Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tình hình thực trạng kinh doanh của công ty cổ phần thương mại minh khai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 73 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam.
Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu
thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc
biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển,
góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước. Trong quá trình Công
nghiệp hoá- Hiện đại hoá hiện nay, ngành Dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi
nhọn trong nền kinh tế được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong
mấy năm gần đây, các thị trường luôn được rộng mở,số lao động trong ngành ngày
càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, giá trị đóng góp của
ngành vào thu nhập quốc dân…. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
ngành dệt may Việt Nam đã và đang gặp những vấn đề cần khắc phục như chất
lượng tăng trưởng của ngành thấp, vốn đầu tư xây dựng không hiệu quả, mất cân
đối giữa hai ngành Dệt và May…Trở ngại lớn đối với sự phát triển của ngành Dệt
May hiện nay là tỷ lệ nội địa hóa còn rất thấp, sự phụ thuộc rất lớn vào nguyên phụ
liệu nhập khẩu. Điều đó là do ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành DMVN chưa
phát triển tương xứng với sự phát triển của ngành dệt may để đáp ứng nhu cầu của
ngành dệt may trong nước. Những tồn tại và hạn chế của ngành CNHT đã làm cho
ngành DMVN chưa phát triển một cách tương xứng so với tiểm năng thực sự của
ngành.
Trong khi đó, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam
đến năm 2020 là trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi
nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều
việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu
vực và thế giới; từng bước đưa ngành Dệt May thoát khỏi tình trạng gia công sản
xuất.
Do đó, để đạt được mục tiêu đã định, thì việc nghiên cứu thực trạng của ngành
công nghiệp hỗ trợ ngành Dệt May Việt sẽ đóng góp một vai trò quan trọng. Nó phù
hợp với yêu cầu thực tế của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như yêu
cầu của sự phát triển ngành dệt may.
Từ yêu cầu thực tế đó và mục đích tìm hiểu những vấn đề lớn liên quan đến ngành


CNHT ngành DMVN trong giai đoạn hiện nay và thử tìm một số giải pháp để khắc


phục những vấn đề đó, sau quá trình thực tập tại Vụ Công Nghiệp, thuộc Bộ Kế
Hoạch và Đầu Tư, em đã quyết định lựa chọn đề tài
“ Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến
năm 2020”
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực
tiễn ngành công nghiệp hỗ trợ ngànhdệt may Việt Nam qua đó xem xét thực trạng
phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam, những tồn tại,
hạn chế của ngành. Từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển
cho ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020.
Đây là kết quả của quá trình thực tập và nghiên cứu với việc áp dụng một số
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
thống kê mô tả, phương pháp hệ thống hoá và phương pháp suy luận logic.
Trên cơ sở mục đích, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, nội dung của đề tài
nghiên cứu được chia là ba chương, cụ thể như sau:
Chương I: Một số lý luận về công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may
Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt
Nam
Chương III: Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may
Việt Nam đến năm 2020
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS- TS
Nguyễn Ngọc Sơn đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HỔ TRỢ NGÀNH DỆT
MAY
1.1. Khái niệm chung về công nghiệp hỗ trợ

1.1.1. Khái niệm chung.
Công nghiệp hỗ trợ (supporting industry) là một khái niệm khá mới đối với
Viêt Nam. Gần đây khái niệm công nghiệp hỗ trợ đã bắt đầu được đề cập đến ngày
càng nhiều với cách nhìn nhận ngày càng rõ hơn tầm quan trọng của nó trong sự
phát triển của ngành công nghiệp của đất nước.
“ Công nghiệp hỗ trợ” là một từ tiếng Anh – Nhật được các doanh nghiệp Nhật
sử dụng từ lâu trước khi trở thành thuật ngữ chính thức. thuật ngữ này trở nên thông
dụng ở Nhật vào khoảng giữa những năm 1980. Và được chính thức sử dụng ở Việt
Nam từ năm 2003 bắt đầu từ khi Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn I
( 2003 – 2005) đề xuất việc soạn thảo quy hoạch tổn thể về phát triển công nghiệp
hỗ trợ như là một biện pháp cấp bách để xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Hiểu theo nghĩa rộng thì CNHT là toàn bộ các ngành công nghiệp cung cấp đầu
vào cho sản phẩm.
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, công nghiệp hỗ trợ là ngành công nghiệp sản xuất
những sản phẩm trung gian, các linh kiện, phụ tung và công cụ có vai trò hỗ trợ cho
việc sản xuất một loại sản phẩm cuối cùng nhất định.
Tuỳ từng loại sản phẩm cụ thể cần sản xuất, những sản phẩm trung gian có
thể bao gồm nguyên liệu, vật liệu, linh kiện, phụ tùng, các bộ phận chi tiết lẻ, phụ
liệu, bao bì, nhãn mác, thuốc nhuộm, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có
thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế,… Nếu kể
các sản phẩm tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ
thấy phạm vi rõ ràng hơn: Sản phẩm CNHT thường được sản xuất với quy mô nhỏ,
thực hiện bởi các DN nhỏ và vừa. Những sản phẩm trung gian là một loại yếu tố
“đầu vào” của quá trình sản xuất công nghiệp. Do tính phức tạp của mối liên hệ sản
xuất giữa các ngành công nghiệp, việc xác định loại hình CNHT của một ngành nào
đó cũng chỉ mang tính chất tương đối.
Mỗi ngành công nghiệp đều phát triển theo chuỗi giá trị riêng biệt, song đều
có một điểm chung là được hình thành từ sự liên kết giữa 2 khu vực: khu vực



thượng nguồn (upstream) và khu vực hạ nguồn (downstream). Trong đó, khu vực
thượng nguồn thường được gọi là CNHT, làm nền tảng cơ sở để phát triển khu vực
hạ nguồn. Ngược lại, khu vực hạ nguồn là ngành công nghiệp chính, chỉ có thể phát
triển khi khu vực thượng nguồn phát triển, và khi khu vực hạ nguồn đã phát triển sẽ
tạo “động lực” thúc đẩy phát triển khu vực thượng nguồn.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Việc phát triển CNHT là một vấn đề rất phức tạp trong quá trình hoạch định
chiến lược phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Với các nước đang trong quá
trình công nghiệp hoá, khi các nguồn lực còn hẹp, qui mô các ngành kinh tế còn nhỏ
bé, việc giải quyết bài toán quan hệ giữa phát triển CNHT và khu vực hạ nguồn lại
càng khó khăn và phức tạp hơn. Do đó, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc
phát triển CNHT sẽ tạo lập luận cứ khoa học nhằm lựa chọn chiến lược phát triển
công nghiệp thích hợp, cụ thể:
- Một là, thị trường của khu vực hạ nguồn: Khả năng đảm bảo sự tương thích
giữa qui mô của các ngành hỗ trợ và khu vực hạ nguồn phải đủ lớn để tạo ra thị
trường ổn định phát triển có hiệu quả các ngành hỗ trợ. Nếu khu vực hạ nguồn có
qui mô nhỏ, sản xuất những sản phẩm có chủng loại đa dạng và sản lượng không
lớn thì khối lượng sản xuất của các ngành hỗ trợ cũng sẽ nhỏ, do đó, giá thành chế
tạo sẽ tăng cao. Điều này sẽ vấp phải sự từ chối của chính khu vực hạ nguồn trong
nước và gặp khó khăn khi muốn xuất khẩu sản phẩm hỗ trợ ra nước ngoài.
Thêm vào đó, cần chú trọng đến khả năng đảm bảo yêu cầu về chủng loại, chất
lượng và thời hạn cung ứng các sản phẩm hỗ trợ cho các ngành hạ nguồn vì thông
thường, yêu cầu của các DN ở khu vực hạ nguồn rất khắt khe do họ phải đảm bảo
những cam kết với khách hàng, đặc biệt là những đơn hàng xuất khẩu.
- Hai là, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ: Đây là nhân tố quan trọng
không chỉ đối với các ngành công nghiệp nói chung mà còn cả với CNHT nói riêng
do tính chất thường xuyên thay đổi để thích ứng với xu hướng phát triển của thế
giới. Vì thế, một mặt, việc áp dụng thành tựu mới của khoa học và công nghệ trong
các ngành hỗ trợ ảnh hưởng có tính chất “dẫn dắt” sự phát triển khu vực hạ nguồn
nhờ tạo ra những chi tiết, bộ phận hoặc vật liệu mới, góp phần tạo ra sự thay đổi căn

bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn; mặt khác, việc thiết kế
và chế tạo các sản phẩm mới ở khu vực hạ nguồn yêu cầu CNHT phải nghiên cứu
và chế tạo những vật liệu, phụ liệu, bộ phận hay chi tiết sản phẩm phù hợp.


