Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Ngiên cứu phân lập và giám định một số đặc điểm sinh hóa của vi khuẩn Actinobaccilus pleuropneumoniae gây viêm phổi lợn tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 60 trang )

1

MỤC LỤC


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
A. pleuropneumoniae:

Actinobacillus pleuropneumoniae

AGID:

Agargel Immuno Diffuse

AGPT:

Agar Gel Precipitin Test

bronchiseptica:

Bordetella bronchiseptica

BHI:

Brain Heart Infusion

CAMP:

Christie - Atkinson - Munch - Peterson



Es:

Công sự

D.S.A:

Dextrose Starch Agar

DNA:

Deoxyribo Nucleic Acid

ELISA:

Enzyme - Linked Immuno Sorbant Assay

Fg :

Greenish Fluorescent

F0:
parasuis:

Orange Fluorescent
Haemophilus parasuis

pleuropneumoniae :

Haemophilus pleuropneumoniae


M. hyopneumoniae:

Mycoplasma hyopneumoniae

MR:

Methyl red

MT:

Môi trường

NAD:

Nicotinamide Adenine Dinucleotide

PBS:

Phosphat buffer solution

Nf:

Not Fluorescent

P. multocida:

Pasteurella multocida

PCR:


Polymerase Chain Reaction

PRRS:

Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome

TSA:

Tryptic Soy Agar

VK:

Vi khuẩn

VP:

Voges - Proskauer


3

VPDS:
YPC:

Viêm phổi dính sườn
Yaest extract pepton, L.cystine
DANH MỤC BẢNG



4

DANH MỤC HÌNH


5

Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, chăn nuôi lợn ở nước ta có sự phát triển mạnh mẽ theo
hướng chăn nuôi công nghiệp tập trung, đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế xã
hội ở các địa phương. Tuy nhiên xu hướng lại không theo tính quy hoạchdẫn đếntình
trạng giá heo giảm do đầu ra không đảm bảo.Theo Bộ NN&PTNT sau nhiều tháng
chạm đáy, giá lợn hơi những tháng cuối năm đang có dấu hiệu tăng trở lại nhưng vẫn
không đủ để người chăn nuôi có lãi. Tình trạng giá thấp kéo dài, khó khăn trong
khâu tiêu thụ khiến người chăn nuôi lợn giảm đàn, bỏ đàn, treo chuồng. Theo kết quả
điều tra chăn nuôi kỳ 01/10/2017, đàn lợn cả nước có 27,4 triệu con; giảm 5,7%; sản
lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 3,7 triệu tấn; tăng 1,9%.Không những gặp nhiều
rủi ro về giá cả, thị trường, chăn nuôi lợn còn gặp vấn đề khó khăn và nan giải đó là
các loại dịch bệnh luôn tiềm ẩn, ảnh hưởng nhiều tới hiệu quả sản xuất.
Trong các bệnh thường gặp và gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi lợn hiện
nay ngoài các bệnh truyền nhiễm thường gặp thì bệnh viêm phổi đóng một vai trò
quan trọng trong việc gây tổn thất lớn cho chăn nuôi lợn ở nước ta. Bệnh viêm phổi
do vi khuẩn là một trong những nguyên nhân chính gây chết nhiều lợn tại các địa
phương hiện nay, với nhiều căn nguyên gây bệnh và bệnh lại rất đa dạng, triệu chứng
bệnh khác nhau. Đặc biệt là bệnh viêm phổi- viêm phổi màng phổi, do
Actinobaccilus pleuropneumonie gây tổn thất nghiêm trọng cho người chăn nuôi.
Vi khuẩn A.pleuropneumoniae gây ra dưới thể viêm phổi đã gây chết rất nhiều
lợn ở các lứa tuổi, đặc biệt quan trọng là lợn mắc bệnh viêm phổi màng phổi bị chết.

Ngoài vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae serovar 2 và 5 thường gặp gây ra
chiếm tỷ lệ cao thì có thể còn do các serovar khác như 1, 7, 9... gây ra. Do đó rất cần
được quan tâm nghiên cứu để có biện pháp làm giảm thiệt hại do vi khuẩn A.


