tạo nên một khuôn khổ mà ở đó hành động của các chủ thể trở nên dễ đoán trước hơn,
cho phép các chủ thể thiết lập các kỳ vọng và giảm thiểu các rủi ro trong quá trình
tương tác với nhau.
Để có thể đánh giá được phát triển du lịch như thế nào là bền vững mặc dù đã
có rất nhiều nghiên cứu của nước ngoài nhưng tại Việt Nam vẫn còn rất ít ngoại trừ
một số nghiên cứu như của Lê Chí Công& ctg (2017); Phạm Hồng Long (2012) cho
thấy PTDLBV là một chủ đề rất hữu ích để tìm hiểu dựa trên các khung lý thuyết đã
được nêu ra. Mặt khác ít có nghiên cứu tại Việt Nam đề cập đến vai trò của khía cạnh
thể chế trong PTDLBV cũng là động lực để tác giả đề xuất khung nghiên cứu của
mình. Khung nghiên cứu đề xuất của tác giả dựa trên các khung lý thuyết đã được nêu
ở trên về DLBV, PTDLBV và phải gắn liền với sự tham gia của cộng đồng địa phương
dựa trên phương diện hài lòng của cộng đồng địa phương (Spangenberg & Valentin,
1999; Valentin & Spangenberg, 2000; Cottrell & ctg , 2013; Lê Chí Công& Hồ Huy
Tựu, 2017). Đồng thời cũng kế thừa từ nghiên cứu gốc của Cottrell& ctg (2013) tác
giả đã đưa ra khung nghiên cứu của mình như hình sau


25

Môi trường

Văn hoá xã hội

Kinh tế

Thể chế

Sự hài lòng của cư
dân

Hình 2.2 Khung nghiên cứu đề xuất của tác giả
2.4.2 Các giả thuyết
Trong nghiên cứu của Gursoy & ctg (2010); Nunkoo& Ramkissoon (2011) áp
dụng lý thuyết trao đổi xã hội trong lĩnh vực du lịch đã chỉ ra cộng đồng địa phương sẽ
tham gia tích cực vào các hoạt động du lịch nếu họ nhận được các phần thưởng/lợi ích
lớn hơn so với chi phí bỏ ra và ngược lại. Để duy trì du lịch trong một cộng đồng, một
số trao đổi nhất định phải xảy ra (App, 1992). Theo App (1992) sự tham gia của cộng
đồng địa phương trong việc phát triển và thu hút du lịch đến khu vực của họ thường
được thúc đẩy bởi mong muốn của một số thành viên trong cộng đồng nhằm cải thiện
kinh tế và xã hội của khu vực mình sinh sống. Cộng đồng địa phương đóng một vai trò
quan trọng có thể ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của ngành du lịch tại địa
phương. Cư dân có thể đóng góp cho sự thịnh vượng của cộng đồng địa phương thông
qua sự tham gia của họ ở các mức độ khác nhau trong việc lập kế hoạch, phát triển và
vận hành các điểm du lịch hay bằng cách mở rộng sự hiếu khách của họ cho khách du
lịch để đổi lấy những lợi ích thu được từ du lịch. Mặt khác, cư dân cũng có thể ngăn


×