Sự phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử cho phép “làm các bên có
cung và có cầu gần lại với nhau” và giảm thời gian giao dịch giữa họ. Điều đó cho
phép mở rộng không gian tổ chức quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và khu vực hạ
nguồn.
- Ba là, nguồn lực tài chính. Việc giải quyết mối quan hệ giữa CNHT và khu
vực hạ nguồn cũng chính là việc giải quyết mối quan hệ liên ngành công nghiệp.
Đầu tư vào các ngành hỗ trợ bất lợi hơn so với đầu tư vào khu vực hạ nguồn do khối
lượng vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và hoàn vốn đầu tư dài,
độ rủi ro trong đầu tư cao. Từ đó cho thấy việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu
tư phát triển công nghiệp và chính sách huy động các nguồn lực ấy có vai trò hết
sức to lớn trong việc bảo đảm các ngành CNHT phát triển có hiệu quả và bền vững.
Bên cạnh đó, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề quan
trọng đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện để thấy được vai tṛ cũng như
tác động của nó đến sự phát triển của ngành CNHT. Mối liên hệ giữa FDI và CNHT
có thể chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Trước khi có FDI, nhiều công ty trong nước đã sản xuất sản
phẩm và CNHT cung cấp cho các công ty lắp ráp, gia công sản xuất sản phẩm chính
cho thị trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận những công ty sản xuất CNHT sẽ
phát triển mạnh hơn nếu đựơc tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ của
các DN FDI. Sự liên kết này không phải tự nhiên hình thành mà các công ty CNHT
phải tỏ ra có tiềm năng cung ứng linh kiện, nguyên phụ liệu với chất lượng và giá
thành cạnh tranh được với hàng nhập.
Giai đoạn 2: Đồng thời với sự gia tăng của FDI, nhiều DN trong nước ra đời
trong các ngành CNHT chủ yếu để phục vụ cho hoạt động của ngành công nghiệp
chính thông qua các DN FDI. Những DN này sớm hình thành sự liên kết với DN

FDI để được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển một cách nhanh chóng.
Giai đoạn 3: Sau một thời gian hoạt động của DN FDI với qui mô sản xuất
ngày càng mở rộng, tạo ra thị trường ngày lớn cho CNHT, nhiều công ty vừa và nhỏ
ở nước ngoài sẽ đến đầu tư.
Như vậy, mối liên hệ giữa CNHT và FDI có thể được hiểu: chừng nào các công ty
nước ngoài không thấy Chính phủ đưa ra các chính sách cụ thể và dài hạn để phát
triển CNHT theo hướng giai đoạn 1 và 2 cũng như không tạo điều kiện môi trường
kinh doanh ổn định như giai đoạn 3 thì môi trường thu hút FDI ở nước đó sẽ không
được đánh giá cao.


Bốn là, mức độ bảo hộ thực tế. Mức độ bảo hộ thực tế là tỷ lệ % giữa thuế
quan danh nghĩa với phần giá trị gia tăng nội địa. Chính tỷ lệ này sẽ nâng cao thêm
giá của một đơn vị sản phẩm cuối cùng. Tỷ lệ này nói lên mức bảo hộ thực tế cao
hay thấp cho các ngành sản xuất trong nước.
- Năm là, các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập
đoàn xuyên quốc gia. Việc bảo đảm quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và khu vực hạ
nguồn không thể chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia, mà cần được thực hiện
trong phạm vi khu vực và toàn cầu. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải cân nhắc
thận trọng việc quyết định mức độ đầu tư vào khu vực CNHT trong nước. Khuynh
hướng cần tránh là đầu tư khép kín theo kiểu khu vực hạ nguồn cần gì thì đầu tư
phát triển khu vực hỗ trợ sản xuất cái đó.
Trong phát triển kinh tế thế giới hiện nay, các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế quốc tế. Với nguồn lực to lớn về tài chính,
khoa học và công nghệ, các tập đoàn này có mạng lưới sản xuất và phân phối rộng
rãi với chiến lược phát triển và thương hiệu thống nhất, các bộ phận trong mạng
lưới đó được chuyên môn hoá hợp lý nhằm khai thác lợi thế ở mỗi quốc gia và mỗi
khu vực, có những chi nhánh chuyên sản xuất một số loại chi tiết, bộ phận nhất định
cung cấp cho các chi nhánh khác ở phạm vi khu vực, thậm chí toàn cầu. Trong việc
hoạch định chiến lược phát triển các ngành CNHT, cần có các chính sách thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài và kết hợp hợp lý giữa sản xuất trong nước với các chi
nhánh của các tập đoàn xuyên quốc gia ấy.
- Sáu là, cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển CNHT. Sự
ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện trên hai mặt chủ yếu. Một mặt, quan điểm của
Nhà nước về phát triển CNHT trong định hướng chiến lược phát triển công nghiệp.
Mặt khác, các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực CNHT như chính sách nội địa
hoá, chính sách đầu tư phát triển CNHT, chính sách thuế đánh vào khâu nhập khẩu
và khâu sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, mức độ đầu tư của Nhà nước vào nghiên cứu
khoa học và công nghệ ở khu vực CNHT.
1.1.3. Vai trò công nghiệp hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế
Ngành CNHT có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành công
nghiệp chính. Nếu được phát triển một cách hợp lý, nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự
phát triển của ngành công nghiệp chính, tạo nên sự phát triển theo chiều sâu cho nền
công nghiệp. Mặt khác, nếu nó kém phát triển, thì sẽ là một rào cản rất lớn, ảnh
hưởng trực tiếp sự phát triển của ngành công nghiệp chính. Do đó có thể nói, CNHT
-


có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Vai trò
ấy thể hiện trên những mặt chủ yếu sau:
- Thứ nhất, CNHT là điều kiện quan trọng đảm bảo tính chủ động và nâng cao
giá trị gia tăng của ngành sản xuất sản phẩm của khu vực hạ nguồn. CNHT không
phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp, gia công và những công ty sản xuất các
thành phẩm cuối cùng khác phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm
này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều,
phí chuyên chở, bảo hiểm sẽ tăng lên làm tăng chi phí đầu vào. Đó là chưa kể đến
sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Vì vậy, CNHT thiếu sẽ làm giá
trị gia tăng thấp đi, ngành công nghiệp chính thiếu sức cạnh tranh.
- Thứ hai, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, giảm xuất khẩu các
sản phẩm thô và nhập khẩu nguyên phụ liệu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm

và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng (broadening) vừa
chuyên sâu (deepening).
- Thứ ba, phát huy ảnh hưởng của tác động “lan toả” trong phát triển hệ thống
công nghiệp. Hệ thống này có thể liên kết theo chiều dọc hoặc chiều ngang, tạo
thành các cụm công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Do vậy, sự
phát triển của một ngành công nghiệp trong hệ thống đó sẽ có tác động mạnh mẽ
đến các ngành công nghiệp khác, kích thích các ngành này cũng phát triển theo sao
cho đáp ứng được yêu cầu của thời kì mới.
- Thứ tư, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động, thu hút
lao động dư thừa, đặc biệt là trong những ngành sử dụng nhiều lao động thủ công,
giản đơn như dệt may, chế biến nông sản…
- Thứ năm, mở rộng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát
triển công nghiệp. Từ những nhận định trên có thể thấy CNHT phải phát triển mới
thu hút FDI, đặc biệt là FDI trong những ngành sử dụng nhiều máy móc hiện đại.
Tỷ lệ của chi phí CNHT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có
ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư
kém hấp dẫn.Tuy nhiên, cũng không phải CNHT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI.
Có nhiều trường hợp FDI đi trước và kéo theo các công ty khác (kể cả công ty trong
và ngoài nước) đầu tư phát triển CNHT, do đó có sự quan hệ tương hỗ 2 chiều giữa
FDI và CNHT.