6

pleuropneumoniae gây ra. Nếu không có biện pháp ngăn ngừa thì khả năng lây lan
rất cao gây thiệt hại lớn cho đàn lợn nuôi. Vì vậy, việc nghiên cứu phân lập và xác
định một số đặc điểm sinh hóa của vi khuẩn là rất cần thiết từ đó biết được vai trò
gây ra một số đặc điểm triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh viêm phổi- viêm
phổi màng phổi. Kết quả này có thể sử dụng để tiếp tục những nghiên cứu sâu hơn
nhằm chẩn đoán nhanh bệnh, biện pháp phòng và trị do vi khuẩn
A.pleuropneumoniae gây ra.
Để có cơ sở xây dựng biện pháp phòng bệnh đạt hiệu quả cao, góp phần xác
định đúng pháp đồ điều trị, giảm thời gian điều trị và nâng cao hiệu quả điều trị, thúc
đẩy chăn nuôi gia súc nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng phát triển bền vững, tạo
ra sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm, có sức cạnh tranh cao trên thị trường, chúng
tôi tiến hành đề tài: "Ngiên cứu phân lập và giám định một số đặc điểm sinh hóa
của vi khuẩn Actinobaccilus pleuropneumoniae gây viêm phổi lợn tại Thái
Nguyên”
1.2. Mục tiêu của nghiên cứu:
- Phânlập, xác địnhđặc điểm nuôi cấy, đặc tính sinh hóa của
A.pleuropneumoniaegây bệnh viêm phổi ở lợn tại Thái Nguyên.
- Xác định được triệu chứng, bệnh tích lợn bị bệnh viêm phổi dính sườn do vi
khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae gây ra.
- Xác định độ mẫn cảm của vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae với
kháng sinh.
- Đưa ra phác đồ điều trị nhanh và đạt hiệu quả đối với bệnh viêm phổi dính sườn
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượngnghiên cứu:
- Lợn ở các lứa tuổi nghi mắc bệnh viêm phổi do vi khuẩn Actinobacillus
pleuropneumoniae gây ra ở địa bàn tỉnh Thái Nguyên.


7

- Vi khuẩn gây viêm phổi lợn: Vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Một số địa điểm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và phòng thí nghiệm công ty
Marphavet.
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
* Ý nghĩa khoa học
- Phân lập,xác định vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniaegây bệnh viêm
phổi ở lợn tại Thái Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học phục vụ cho nghiên cứu tiếp
theo về bệnh viêm phổi- màng phổi ở lợn.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài đánh giá được vai trò vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae
trong hội chứng PRRS. Điều này phục vụ cho công tác phòng và điều trị bệnh viêm
phổi- màng phổi ở lợn.


8

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm của vi khuẩn A.pleuropneumonia
2.1.1. Hình thái, kích thước và đặc tính nuôi cấy
Vi khuẩnActinobacillus pleuropneumoniaethuộc họ Pasteurellae, thuộc giống

Actinobacillus, trước đây còn có tên là Haemophilus parahaemolyticushay
Haemophilus pleuropneumoniae đã được xác định là nguyên nhân chính gây nên
bệnh viêm phổi - màng phổi truyền nhiễm ở lợn. A. pleuropneumoniae là vi khuẩn có
dạng cầu trực khuẩn nhỏ, bắt màu gram âm, kích thước khoảng0,3-0,5 x 0,6-1,4 µm.
Vi khuẩn không di động, không sinh nha bào, có khả năng hình thành giáp mô, tuy
nhiên một số chủng không có giáp mô cũng đã được quan sát thấy. Dưới kính hiển vi
điện tử phát hiện vi khuẩn có nhung mao với kích thước 0,5-2 x 60-450 nm. Loại có
vỏ (capsule) là polysaccharide được tìm thấy ở hầu hết các serotype của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae,còn loại không có vỏ thì ít tìm thấy hơn. A.pleuropneumoniae là
một loại vi khuẩn khó phân lập trên các môi trường thông thường và thường phụ
thuộc vào yếu tố V (hay chính là NAD: Nicotinamide Adenine Dinucleotide).
Dovậy, khi nuôi cấy A.pleuropneumoniae cần các môi trường giàu dinh dưỡng. Trên
môi trường thạch máu vi khuẩn không phát triển trên môi trường thạch máu thông
thường mà chỉ có thể mọc trên thạch máu đã được bổ sung NAD hoặc có cấy kèm vi
khuẩn S. aureus. Sau 24 giờ nuôi cấy, vi khuẩn phát triển thành khuẩn lạc mọc xung
quanh đường cấy S. aureusvới kích thước 0,5-1 mm và hình thành một vùng dung
huyết β. Vùng dung huyết này thường được quan sát rõ hơn trên môi trường thạch có
bổ sung 5-7% máu cừu. Ngoài ra, vi khuẩn A. pleuropneumoniae còn gây một vùng
dung huyết tăng cường trong vùng dung huyết bán phần, xung quanh đường cấy S.
aureuscó độc tố dung huyết β gọi là hiện tượng CAMP (Kilian, 1976) [26]. Hiện
tượng CAMP này liên quan tới sự có mặt của 3 loại độc tố của A. pleuropneumoniae


