Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

MỘT SỐ ĐỀ ĐÁP ÁN VĂN NGHỊ LUẬN( ÔN VÀO LỚP 10 -2009)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.66 KB, 16 trang )

SƯU TẦM
ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN 9
Đề 1: Trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nhân vật Trương Linh vội
tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương ruồng rẫy và đánh đuỗi
nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn.
Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết nào trong truyện tác
giả muốn hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau thương cho Vũ Nương.
Những nguyên nhân nào làm cho thảm kịch đó vẫn diễn ra dẫn đến cái chết đau
thương cũa người phụ nữ đức hạnh?
Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó.
HƯỚNG DẪN
1. Đọc kĩ tác phẩm, nắm vững chi tiết, độc lập suy nghĩ để tìm ra những chi tiết
mà đề yêu cầu. Tài thắt nút và mở nút là ở chỗ ấy. Mỗi em tìm tòi theo cách của
mình miễn là hợp lí.
2. Bình luân về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương. Có nguyên nhân trực tiếp do
tính nết cá nhân của Trương Linh và nguyên nhân sâu xa của chế độ xã hội từ đó
tìm ra ý nghĩa tố cáo và nhân đạo của tác phẩm.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ
XVI, một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam. Truyện “Người con
gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm.
Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng
là Trương Linh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lai đa nghi. Triều đình bắt
lính, Trương Linh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới
được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân
kết thúc, Trương Linh trở về thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận
Trương Linh làm bố. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết
nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ông đêm
nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế
Đản cả.”
Tính Trương Linh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu


oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy
xuống sông tự vẫn.
Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện không phải không hé mở khả năng có thể dễ
dàng tránh được thảm kịch đau thương đó. Tài kể chuyện của tác giả là ở chỗ đó, cởi
ra rồi lại thắt vào đẫy câu chuyện đi tới, khiến người đọc hứng thú theo dõi và suy
nghĩ, chủ đề của tác phẩmtừng bước nổi lên theo dòng kể của câu chuyện. Lời con
trẻ nghe như thật mà chứa đựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được, nếu
Trương Linh biết suy nghĩ, người cha gì mà lạ vậy: “không biết nói, chỉ nín thin thít”
chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “cái máy” - “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản
ngồi cũng ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu đố, giảng giải được
thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nhưng Trương Linh cả ghen, ít học,
thiếu suy nghĩ, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái chết
oan uổng của người vợ mà chàng không phải không có tình yêu thương. Tất nhiên
sự đời có thế mới thành chuyện, vả lại trên đơì làm gì có sự ghen tuông sáng suốt.
Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Linh
kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở

SƯU TẦM
một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này,
một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ
vào bóng mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương Linh mới tỉnh ngô, thấu hiểu
nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương không còn nữa trên đời.
Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ
ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuyện thường tình đầy tai
hoạ này. Vũ nương không may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp
dẫn nàng đến cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự
thực vẫn là sự thực!cái chết oan uổng quá và người chồng độc đoán quá!
Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện
không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến cái
chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài

khuôn khổ cuả một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh
của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai hoạ có thể xảy ra
bất cứ lúc nào đối với họ mà những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi rất lạ lùng
không thể lường trước được. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã
suy vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông đặc
đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông của
cá nhân cộng với tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương Sinh
độc đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý kiến của người
khác. Đứa trẻ nói thì tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thiết thì nhất định
không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng ăn thua gì. Hậu quả
là cái chết thảm thương của Vũ nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong kiến
bất công cùng chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ
cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.
Đề 2: Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ
XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện
người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh
Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ,
hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa.
Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên
đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông
Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu
vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập
đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long
Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng
ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người chồng

nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.

SƯU TẦM
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc
lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư
dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn
phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi
chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động,
nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày
tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm
mong ước được đoàn tụ ... làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách
biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể
nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc
khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ
đẻ mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị
nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con
kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận
mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn
gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh
vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết:
“Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là
hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không
còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá....
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày,
cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời
khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.

Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên
xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ...” lời khấn nguyện đã
làm cho người đọc xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống
để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ
đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước
cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của
nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
- một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực
hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun
đắp hạnh phúc gia đình, .... lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một
cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực
nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ
thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo,
gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng
(thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng
“nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa

SƯU TẦM
quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương
Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua
đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ
kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông
đêm nào cũng đến...”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy.
Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của

vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen
hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành
động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một
thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt
trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều
khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau
nỗi oan của người thiếu phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người
phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du,
người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ
duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, ...
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn
Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những
đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật
bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét
thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật
của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu
óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của
một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong
trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của
chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm
kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp
xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn biến
tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời
lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời
của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật
thà.

Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh
tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ
Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ
chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những
giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và
hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền
gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những
yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan
Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên

SƯU TẦM
sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ
thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền
kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương
muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà
không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa
nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong
xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy
rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp
hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng
con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới.
Đề 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ.
BÀI THAM KHẢO:
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước
ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truền kì mạn
lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ

nữ đếp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ
của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI.
Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng
người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng
Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương... “
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ
nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh
oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc
động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nươn và dễ
dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với
mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu
đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một
người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù
Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia
đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như
chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn
chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong
chàng ái gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”..., “thư

SƯU TẦM
tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa...”, “ là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-
hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến

chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của
Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng
của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc
thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời.
Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất
là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ
Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể
hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng
phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ... “
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng
thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ
Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày
Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó.
Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là
cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân
gây ra cái tội thậtt vô tình).
Nôi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc
đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời
đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông
vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà
con, cô bác, trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng
ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ
rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh
trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất
vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất
vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm
đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi
không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ

phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội
tình gì. Mãi đến sau cái chết đo, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình.
chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi
dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ
nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tuông
ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như Trương
Sinh- là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công-
“chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.

×