Thứ sáu, là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh của
một ngành công nghiệp, góp phần đẩy mạnh thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu.
- Thứ bảy, phát triển công nghiệp hỗ trợ sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế theo chiều sau và giảm thâm hụt tài khoản vãng lai.
Theo quan niệm của M. Porter năm 1990, khả năng cạnh tranh của một ngành công
nghiệp là khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Khả năng này được hình
thành bởi 4 yếu tố, bao gồm: (1) điều kiện các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện cầu, (3)

các ngành CNHT và các ngành liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội
bộ ngành. Cả 4 yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành “mô hình kim cương
Porter” nhằm để chỉ khả năng chịu “va đập” của một quốc gia trước môi trường
cạnh tranh gay gắt. Trong đó, mối quan hệ 2 chiều giữa các yếu tố được thể hiện
qua mô hình sau:
-

Hình 1.1: Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh ngành công nghiệp

Chiến lược, cơ cấu và
cạnh tranh nội bộ
ngành
Điều kiện các
yếu tố sản xuất

Điều kiện
cầu

Các ngành CNHT và các
ngành liên quan
Nguồn: Trung tâm thông tin kinh doanh và thương mại
1.2. Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may.
1.2.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may.


Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam.
Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu
thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc
biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển,
góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước. Nó đáp ứng các nhu cầu

về sản phẩm tiêu dùng bao gồm các loại quần áo, chăn ga, gối đệm, các loại đồ
dùng sinh hoạt trong gia đình như: rèm cửa, vải bọc đồ dùng, khăn các loại…Mặt
khác, sản phẩm của ngành dệt may cũng được sử dụng trong ngành kinh tế khác
như vải kỹ thuật dùng để lót đường, thi công đê điều, các loại vải làm bọc đệm ô tô,
làm vật liệu lọc vật liệu chống thấm. Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là
quần áo, vải vóc và các vật dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền,
nệm, rèm, thảm, đệm ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành
nghề và sinh hoạt: lều, buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây
chão, các thiết bị bên trong xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung
bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói
chung mọi vật liệu dùng để đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách
âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng.
Bất cứ một ngành công nghiệp nào muốn phát triển mạnh mẽ đều phải dựa trên
một nền tảng vững chắc, cũng như có một mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau
giữa các ngành công nghiệp cả theo chiều dọc và chiều ngang. Đối với ngành dệt
may, quan hệ theo chiều dọc của ngành này được biểu hiện dưới dạng chuỗi giá trị
như sau:
Sản xuất
nguyên
liệu

Kéo
 sợi

Dệt
 vải

Nhuộm, in
Cắt
 vải

 may

Phân phối
 hàng may

Trong chuỗi giá trị trên, các giai đoạn sản xuất nguyên liệu, kéo sợi, dệt vải,
nhuộm, in vải được gọi là khu vực thượng nguồn, hay đây cũng chính là các ngành
CNHT và có liên quan chặt chẽ đến ngành may. Còn các giai đoạn cắt may, phân
phối hàng may được gọi là khu vực hạ nguồn và là “động lực” thúc đẩy khu vực
thượng nguồn phát triển.
Để có được một sản phẩm dệt may cuối cùng cần trải qua rất nhiều các công
đoạn trong sản xuất tạo nên thành một chuỗi giá trị của ngành. Theo hình trên ta
thấy chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm rất nhiều công đoạn khác nhau từ sản


xut x n khộo si dt vi nhum in hoa, hon tt ct v may.
Hỡnh 1.2: Quy trỡnh sn xut hon tt sn phm dt may.

Sản phẩm phụ trợ

Phâ
n bón, thuốc
phòng dịch bệnh

Các laoij phụ tù ng
kim khívà phi kim
loại

Các loại phụ tù ng
kim khívà phi kim

loại

Các loại thuốc
nhuộm và hóa chất
phụ trợ

Công nghệdệt may

Sản xuất xơ
sợ i tổng hợ p

Sản xuất
bông

Kéo sợ i

Dệt vải mộc

Nhuộm - In hoa

Các loại hóa chất
phụ trợ
Hoàn tất

Các loại phụ liệu
may

Cắtmay

Công nghệphụ trợ


Công nghệhóa dầu

Công nghệcơkhí,
chếtạo và điều
khiển tự động

Công nghệcơkhí,
chếtạo và điều
khiển tự động

Công nghệcơkhí,
chếtạo và điều
khiển tự động

Công nghệcơkhí,
chếtạo và điều
khiển tự động

Công nghệthiết kế
thời trang

Tiêu dù ng

Ngun: Quy hoch phỏt trin DMVN n nm 2020
Nu to ra c mi liờn h hu c gia cỏc khõu trong nhng iu kin sn
cú thỡ s cú tỏc ng ln lao vo vic m bo tớnh ch ng, vic nõng cao hiu
qu sn xut kinh doanh, tng sc cnh tranh ca sn phm DMVN trờn th trng
trong nc v th gii.



1.2.2. Các ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may.
1.2.2.1. Ngành sản xuất nguyên liệu.
Ngành sản xuất nguyên liệu cung cấp các nguyên liệu tự nhiên như bông len,
tơ sợi để xe sợi, chỉ. Ngành này thường là lợi thế của các nước có điều kiện khí hậu
thích hợp với sự phát triển của cây bông, đay và những ngành trồng dâu nuôi tằm.
Trung Quốc là nước có nghề trồng dâu nuôi tằm sớm nhất trên thế giới, sau đó
dâu tằm mới được phát triển và lan rộng đến các vùng khác trên thế giới. Cách đây
4-5 nghìn năm người Trung Quốc đã biết nuôi tằm và thuần hoá giống tằm, cuốn
Biên niên sử[đã đề cập tới dâu tằm vào triều vua Châu Vương (2200 trước Công
nguyên). Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, nó thể hiện
sự thuần phục của dân đối với vua. Bí mật của ngành dâu tằm tơ được người Trung
Quốc giữ kín rất lâu, phải gần 1000 năm sau ngành nghề này mới được để lộ và lan
truyền sang các nước lân cận bằng con đường tơ lụa.
Theo một số tài liệu khác cho rằng nghề dâu tằm được lan truyền sang Triều
Tiên vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, sau đó là Nhật Bản thế kỷ thứ 3
trước Công nguyên, Ấn Độ giữa thế kỷ 2 trước Công nguyên.
Theo các nhà lịch sử phương Tây, cây dâu được trồng phát triển ở Ấn Độ
thông qua Tây Tạng vào khoảng năm 1400 trước Công nguyên và nghề trồng dâu,
nuôi tằm bắt đầu ở vùng châu thổ sông Hằng. Theo các nhà lịch sử Ấn Độ, nơi nuôi
tằm đầu tiên ở đây là thuộc vùng núi Hymalaya. Khi người Anh đến Ấn Độ, do
buôn bán tơ lụa mà nghề dâu tằm được phát triển và lan rộng sang vùng khác như
Mysore, Jamu, Kashmir. Ả Rập do nhập trứng tằm và hạt dâu từ Ấn Độ nên cũng là
một trong những nơi sớm có nghề dâu tằm.
Vào thế kỷ 4, nghề dâu tằm được thiết lập ở Ấn Độ như là trung tâm của châu
Á và tơ lụa được xuất khẩu tới Roma (Ý), nhưng đến thế kỷ 6 người Roma đã học
được kỹ nghệ sản xuất tơ và tơ đã được sản xuất ở châu Âu, người Roma đã hoàn
toàn chiếm lĩnh trong lĩnh vực sản xuất này. Từ Ý, dâu tằm được phát triển tới Hy
Lạp, Áo và Pháp. Vì lợi ích kinh tế đem lại nên ngành dâu tằm tơ được nhiều nước
quan tâm.