9

bao gồm ApxI, ApxII và ApxIII.
Trên môi trường TSA: Trong thành phần của môi trường này được bổ sung
Yeast Extract (YE) và huyết thanh ngựa. Sau 24 - 48 giờ nuôi cấy, vi khuẩn tạo thành
khuẩn lạc nhỏ, màu trắng trong, dưới ánh sáng đèn điện có màu xám xanh.
Trên môi trường thạch chocolate: Sau 24 giờ nuôi cấy, vi khuẩn tạo thành

khuẩn lạc nhầy, màu trắng xám. Vi khuẩn A. pleuropneumoniae thuộc biotype 1 có
thể phân biệt được với H. parasuis bởi khả năng gây dung huyết trên thạch máu khi
có S. aureus cấy kèm (Kilian M., 1976) [26].
2.1.2. Đặc tính sinh hóa
Vi khuẩn A.pleuropneumoniae lên men đường glucose, xylose, mannitol,
mannose và không lên men đường arabinose, lactose, raffinose, sorbitol. Dương tính
với phản ứng urease, oxidase, CAMP, O.N.P.G, âm tính với phản ứng sinh Indol và
không mọc trên thạch MacConkey (Trịnh Quang Hiệp và cs, 2004 [5]; Cù Hữu Phú
và cs, 2005 [6]; Đặng Xuân Bình và cs, 2007 [2]; Nguyễn Thị Thu Hằng, 2010 [4]).
2.1.3.Cấu trúc kháng nguyên
Vi khuẩn A. pleuropneumoniae từ lâu đã được nhiều nghiên cứu xác định là
nguyên nhân chính gây nên bệnh viêm phổi - màng phổi ở lợn và được chia thành 2
biotype chính dựa trên nhu cầu cần sử dụng NAD (Nicotinamide Adenine
Dinucleotide) hay còn gọi là yếu tố V cho quá trình sinh trưởng của vi khuẩn.
Biotype 1 cần có NAD, còn biotype 2 thì không đòi hỏi NAD trong quá trình nuôi
cấy, song vẫn cần có các pyridine nucleotid đặc hiệu hoặc các chất tiền thân của
pyridine nucleotid cho quá trình tổng hợp NAD. Biotype 1 có độc lực cao hơn
biotype 2. Biotype 1 có 12 serotype khác nhau dựa trên sự khác nhau của capsule
polysaccharide (CPS) và của lipopolysaccharide (LPS) thành tế bào. Ở biotype 2 có
serotype 2, 4, 7 và 9 có chung nhóm quyết định kháng nguyên như biotype 1. Trong
những năm gần đây, serotype 13 và 14 thuộc biotype 2 được phát hiện và được mô tả


10

có kháng nguyên khác với biotype 1 (Nielsen và cs, 1997) [34]. Blackall và cs
(2002) [9] đã phát hiện ra serotype 15 thuộc biotype 1 ở 9 chủng vi khuẩn phân lập
được tại Australia.
2.1.4. Các yếu tố độc lực
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy độc lực ở các serotype khác nhau của vi khuẩn

A. pleuropneumoniae phần lớn được quyết định bởi các ngoại độc tố mà chúng sản
sinh ra (Devenishvà cs, 1990 [13]; (Freyvà Bosse, 1993) [18]). Polysaccharide vỏ,
lipopolysaccharide, protein màng, protein thu nhận sắt, yếu tố bám dính, ngoại độc tố
và một vài loại enzym có liên quan cũng đóng vai trò quan trọng đối với độc lực của
vi khuẩn A. pleuropneumoniae. Hiểu biết về thành phần và cấu trúc kháng nguyên
chủ yếu liên quan đến độc tính, độc lực của vi khuẩn sẽ cung cấp các thông tin quan
trọng, là cơ sở khoa học cho việc phát triển kỹ thuật chẩn đoán huyết thanh đặc hiệu
cũng như chế tạo vaccine phòng bệnh.
- Vai trò của ngoại độc tố (Exotoxin): Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mức độ
độc lực khác nhau của các serotype vi khuẩn A. pleuropneumoniae phần lớn có liên
quan đến ngoại độc tố (Apx) sản sinh từ vi khuẩn và đóng vai trò chính trong quá
trình gây bệnh cho lợn (Devenish và cs, 1990 [13]. Các nhà khoa học đã xác định
độc lực của vi khuẩn A.pleuropneumoniae có liên quan đến bốn loại protein độc tố.
Các độc tố này được xếp vào nhóm RTX-toxin và đặt tên là độc tố Apx, bao gồm
ApxI,ApxII, ApxIII (Frey và Bosse, 1993) [18]; Cho và Chae, 2001 [11]). Tính độc
của mỗi loại độc tố này có thể thay đổi và phụ thuộc vào các serotype khác nhau của
vi khuẩn A. Pleuropneumoniae.
+ ApxII là độc tố làm tan huyết, gây dung giải tế bào ở mức độ trung bình và
có trọng lượng phân tử khoảng 103 -105 kDa (Frey và Nicolet, 1988) [16]. Trước
đây ApxII được gọi là HlyII, ClyII hay CytII (Frey và Nicolet, 1990) [17]. Tất cả các
serotype của A. pleuropneumoniae đều tiết ApxII, ngoại trừ serotype 10 và 14


11

(Kamp và cs, 1994 [25]; Rayamajhi và cs, 2005 [36]).
Operon mã hóa ApxII chỉ chứa các gen apxIICA và thiếu các gen bài tiết
tương ứng. Sự tiết ApxII phụ thuộc vào gen apxIBD và gen này được tìm thấy ở tất
cả các serotype của A. pleuropneumoniae, ngoại trừ serotype 3.
+ ApxIII là độc tố không làm tan huyết, nhưng lại là độc tố dung giải tế bào

mạnh với trọng lượng phân tử 120 kDa. Trước kia ApxIII được đặt tên là cytolysin
III (ClyIII), độc tố viêm màng phổi - pleurotoxin (Ptx), hay độc tố chống đại thực
bào - macrophage toxin (Mat) (Rycroft và cs, 1991a [37]; Macdonald và Rycroft,
1992 [29]; Jansen và cs, 1993 ). ApxIII được phân biệt với 2 độc tố ApxI và ApxII
do không gây dung huyết, nhưng lại gây dung giải mạnh các tế bào khác. ApxIII
giống 50% với ApxI và HlyIcủa vi khuẩn E. coli (Jansen và cs 1993). Vùng gen
điều hòa (operon) mã hóa cho ApxIII chứa các gen apxIIICABD và giống với vùng
gen điều hòa (operon) cho apxI(Chang và cs, 1993) [10]. Protein độc tố ApxIII được
tiết ra bởi serotype 2; 3; 4; 6; 8 và 15 của A. pleuropneumoniae(Rayamajhi và cs,
2005) [36].
+ ApxIV (ApxIVA) là độc tố RTX thứ 4 của A. pleuropneumoniae đã được
phát hiện và đề xuất đặt tên là ApxIVA. Gen ApxIVA được phát hiện thấy ở tất cả các
serotype của A. pleuropneumoniae và điều đó chứng tỏ nó có tính chất đặc trưng cho
loài. Vai trò của độc tố ApxIV với vật chủ như thế nào trong quá trình gây bệnh hiện
chưa được nghiên cứu kỹ, song đã có một số công trình nghiên cứu chứng minh sự
tồn tại của ApxIVA trong cơ thể sống và được tạo ra từ gen độc tố của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae (Liu và cs, 2009).
Không có serotype nào của A. pleuropneumoniae có khả năng sản sinh ra cả
ba loại độc tố Apx, chủ yếu là có khả năng tạo ra 2 độc tố. Các serotype 1; 5; 9; 11 và
13 sản sinh ra ApxI và ApxII; serotype 2; 3; 4; 6; 8 và 15 sản sinh ra ApxII và
ApxIII. Một số lượng nhỏ các serotype chỉ sản sinh một độc tố Apx như serotype 10