Ngày nay các nước có ngành sản xuất nguyên liệu dệt may phát triển chủ yếu là
các nước Mỹ la tinh,Trung Quốc, Ân Độ. Trong đó Brazil là nước cung cấp bông
sợi lớn thứ 5 thế giới.
1.2.2.2. Ngành cơ khí.


Ngành cơ khí cung cấp các trang thiết bị máy móc cho ngành dệt may và các
sản phẩm dầu khí đốt tự nhiên để vận hành máy móc, hóa dầu tạo thành sợi tổng
hợp.
Ngành cơ khí đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành dệt may.
Cơ khí hóa ngành dệt may với các máy móc hiện đại sẽ làm cho năng suất lao động
tăng lên, chất lượng sản phẩm dệt may được nâng cao, tiết kiệm lao động và chuyên
môn hóa quá trình sản xuất sản phẩm dệt may.
Đặc biệt, ngành dệt đang có những định hướng mới trong việc áp dụng những
sản phẩm vải, nhưng không phải là quần áo, được gọi là vải kỹ thuật. Đây là lĩnh
vực có mức độ tăng trưởng nhanh nhất. Dự kiến các sản phẩm vải kỹ thuật sẽ có
mức tăng trưởng gấp đôi so với các sản phẩm dùng để may quần áo và chiếm
khoảng hơn 50% toàn bộ sản phẩm dệt. Quá trình sản xuất các sản phẩm vải kỹ
thuật đòi hỏi máy móc hiện đại đắt tiền và công nhân có trình độ cao. Hiện tại lĩnh
vực này tập trung ở những nước phát triển với trình độ công nghệ và máy móc hiện
đại, tiên tiến.
1.2.2.3. Kéo sợi.
Đây là giai đoạn từ các nguyên liệu thô ban đầu bằng các phương pháp hóa
dầu để tạo thành các sản phẩm nguyên vật liệu phuc vụ cho dệt may như chỉ, sợi và
vải , mà nhiều nhất là tơ sợi tổng hợp. Công đoạn này do các công ty may đảm
nhiệm. Có nhiều loại tơ sợi khác nhau. Tơ sợi có nguồn gốc từ thực vật hoặc từ
động vật được gọi là tơ sợi tự nhiên. Tơ sợi được làm ra từ chất dẻo như các loại sợi
ni lông được gọi là tơ sợi nhân tạo. Do Hiệp định sợi đa phương được các nước
công nghiệp phát triển ký với vài nước đang phát triển năm 1974 cho phép giảm
dần dần thuế quan đối với hàng dệt và xóa bỏ thuế quan vào năm 2002-2005 nên

Trung Quốc và các quốc gia đang phát triển khác ở châu Á trở thành người khổng lồ
trong lĩnh vực sản xuất sợi và hàng dệt.
1.2.2.4. Ngành dệt vải.
Đây là quá trình dệt sợi thành tấm vải, cung cấp nguyên liệu cho ngành may.
Đặc điểm nổi bật nhất của ngành này là thu hút một lượng nguồn nhân lực rất lớn,
tỷ trọng lợi nhuận rất cao tương đối phù hợp với các nước đang phát triển.
1.2.2.5. Nhuộm, in vải.
Trong ngành này có chuỗi dài các công đoạn sản xuất ướt, đòi hỏi nước, hóa
chất và các năng lượng đầu vào. Do đòi hỏi của lĩnh vực may thời trang nên ngành
này rất phong phú theo yêu cầu về chất liệu, màu sắc của vải.


1.3. Các nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành CNHT ngành dệt may.
1.3.1.Thị trường.
Như đã nói ở trên, ngành CNHT có vai trò sản xuất các sản phẩm trung gian
hỗ trợ cho việc sản xuất một sản phẩm cuối cùng. Như vậy nếu có sự tương thích đủ
lớn thì sự phát triển của ngành công nghiệp chính sẽ tạo ra thj trường ổn định phát
triển có hiệu quả các ngành hỗ trợ.
Đối với ngành dệt may, nếu như ngành may có quy mô nhỏ, sản xuất nhưng
sản phẩm có chủng loại đa dạng và sản lượng không lớn thì khối lượng sản xuất
bông, vải, sợi...sẽ nhỏ, giá thành sẽ tăng cao. Điều ấy dẫn đến khó tiêu thụ sản phẩm
của ngành hỗ trợ. Làm cho các ngành hỗ trợ kém phát triển. Gây ảnh hưởng trực
tiếp đến ngành dệt may, đặc biệt là dệt may xuất khẩu. Do đó để ngành hỗ trợ phát
triển tương xứng, đáp ứng được nhu cầu của dệt may trong nước thì cần một chính
sách đầu tư đồng bộ, liên kết chặt chẽ giữa các DN hỗ trợ và DN khu vực hạ nguồn.
Đảm bảo được chất lượng sản phẩm hỗ trợ và thị trường tiêu thụ.
1.3.2.Vốn.
Việc đầu tư vốn vào khu vực hỗ trợ ngành dệt may bất lợi hơn so với khu vực
hạ nguồn do khối lượng vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và
hoàn vốn dài, mức độ rủi ro cao. Do đó việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu tư

phát triển ngành công nghiệp dệt may và chính sách huy động phát triển các nguồn
lực ấy có vai trò rất to lớn trong việc bào đảm các ngành CNHT ngành dệt may phát
triển có hiệu quả và bền vững, đáp ứng được nhu cầu nguyên nhiêu liệu của ngành
dệt may.
Bên cạnh đó việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành hỗ trợ
cũng là một vấn đề quan trọng đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện. Với
sự gia tăng của vốn FDI vào ngành công nghiệp dệt may, đồng thời nhiều DN hỗ trợ
cũng ra đời và phát triển chủ yếu phục vụ cho hoạt động chính của ngành dệt may,
cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt may phát triển. CacsDN hỗ trợ sẽ hình thành
mối liên kết với các DN FDI để chuyển giao công nghệ và phát triển một cách
nhanh chóng. Khi các DN hỗ trợ của dệt may phát triển thì sẽ thu hút được nhiều
hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư cho dệt may. Như vậy nhà nước cần
phải có chính sách sử dụng vốn đầu tư một cách hợp lý, tạo điềuk iện cho các DN
hỗ trợ dệt may phát triển. Đó là cách hợp lý nhất để tiếp tục thu hút được lượng đầu
tư FDI đối với ngành.


1.3.3. Khoa học kỹ thuật và Công nghệ.
Đây là nhân tố quan trọng không chỉ với ngành dệt may mà còn cả với CNHT
của ngành. Do tính chất khoa học công nghệ thường xuyên thay đổi và phát triển
không ngừng để theo kịp với xu hướng phát triển của thế giới. Vì vậy việc áp dụng
thành tựu mới của khoa học công nghệ vào các ngành hỗ trợ cho ngành dệt may có
tính chất dẫn dắt sự phát triển của ngành dệt may, nhờ việc tạo ra những chất liệu
vải mới, đa dạng hóa các sản phẩm dệt may, làm thay đổi căn bản trong thiết kế và
tạo sản phẩm mới ở ngành dệt may. Ngược lại, sự phát triển của ngành may mặc đòi
hỏi ngành hỗ trợ phải không ngừng phát triển để tạo ra những nguyên nhiên liệu
mới, đáp ứng nhu cầu của ngành. Sự phát triển của công nghệ thông tin và thương
mai điện tử làm cho mối liên hệ giữa ngành coongn ghiệp dệt may và ngành CNHT
trở nên gần nhau hơn. Giamr tối thiểu thời gian giao dịch, tiết kiệm chi phí, thúc
đẩy được sự phát triển của cả ngành dệt may lẫn ngành hỗ trợ.