12

sản sinh ApxI, serotype 7 và serotype 12 sản sinh ApxII (Frey và Nicolet, 1990 [17];
Frey và cs, 1993 [18], 1994 [19]). Độc lực của các serotype A. pleuropneumoniae
thay đổi từ mức độ mạnh đến yếu. Sự thay đổi này tùy thuộc vào loại độc tố mà mỗi
serotype tiết ra. Những serotype sản sinh ra một hoặc hai độc tố thường có độc lực
mạnh hơn những serotype không sản sinh ra độc tố (Frey và Nicolet, 1990) [17]. A.

pleuropneumoniae serotype 5 thể đột biến không sản sinh ra ApxI hoặc ApxII đã
không còn độc lực đối với lợn hoặc chuột thí nghiệm. Điều này cho thấy độc tố là
yếu tố quan trọng xác định độc lực của vi khuẩn A. pleuropneumoniae serotype 5.
Đồng thời tác giả đã làm thí nghiệm gây đột biến các chủng A. pleuropneumoniae
serotype 5 để không sản sinh ra ApxI hoặc ApxII và sau đó dùng các chủng đã đột
biến làm giống gốc sản xuất vaccine cũng cho thấy động vật thí nghiệm không có
khả năng bảo hộ đối với các chủng tự nhiên. Kết quả nghiên cứu chứng minh các
độc tố là cần thiết để kích thích đáp ứng miễn dịch chống lại khả năng gây bệnh của
các chủng A. pleuropneumoniae serotype 5.
Thành phần heptose và glucose trong LPS của A. pleuropneumoniae cao hơn
so với ở một vài loài vi khuẩn Gram âm khác như E. coli. Jensen và Bertram (1986)
[24] đã tìm thấy LPS từ vi khuẩn A. pleuropneumoniae có độc lực cao thuộc
serotype 5 có nhiều galactose hơn thể phân lập không độc cùng serotype 5. LPS
thành tế bào có ý nghĩa quan trọng trong việc gây ra đáp ứng miễn dịch của vật chủ
sau khi A. pleuropneumoniae xâm nhiễm.
- Polysaccharide vỏ vi khuẩn (Capsule polysaccharide - CPS):Vi khuẩn A.
pleuropneumoniae được bao bọc bên ngoài bởi một lớp vỏ có bản chất là các
polysaccharide. Lớp vỏ polysaccharide này tích điện âm và được cấu tạo bởi các đơn
vị Oligosaccharide, các polymer của axit teichoic gắn kết với nhau bởi các cầu nối
phosphate diester, hoặc các polymer Oligosaccharide gắn kết với nhau bởi các cầu
nối phosphate. Polysaccharide vỏ vi khuẩn là một trong những thành phần quyết


13

định độc lực của vi khuẩn và cũng là một nhân tố quyết định tính đặc hiệu serotype
của vi khuẩn (Ward và Inzawa, 1997) [38]. Polysaccharide vỏ vi khuẩn là yếu tố xác
định đặc trưng của hiện tượng phát ánh ngũ sắc trên bề mặt khuẩn lạc trong môi
trường nuôi cấy. Lớp vỏ của A. pleuropneumoniae có độ dầy từ 80 - 230 nm tùy
thuộc vào các serotype khác nhau. Đã có những ý kiến cho rằng sự khác biệt về độ

dầy lớp vỏ dẫn đến sự khác nhau về độc lực. Các chủng A. pleuropneumoniae độc
lực cao có lớp vỏ dầy, trong khi một số chủng không độc có lớp vỏ mỏng hoặc dễ
dàng bị phá vỡ. Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy những chủng có độc lực
có kích thước lớn hơn và có lớp vỏ bám dính dầy hơn so với những chủng ít độc; lớp
vỏ của vi khuẩn A. pleuropneumoniae không chỉ có ý nghĩa trong quá trình gây bệnh
mà còn có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và dịch tễ.
Các serotype có lớp vỏ dầy có độc lực mạnh hơn so với các serotype có lớp vỏ
mỏng (Jensen và Bertram, 1986 [24]; Jacobsen và cs, 1996 [22]). Điều này cho thấy
lớp vỏ vi khuẩn có thể là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến độc lực của các
serotype khác nhau. Lớp vỏ của A. pleuropneumoniae có đặc tính chống lại thực bào
và được coi là lá chắn chủ yếu của vi khuẩn chống lại hệ thống bảo vệ của vật chủ.
Những chủng A. pleuropneumoniae có vỏ bình thường có khả năng kháng lại với
hiện tượng tiêu diệt vi khuẩn qua trung gian bổ thể của huyết thanh lợn khi có kháng
thể đặc hiệu. Ngược lại, với các chủng A. pleuropneumoniae đột biến thiếu hụt vỏ thì
bị tiêu diệt bởi huyết thanh bình thường. Cơ chế mà lớp vỏ vi khuẩn tạo nên sự
kháng lại các hoạt tính diệt khuẩn đã được phát hiện, cho thấy thành phần cấu thành
lớp vỏ vi khuẩn không ngăn cản hoạt hóa bổ thể hay sự kết dính của C3 (một thành
phần của bổ thể) lên vi khuẩn nhưng lại hạn chế lượng kháng thể và sự lắng đọng bổ
thể C9 lên bề mặt vi khuẩn trong huyết thanh bình thường.
- Các protein màng ngoài (Outer membrane proteins - OMPs):Protein màng
ngoài của A. pleuropneumoniae có trọng lượng phân tử 43 kDa và có thể thay đổi