1.3.4. Các chính sách của nhà nước với phát triển CNHT.
Quan điểm của nhà nước về phát triển CNHT ngành dệt may trong đinh hướng
phát triển chung của ngành dệt may cả nước tác động trực tiếp đến quy mô, cơ cấu
của ngành CNHT dệt may. Mặt khác các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực
CNHT như chính sách nội địa hóa, chính sách đầu tư phát triển ngành nguyên liệu,
cơ khí... phục vụ ngành dệt may, chính sách thuế đánh vào khâu nhập khẩu và xuất
khẩu các sản phẩm bông, tơ sợi...và mức độ đầu tư của nhà nước vào nghiên cứu
khoa học công nghệ, tất cả quyết định sự phát triển của ngành hỗ trợ dệt may.
1.3.5. Các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu.
Ngành công nghiệp dệt may không phải là một ngành riêng lẻ, mà nó có một
chuỗi giá trị toàn cầu. Cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới, mối liên hệ kinh tế
giữa các quốc gia ngày càng trở nên mật thiết. Việc đảm bảo quan hệ giữa ngành dệt
may và các ngành hỗ trợ không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà cần thực
hiện trong phạm vi khu vực và thế giới. Điều đó buộc mối quốc gia phải cân nhắc
mức độ đầu tư vào ngành hỗ trợ trong nước, không những chỉ dệt may trong nước
cân gì thì ngành hỗ trợ mới sản xuất cái đó. Mà cần mở rộng xuất khẩu các sản
phẩm hỗ trợ dệt may, và tăng cường tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm dệt may để tạo được
lợi thế cho các mặt hàng hệt may xuất khẩu.
1.4. Kinh nghiệm của các nước trong phát triển CNHT dệt may.
CNHT đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển ngành công nghiệp
chính. Thực tế các nước phát triển trên thế giới từ lâu đã rất đầu tư chú trọng phát


triển ngành CNHT để ngành CNHT làm cơ sở cho việc phát triển ngành công
nghiệp chính. Có thể rút ra được rất nhiều kinh nghiệm quý báu từ sự phát triển
CNHT dệt may của các nước có ngành dệt may phát triển như Trung Quốc, ấn Độ,
Nam Phi...
1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Công nghiệp dệt may của Trung Quốc đã và đang phát triển mạnh trong 2 thập
kỷ qua. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia lớn nhất thế giới về sản xuất một số loại

sản phẩm dệt may, đồng thời cũng là quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế
giới. Quá trình phát triển công nghiệp dệt may của Trung Quốc được chia làm 3 giai
đoạn.
- Giai đoạn 1: nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa ngành dệt và may,
Trung Quốc đã coi ngành dệt là ngành hỗ trợ chủ đạo cho ngành may, và sự phát
triển của 2 ngành công nghiệp này là đồng hành, song song cùng tồn tại, sự tăng
trưởng của ngành này là nền tảng cho ngành kia. Ngành dệt của Trung Quốc được
bắt đầu từ năm 1870. Từ năm 1870 cho đến 1940 là giai đoạn đầu phát triển ngành
dệt. Trong giai đoạn này, ngành dệt phát triển với tốc độ thấp, nguyên liệu tự cấp
với chất lượng thấp, thiết bị nhập khẩu. Hầu hết các nhà máy dệt là của tư nhân
được bố trí ở dọc bờ biển hoặc đường bộ để thuận tiện cho hoạt động chuyên chở và
giao thương.
- Giai đoạn 2: tính từ năm 1949 đến cuối thập kỉ 70. Để đáp ứng nhu cầu may
mặc của nhân dân Trung Quốc, Chính phủ đã hết sức cố gắng mở rộng năng lực
ngành dệt. Đến cuối năm 1978, sản lượng sợi hoá học sản xuất ở Trung Quốc đạt
280000 tấn, sản xuất vải trước hết được ưu tiên cho nhu cầu thị trường nội địa. Do
vậy, Trung Quốc đã có các chiến lược ngắn hạn phát triển ngành dệt như là một
trong những hàng hoá tiêu dùng.
- Giai đoạn 3: cuối những năm 70, Chính phủ Trung Quốc đã ra các quyết
sách nhằm phát triển kinh tế đất nước theo hướng mở cửa thị trường quốc tế. Kể từ
đó đến nay, ngành dệt Trung Quốc đã có sự tăng trưởng vượt bậc và có sự thay đổi
đáng kể. Chủ sở hữu được đa dạng hoá, khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển rất
mạnh. Năng lực sản xuất gia tăng đáng kể, đồng thời ngành dệt cũng được củng cố
thêm nhờ đổi mới công nghệ và sản phẩm dệt đã có khả năng cạnh tranh. Cũng
trong giai đoạn này, khi CNHT đã có một cơ sở vững chắc thì ngành may của Trung
Quốc cũng có những bước khởi sắc. Cùng với hàng dệt, kim ngạch xuất khẩu hàng
may tăng đáng kể (bảng 1)


Sau nhiều năm vừa cải cách vừa thực hiện, Trung Quốc đã xây dựng được

ngành dệt hoàn hảo, có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, trở thành
ngành CNHT đắc lực đáp ứng mọi nhu cầu của ngành may trong quá trình thâm
nhập thị trường các nước trong khu vực và thế giới.
Để xây dựng được ngành dệt mạnh như vậy, bên cạnh chiến lược phát triển ngành
theo từng bước vững chắc, Nhà nước Trung Quốc cũng đã có những biện pháp hỗ
trợ như:
Về chính sách hỗ trợ xuất khẩu: năm 1986, hoàn trả thuế trung gian và VAT,
năm 1988 hoàn trả thuế gián tiếp luỹ tiến ở các khâu, hình thành các quĩ hỗ trợ tín
dụng nhằm cấp tín dụng xuất khẩu, tín dụng cải tiến kỹ thuật,…để khuyến khích các
DN dệt may đổi mới năng lực và hiện đại hoá công nghệ, thiết bị, dây chuyền sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện
đại, đồng bộ và có những chính sách ưu đãi đặc biệt với các nhà đầu tư nước ngoài,
cụ thể ngày 11/10/1996 “qui định về khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài” đã
giảm mức thuế thu nhập từ 30% xuống còn 15% và cho các DN ở đặc khu kinh tế
chỉ còn 10%, miễn thuế 5 năm đầu cho các DN mới thành lập ở đặc khu, miễn thuế
thu nhập khi chuyển lãi ra nước ngoài, hoàn trả thuế thu nhập cho phần lợi nhuận
dùng để tái đầu tư…
1.4.2. Kinh nghiệm của Nam Phi
Từ năm 1994, Nam Phi đã đầu tư 1 tỷ USD để nâng cấp và hiện đại hoá ngành
công nghiệp dệt, may mặc và giày dép, giúp ngành này có thể cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Nhu cầu của thị trường Nam Phi ngày càng phản ảnh tính phức tạp
của một thị trường phát triển. Ngành dệt may của địa phương đã không ngừng lớn
mạnh để cung cấp cho thị trường một loạt các sản phẩm, từ sợi tự nhiên, sợi nhân
tạo, đến dệt, xe sợi, dệt kim, nhuộm…
Nhờ áp dụng những tiến bộ công nghệ, ngành dệt địa phương đã phát triển
thành một ngành dựa chủ yếu vào thiết bị sản xuất, trong đó sản xuất sợi nhân tạo
chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Mặc dù có quy mô tương đối nhỏ, ngành công nghiệp
dệt của Nam Phi đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trên thị trường thế
giới:

- Nhà sản xuất sợi Sans Fibres cung cấp 80% chỉ khâu (may) sử dụng trong
ngành may mặc trên thế giới)


- Nhà máy dệt vải Gelvenor Textiles cung cấp hơn 50% nhu cầu của thế giới
về vải may dù (parachute fabrics
- Nhà sản xuất quần áo vét House of Monatic đã cung cấp cho thị trường Anh
sản phẩm thứ 1 triệu
Một số nhân tố khiến cho việc đầu tư vào ngành dệt may và giày dép tại Nam
Phi trở nên hấp dẫn hơn. Nam Phi có hiệp định thương mại với EU và Mỹ theo đó
Nam Phi được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi 17,5%. Tại thị trường Mỹ, xuất
khẩu dệt may của Nam Phi đã tăng 62% kể từ khi được hưởng ưu đãi theo đạo luật
AGOA. Nam Phi cũng được hưởng ưu đãi về thuế mà các nước SADC dành cho
theo Hiệp định Thương mại tự do SADC, thực hiện hoàn toàn vào năm 2008.
Nam Phi có lợi thế về nguyên liệu thô (sợi tự nhiên).
- Bông: Nam Phi sản xuất 40000 tấn bông một năm. Sợi bông cũng có thể
nhập từ các nước SADC để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ.
- Da: Nam Phi có đủ nguyên liệu thô cần thiết để sản xuất bất kỳ loại giày dép
nào. Da bò, đà điểu, cá sấu sông Nile, da thú rừng, dệt và nguyên liệu nhựa PVC …
có thể mua tại địa phương một cách dễ dàng.
- Sợi thực vật: Nam Phi đang triển khai khá thành công các dự án trồng và chế
biến sợi tự nhiên, chẳng hạn như cây lanh, cây gai dầu, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng lên từ ngành công nghiệp ô tô và hàng không (nguyên liệu tự nhiên sản
xuất một số bộ phận của ô tô và máy bay không gây ô nhiễm môi trường).
- Len và lông cừu: Nam Phi là nước sản xuất lông cừu (mohair) lớn nhất thế
giới và sản xuất len lớn thứ năm trên thế giới.
Ngành dệt Nam Phi có 350 nhà máy, sản xuất 560 triệu mét vuông vải từ bông
trồng tại địa phương, sợi polyester sản xuất tại địa phương và sợi nhập khẩu. Giá trị
sản xuất vải đạt 12 tỷ rand năm 2005 và 191 triệu đơn vị sản phẩm may mặc, trị giá
11 tỷ rand năm 2005. Xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,4 tỷ rand, hàng dệt đạt 2,5 tỷ

rand, chủ yếu sang thị trường Mỹ và EU. Sản phẩm may mặc chủ yếu sản xuất tại
các tỉnh Western Cape, Kwa-Zulu Natal, Gauteng và Eastern Cape.
Năm 2007, Nam Phi xuất khẩu sản phẩm dệt may đạt 5 tỷ rand. Nhập khẩu dệt
may khoảng 14 tỷ rand (Tỷ giá tham khảo 1 usd = 7,5 rand.
1.4.3. Kinh nghiệm của Ấn Độ.
Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho năng lực và kinh nghiệm xây dựng CNHT
cho ngành dệt may ở Châu Á. Hiện nay, Ấn Độ đang là quốc gia có kim ngạch xuất
khẩu dệt may lớn trên thế giới. Xuất khẩu hàng may đã tăng lên nhanh chóng từ


thập niên 1970. Năm 1970-1971, ngành này mới đạt 3,9 triệu USD và tỷ trọng trong
tổng lượng xuất khẩu chỉ đạt 1,9%. Năm 1980-1981, kim ngạch xuất khẩu đã đạt
6,96 triệu USD và tương ứng thị phần là 8,2%. Từ năm 1997-1998, kim ngạch đã
đạt tới 3776 triệu USD, thị phần 9,6%, cho đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may đã tăng đáng kể, giúp cho Ấn Độ trở thành quốc gia đứng thứ 3 trên thế giới về
xuất khẩu ngành hàng này. Vậy đâu là nguyên nhân tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc
đó?
Thứ nhất, do mức lương khá thấp ở Ấn Độ đã tạo nên lợi thế so sánh trong
ngành công nghiệp may mặc. Theo thống kê của Vinatex, mức lương trung bình
trong ngành dệt may của Ấn Độ hiện là 0,54 USD/h, thấp hơn 6,3 lần so với Hồng
Kông, 1,6 lần so với Thái Lan.
Thứ hai, ngành may mặc Ấn Độ có nguồn vải phong phú với chất lượng đa
dạng và giá khác nhau, vì vậy đã đáp ứng được mọi yêu cầu cho ngành may mặc.
Hàng nghìn loại sợi đa dạng đều có nguồn cung cấp trong nước để thích hợp với sở
thích và thời trang của khách hàng.
Thứ ba, ngành may mặc xuất khẩu đã phát triển mạnh mẽ đặc biệt từ sau cải
cách theo chiến lược định hướng xuất khẩu. Điều quan trọng đối với các nhà xuất
khẩu là cần thay đổi sản phẩm để bắt nhịp với xu hướng thời trang, trên cơ sở đó,
các qui trình sản xuất được thực hiện sao cho linh hoạt, mềm dẻo trở nên hết sức
quan trọng.

Nhìn chung, ngành may xứng đáng là một trong những ngành chủ lực trong
chiến lược xuất khẩu của Ấn Độ. Đó cũng là một trong những ngành có thu nhập
ngoại tệ nhiều nhất ở Ấn Độ, chiếm gần 16% lượng hàng xuất khẩu của nước này.
Hàng may mặc của Ấn Độ được đánh giá cao tại các thị trường lớn ở Châu Âu, Mỹ,
các nước Bắc Âu và Úc. Chính sách tự do hoá nhập khẩu và hỗ trợ xuất khẩu thời kì
cải cách đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất Ấn Độ về
năng suất, công nghệ và mẫu mã với các đối thủ Châu Á khá hùng mạnh như Thái
Lan, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan.
1.4.4. Bài học kinh nghiệm từ các nước có thể áp dụng ở Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm của quá trình phát triển ngành dệt may
nói chung và ngành CNHT dệt may nói riêng của các nước trên, với các chính sách
và giải pháp mà các nước đã áp dụng để thúc đẩy sự phát triển của ngành CNHT, có
một số giải pháp hay và thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Và Việt Nam hoàn


toàn có thể học hỏi và áp dụng các chính sách đó một cách linh hoạt và hợp lý. Cụ
thể:
- Ở tầm vĩ mô quản lý nhà nước, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát
triển ngành tổng thể và đồng bộ, trong đó định hướng và quy hoạch rõ sự phát triển
cảu ngành dệt may nói chung và ngành CNHT nói riêng theo từng giai đoạn và quá
trình cụ thể. Qua đó xây dựng các chương trình và kế hoạch cụ thể với các cấp các
địa phương để tạo một sự phát triển đồng bộ có hệ thống, không chắp vá, nhỏ lẻ gây
khó khăn cho sự phát triển chung của ngành công nghiệp dệt may.
- Tận dụng tối đa lợi thế so sánh của Việt Nam có được bởi nguồn lao động
dồi dào và mức lương thấp so với các nước khác. Bên cạnh đó quy hoạch khai thác
những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng bông, dâu...Khai thác sử
dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, mục tiêu nâng cao tỷ lệ nội địa
hóa trong các sản phẩm dệt may, tạo lợi thế cho mặt hàng dệt may xuất khẩu
- Chú trọng đầu tư xây dựng một ngành dệt hoàn hảo, phục vụ tốt cho ngành
may trong nước hướng tới xuất khẩu. Trong đó vai trò định hướng và các chính sách

của chính phủ rất quan trọng. Thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ
xuất khẩu, chính sách thuế cho các ngành hỗ trợ, thu hút đầu tư nước ngoài bằng cơ
sở hạ tầng hiện đại, môi trường đầu tư thuận lợi.