14

tùy theo hàm lượng NAD cung cấp trong môi trường nuôi cấy. Các protein mang sắt
nằm trên màng ngoài, sau đó các đặc tính cùng chuỗi gen của chúng cũng được
Gonzalez và cs (1995) [22]; Chung và cs (2007) [12] nghiên cứu xác định. Vi khuẩn
A. pleuropneumoniae sản sinh một vài loại protein màng ngoài (OMPs) và các
protein này được cho là có vai trò trong đáp ứng miễn dịch. Hơn nữa, các kháng thể

kháng OMPs của A. pleuropneumoniae được chứng minh tác động như một chất
opsonin quan trọng chống đại thực bào và bạch cầu đơn nhân. A. pleuropneumoniae
có khả năng tổng hợp hai protein mới khi được nuôi trong môi trường thiếu sắt và có
các kháng thể chống lại chúng. Hiện tượng xuất hiện các polypeptid này chỉ có được
ở trong cơ thể sống. Các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy có một số receptor
transferrin đặc hiệu ở lợn và khả năng phát triển của A. pleuropneumoniae với
transferrin vận chuyển sắt. Các phân tích về mặt di truyền các yếu tố mã hóa cho
receptor các protein transferrin được nhận dạng bởi hai gen nằm trên một operon.
Theo quy định gen tbpB (mã hóa cho protein Tbp2 có khối lượng phân tử dao động
từ 59,8 đến 65,5 kDa) và gen tbpA (mã hóa cho protein Tbp1 với trọng lượng chính
xác 102,2 kDa). Theo các chứng minh ngược dòng trên operon tbp gợi ý rằng các
ion sắt ở môi trường điều khiển gen tbp qua protein Fur (Gerlach và cs, 1992) [20].
- Các protein thu nhận sắt:Khả năng cạnh tranh và hấp thụ sắt được xem là
một trong những yếu tố độc lực quan trọng của A. pleuropneumoniae giúp vi khuẩn
tồn tại trong cơ thể vật chủ. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy vi khuẩn A.
pleuropneumoniae có thể sử dụng transferrin của vật chủ (Gerlach và cs, 1992) [20]
và hemoglobin (Archambault và cs 1999) [7], cũng như sử dụng các loại siderophore
khác nhau của nhiều vi sinh vật khác (Diarra và cs, 1996) làm nguồn cung cấp sắt
cho sinh trưởng. Các nghiên cứu cũng đã xác định chắc chắn có sự tồn tại của các
thụ thể trên bề mặt màng tế bào A. pleuropneumoniae đặc hiệu cho các nguồn thu
nhận sắt. Nghiên cứu của Jacques (2004) [23] cho biết vi khuẩn A.