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỔ TRỢ NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM.
2.1. Đánh giá chung về ngành DMVN hiện nay.
Ngành Dệt - May VN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Là
ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực
lượng lớn lao động, đồng thời đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng
góp một nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của
Ngành chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu
chiếm 14,6% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và đã tạo việc làm cho gần
một triệu lao động công nghiệp. Tuy vậy có thể thấy hiện nay mặc dù có nhiều lợi
thế và điều kiện khá thuận lợi song khả năng cạnh tranh của ngành DMVN hiện nay
đang rất thấp. Để thấy rõ thực trạng này, có thể đánh giá một số chỉ tiêu:
Điều kiện về cầu: Việt Nam hiện nay có dân số đông, gần 80 triệu người và
sẽ tiếp tục tăng lên nữa, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao vào loại cao nhất thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, bình quân các hộ gia đinh Việt Nam chi tiêu
trên 3% thu nhập cho may mặc. Điều này cho thấy thị trường nội địa đầy tiềm năng
với sức tiêu thụ lớn. Thêm vào đó. hiện nay, thị trường trong nước đang ngày càng
yêu cầu cao về chất lượng, dịch vụ đối với hàng dệt may, đây sẽ là động lực thúc
đẩy các DN thường xuyên cải tiến và đổi mới sản phẩm.
Cùng với sự dỡ bỏ hạn ngạch của WTO, thị trường nước ngoài đang đặt ra
những tiêu chuẩn cao đối với các sản phẩm không chỉ về mẫu mã, chất lượng mà
còn cả dịch vụ đi kèm. Điều này đòi hỏi các DN nếu muốn tồn tại và phát triển thì
phải không ngừng nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh, đáp ứng tốt nhất yêu cầu
của khách hàng.

Điều kiện về các yếu tố sản xuất: Các yếu tố sản xuất bao gồm yếu tố cơ bản và
yếu tố tiên tiến. Ngành DMVN được coi là có ưu thế: lao động dồi dào, ngành dệt
may có truyền thống lâu đời, vị trí địa lý thuận lợi…, đã tạo cho Việt Nam có điều
kiện về các yếu tố cơ bản khá đầy đủ. Tuy nhiên, các yếu tố tiên tiến như cơ sở hạ
tầng, thông tin liên lạc, viễn thông, nguồn nhân lực kỹ thuật cao (các kỹ thuật viên
đã qua đào tạo, các chuyên gia trong lĩnh vực dệt may) lại rất khan hiếm. Điều này
đã gây nhiều khó khăn cho ngành dệt may trong quá trình phát triển lên cấp độ cao,


tức là giai đoạn chuyển sang xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao,
đòi hỏi khả năng cạnh tranh cao hơn.
Điều kiện về chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành: Thời
gian qua, trên cơ sở xác định dệt may là ngành công nghiệp chủ đạo trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước đã thiết lập “Chiến lược phát
triển ngành dệt may đến năm 2010”. Đây là nền tảng giúp các DN DMVN có hướng
đi phù hợp với năng lực cạnh tranh của DN và đòi hỏi của tiến trình phát triển.
Trong nội bộ ngành dệt may đã xuất hiện nhiều DN có thành tích khá xuất sắc,
đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước thông qua hoạt động xuất khẩu, điều
này đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nội bộ ngành, thúc đẩy các DN cùng
nhau vươn lên.
Điều kiện về các ngành CNHT và các ngành liên quan: Ở các nước công
nghiệp phát triển, CNHT thường được phát triển đi trước một bước hoặc ngang
bằng so với ngành công nghiệp chính. Nhưng thực tế ở Việt Nam, ngành CNHT lại
phát triển rất yếu ớt, thể hiện qua việc 70-80% nguyên phụ liệu cho công nghiệp
xuất khẩu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
2.2. Các chính sách của nhà nước về phát triển CNHT ngành dệt may.
2.2.1. Quan điểm phát triển ngành CNHT dệt may Việt Nam hiện nay.
Như vậy, từ sự đánh giá các yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh ở trên có thể
thấy, bên cạnh những cơ hội về thị trường, lợi thế cạnh tranh của ngành DMVN nói
chung và lợi thế cạnh tranh quốc gia nói riêng đang bị ảnh hưởng lớn từ sự yếu kém

của CNHT, các yếu tố tiên tiến chưa phát triển đúng mức, các DN có cạnh tranh,
nhưng sự cạnh tranh này chỉ diễn ra trong nội bộ ngành, còn khả năng cạnh tranh
trên thị trường thế giới lại rất yếu.
Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam đã có định hướng các nhà đầu tư trong và
ngoài nước vào phát triển CNHT, nhất là đối với ngành dệt may. Đến nay, CNHT
dệt may của Việt Nam vẫn ở trong tình trạng kém phát triển với những biểu hiện nổi
bật là chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao và chủng loại nghèo nàn, không đáp
ứng một cách ổn định và có hiệu quả yêu cầu của các ngành hạ nguồn. Thực tế cho
thấy, ngành may xuất khẩu đang phải nhập khẩu đến 80% nguyên phụ liệu và gần
như toàn bộ các loại hoá chất, thuốc nhuộm từ nước ngoài.
Ngành CNHT trong nước còn non yếu dẫn đến sự phụ thuộc vào nguồn cung
ứng bên ngoài, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm thấp và dẫn đến hiệu quả xuất
khẩu thấp. Do đó, việc phát triển CNHT đang trở thành một vấn đề thu hút được sự


quan tâm không chỉ của các cơ quan hoạch định chính sách mà còn của chính các
DN ở khu vực hạ nguồn.
Bàn về vấn đề này hiện vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm về xây dựng và phát triển
CNHT, trong đó nổi bật lên 2 quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, với trình độ hiện tại, Việt Nam nên tập trung
phát triển khu vực hạ nguồn, đặc biệt là các ngành gia công nhằm phát huy lợi thế
về nhân công, việc phát triển CNHT cần được tiến hành từng bước trên cơ sở sự
phát triển của khu vực hạ nguồn. Quan điểm này đã được các nhà nghiên cứu Nhật
Bản nêu trong khuyến nghị: “Việc xúc tiến phát triển khu vực CNHT phải được
thực hiện theo qui trình 3 bước. (i) Việt Nam cần tiếp tục thu hút số lượng lớn vốn
đầu tư nước ngoài vào các ngành gia công hàng may; (ii) khi nhu cầu đối với khu
vực CNHT tăng đáng kể, cần tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành
CNHT cung cấp nguồn nguyên vật liệu cho các công ty nước ngoài, đồng thời
khuyến khích đầu tư trong nước vào các ngành này; (iii) nâng cao nội lực thông qua
chuyển giao công nghệ từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong quá trình này, Việt

Nam có thể thực hiện đan xen giữa các bước gần giống nhau nhưng không thể đốt
cháy giai đoạn…Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa hoàn thành được bước thứ nhất, đang
tập trung ở bước này nên những biện pháp tăng cường tỷ lệ nội địa hoá và chuyển
giao công nghệ khó có thể trở thành hiện thực”.
Quan điểm thứ hai cho rằng Việt Nam cần nhanh chóng phát triển CNHT, đặc
biệt là công nghiệp dệt may hoặc những ngành phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu
như lắp ráp xe máy, điện tử dân dụng, ô tô…Quan điểm này xuất phát từ tình trạng
phụ thuộc vào nước ngoài về các loại nguyên phụ liệu cho sản xuất sản phẩm, giá trị
gia tăng được tạo ra từ sản xuất trong nước thấp kém, kéo theo hiệu quả của sản
xuất và xuất khẩu thấp, khả năng sản xuất trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
2.2.2. Quy hoạch phát triển ngành CNHT ngành dệt may Việt Nam.
Quy hoạch phát triển công nghiệp dệt may đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020 đã được Bộ Công thương phê duyệt tại quyết định 42/2008/QĐ- BCT
ngày 19/11/2008. Quy hoạch đưa ra mục tiêu tổng quát phát triển ngành dệt may trở
thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu đảm
bảo cho các DN dệt may phát triển bền vững, hiệu quả. Giai đoạn 2008 đến 2010,
tăng trưởng sản xuất bình quân đạt 16% đến 18%, tăng trưởng xuất khẩu bình quân
đạt 20% và kim ngạch xuất khẩu đạt 12 tỷ USD vào năm 2010, 18 USD tỷ vào năm


2015, 20 USD tỷ vào năm 2020, sử dụng 2,5 triệu lao động đến năm 2010, 3 triệu
lao động đến năm 2020 v.v...
2.2.2.1. Quy hoạch sản phẩm chiến lược
- Tập trung sản xuất vải và phụ liệu phục vụ may xuất khẩu. Trong sản xuất
vải, khâu nhuộm và hoàn tất vải đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất
lượng vải đáp ứng yêu cầu của thị trường và của khách hàng. Đầu tư sản xuất vải
phải lựa chọn công nghệ tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giảm chi phí
nguyên liệu và thân thiện với môi trường;
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất bông, xơ, sợi tổng hợp và phụ

liệu, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và giảm dần nhập khẩu, tiết kiệm
ngoại tệ;
- Tăng cường đầu tư phát triển ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội của thị
trường. Các DN may cần đa dạng hoá và nâng cao đẳng cấp mặt hàng, tích cực thay
đổi phương thức sản xuất hàng xuất khẩu từ nhận nguyên liệu giao thành phẩm sang
mua đứt bán đoạn, đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh của các
DN may như các hoạt động thiết kế mẫu mốt, cung ứng nguyên phụ liệu, xúc tiến
thương mại.
Đến năm 2015 đáp ứng được 50% như cầu các sản phẩm xơ, sợi tổng hợp, đến
năm 2020 đáp ứng 80% nhu cầu sản xuất trong nước và sau năm 2020 bắt đầu thực
hiện xuất khẩu; phát triển vải dệt đến 2010 đáp ứng trên 30% nhu cầu, đến 2015 đáp
ứng khoảng 39% và đến 2020 đạt 40% nhu cầu vải dệt thoi. Tập trung sản xuất vải
và phụ liệu phục vụ may xuất khẩu, đẩy mạnh đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất
bông, xơ, sợi tổng hợp và phụ liệu để giảm dần nhập liệu, tiết kiệm ngoại tệ, tăng
cường đầu tư phát triển ngành may xuất khẩu
2.2.2.2. Quy hoạch theo vùng, lãnh thổ.
Đối với CNHT dệt may, quy hoạch theo vùng lãnh thổ, ngành này sẽ tập trung
vào các nội dung như hình thành 3 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ở phía Bắc,
Nam và miền Trung.
Cụ thể quy hoạch dệt may theo vùng lãnh thổ được phân bố ở các khu vực với
những định hướng chính:
- Khu vực I: Vùng đồng bằng sông Hồng
Quy hoạch theo định hướng lấy Hà Nội là trung tâm làm dịch vụ, cung cấp
nguyên phụ liệu, công nghệ, mẫu mốt, các cơ sở may sản xuất các sản phẩm có giá
trị gia tăng cao. Các cơ sở sản xuất di dời về các Khu công nghiệp ở các tỉnh như:


Hoà Xá (Nam Định), Nguyễn Đức Cảnh (Thái Bình), Phố Nối B (Hưng Yên), Đồng
Văn (Hà Nam), Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Ninh Bình. Tại khu vực này sẽ hình thành
một cụm công nghiệp may xuất khẩu và ba khu công nghiệp dệt nhuộm hoàn tất tập

trung. Đầu tư một nhà máy sản xuất xơ Polyester công suất 160.000 tấn/năm tại
Khu công nghiệp Đình Vũ (Hải Phòng).
- Khu vực II: Vùng Đông Nam Bộ
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại, thiết kế mẫu mốt, dịch vụ
công nghệ dệt may và các nhà máy may các sản phẩm thời trang, có giá trị gia tăng
cao. Di dời các cơ sở nhuộm, hoàn tất tại Thành phố Hồ Chí Minh về Khu công
nghiệp Long An và các tỉnh lân cận. Đây là khu vực đã phát triển nóng về dệt may
trong những năm qua, hiện đang gặp rất nhiều khó khăn về lao động nên không
khuyến khích đầu tư mới vào khu vực này để tránh sức ép về lao động.
- Khu vực III: Vùng duyên hải Trung bộ
Lấy Thành phố Đà Nẵng làm trung tâm để hình thành một cụm công nghiệp
may xuất khẩu và một số Khu công nghiệp dệt nhuộm - hoàn tất tại Hoà Khánh (Đà
Nẵng), Quảng Trị.
- Khu vực IV: Đồng bằng sông Cửu Long
Lấy Thành phố Cần Thơ làm trung tâm để hình thành một cụm công nghiệp
may xuất khẩu và một khu công nghiệp dệt nhuộm tập trung tại Trà Vinh.
- Khu vực V: Vùng Đông Bắc và Tây Bắc bộ
Quy hoạch theo hướng bố trí một Khu Công nghiệp dệt tại Phú Thọ, các nhà
máy may bố trí ở các tỉnh. Phát triển vùng trồng bông, nguyên liệu tơ tằm ở Sơn La,
Điện Biên.
- Khu vực VI: Vùng Bắc Trung bộ
Quy hoạch theo hướng bố trí các DN dệt may theo trục quốc lộ 1 với một số
cụm, điểm công nghiệp tại Bỉm Sơn (Thanh Hoá), Vinh (Nghệ An), Huế (Thừa
Thiên Huế). Hình thành ba khu công nghiệp dệt nhuộm tập trung tại Diễn Châu
(Nghệ An), Hà Tĩnh, Quảng Trị trong giai đoạn từ 2012 đến 2015.
- Khu vực VII: Vùng Tây nguyên
Định hướng đẩy mạnh chuyên môn hoá các cây nguyên liệu dệt như dâu tằm,
bông... gắn liền với chế biến tạo ra các sản phẩm cho thị trường xuất khẩu và nội
địa. Đồng thời kết hợp phát triển các cơ sở may phục vụ nội địa hoặc làm vệ tinh
cho ngành may của khu vực II và khu vực III.



Quy hoạch đưa ra hệ thống các giải pháp và chính sách thực hiện Quy hoạch.
Các DN trong ngành dệt may tổ chức và mở rộng mạng lưới bán lẻ trong nước,
quan tâm đến việc xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm, xây dựng hình ảnh
ngành DMVN “chất lượng-trách nhiệm-thân thiện môi trường” trên thị trường quốc
tế. Hiệp hội Dệt May và Tập đoàn DMVN là đầu mối để phối hợp và liên kết với
các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước triển khai Chương trình đào tạo nguồn nhân
lực cho ngành. Tập đoàn DMVN có trách nhiệm phát triển đầu tư những dự án dệt
may có quy mô lớn.
Theo số liệu của Tập đoàn DMVN, diện tích quy hoạch sản xuất bông đến
2020 trên toàn quốc là 76.000 ha. Trong đó, các tỉnh Tây Nguyên khoảng 32.000 ha,
Nam Trung Bộ 27.000 ha, Trung Bô 12.000 ha và miền Bắc trên 2.000 ha.
Về quy hoạch phát triển trang trại: tỉnh Bình Thuận sẽ đầu tư 10 trang trại với
diện tích 1.300 ha; Ninh Thuận với 5 trang trại, diện tích 2.800 ha; Đăk Lắk 10
trang trại, diện tích trên 4.500 ha; Gia Lai 12 trang trại, diện tích 3.450 ha; Đắk
Nông 7 trang trại, diện tích 2.400 ha;...
Ngoài các chính sách tăng diện tích và trang trại trồng bông, các chính sách
đầu tư về công trình thủy lợi trọng điểm cũng được đẩy mạnh như: Dự án tưới Phan
Rí – Phan Thiết, khởi công 2009...
2.2.3. Chính sách vốn:
2.2.3.1. Vốn cho đầu tư phát triển
Để giải quyết vốn cho đầu tư phát triển, ngành DMVN huy động vốn từ các
thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh,
công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hoá các DN, DN có 100% vốn đầu tư
nước ngoài. Khuyến khích các DN huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán
(phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều kiện có
hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ.
Ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí để đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng,
các công trình thủy lợi, hệ thống tưới tiêu tại các vùng được quy hoạch trồng bông

vải có tưới tập trung
2.2.3.2. Vốn cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực và xử lý môi
trường.
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các Viện
nghiên cứu, các Trường đào tạo trong ngành DMVN để tăng cường cơ sở vật chất


×