15

pleuropneumoniae cóprotein gắn kết hemoglobin và các receptor ferric
hydroxamate. Chính protein gắn transferrin đã giúp cho A. pleuropneumoniae được
cung cấp đầy đủ sắt trong một thời gian ngắn sau quá trình xâm nhập gây nhiễm
trùng.
- Các yếu tố độc lực khác: Ngoài các yếu tố độc lực chính như trên vi khuẩn

A. pleuropneumoniae còn có một số thành phần khác cũng có vai trò quan trọng
trong sinh bệnh học, bao gồm:
+ Fimbriae là yếu tố bám dính chính lên tế bào niêm mạc đường hô hấp của
vật chủ của A. pleuropneumoniae trong quá trình xâm. Dưới kính hiển vi điện tử,
fimbriaecó đường kính từ 0,5 - 2 nm, dài từ 60 - 450nm.
+ Ngưng kết tố: Hiện tượng ngưng kết hồng cầu đã được xác định ở một số
chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae phân lập được, tuy nhiên cũng có một số
chủng A. pleuropneumoniae không có đặc tính ngưng kết cũng đã được xác định.
+ HlyX protein: Vi khuẩn A. pleuropneumoniae có chứa gen hlyX (cfp) quy
định khả năng dung giải hồng cầu, biểu hiện phản ứng CAMP có mặt ở hầu hết các
chủng A. pleuropneumoniae phân lập được (Macdonald và Rycroft, 1993) [30].
+ Protease: Vi khuẩn A. pleuropneumoniae tiết ra protease có khả năng phân
giải gelatin, IgA, IgG và hemoglobin.
+ Enzym superoxide dismutase (SOD) là một trong những yếu tố độc lực vì
nó giúp cho vi khuẩn tồn tại trong suốt quá trình gây nhiễm. Trình tự cấu trúc của
enzym này đã được xác định bởi Langford và cs (1996) [27].
+ Urease: Hoạt động của urease góp phần vào khả năng gây nhiễm trùng của
vi khuẩn A. pleuropneumoniae trên đường hô hấp của lợn và sau đó làm phát sinh
bệnh. Hoạt động urease cũng góp phần gây bệnh do quá trình này cung cấp cho vi
khuẩn nguồn nitrogen, từ đó trực tiếp hoặc gián tiếp gây tổn thương tế bào thực bào
và tế bào nội mạc của vật chủ.


16

2.1.5. Khả năng đề kháng với kháng sinh
Việc sử dụng kháng sinh không cần thiết làm cho A. pleuropneumoniae kháng
lại nhiều loại kháng sinh.Khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn A.
pleuropneumoniae được quyết định bởi thành phần plasmid có trong tế bào vi khuẩn
và plasmid này có trọng lượng phân tử thấp (2,3-3,6) x106 dalton. Cơ sở của hiện

tượng kháng này với Ampicillin là do vi khuẩn tiết ra men β-lactamase. Những
plasmid này không có vật liệu gen để thúc đẩy sự dẫn truyền tới vi khuẩn khác và sự
xuất hiện của plasmid này gợi ý về kết quả của một quá trình chọn lọc của vi khuẩn
A. pleuropneumoniae. Đặc tính kháng kháng sinh có khả năng truyền bằng plasmid.
Ở Việt Nam, Trịnh Quang Hiệp và cs (2004) [5] kiểm tra khả năng mẫn cảm
với kháng sinh của 29 chủng Actinobacillus phân lập từ trại chăn nuôi lợn tập trung
thuộc công ty giống Thái Bình và Hải Phòng đã xác định các loại kháng sinh tác
dụng tốt là amikacin (94,95%), amoxicilin (88,89%), rifampicin (83,33%); oxacillin
và ceftazidine cùng là (77,78%). Sự mẫn cảm với kháng sinh của A.
pleuropneumoniae cũng được Cù Hữu Phú và cs (2005) [6] cho biết ít mẫn cảm nhất
là kanamycin (45,45%), neomycin (50%), lincomycin (63,64%). Nguyễn Thị Thu
Hằng (2010) [4] khi nghiên cứu khả năng kháng kháng sinh của các các chủng A.
pleuropneumoniae phân lập được ở lợn thuộc các tỉnh miền Bắc đã cho thấy các
chủng A.pleuropneumoniae phân lập được mẫn cảm nhất với kháng sinh ceftriaxone,
chiếm tỷ lệ 73,01%; tiếp theo là các kháng sinh ampicillin, amoxicillin, ceftazidine
lần lượt là 63,49%; 58,73% và 55,56%. Một số kháng sinh đang được sử dụng nhiều
có tỷ lệ kháng thuốc khá cao như lincomycin bị kháng tới 93,65%; tiếp đến là
erythromycin, neomycin và gentamicin 85,71%; 80,95% và 49,21%. Nghiên cứu
của Tiêu Quang An và Nguyễn Hữu Nam (2011) [1] cho biết, các chủng A.
pleuropneumoniae phân lập được ở lợn mắc PRRS mẫn cảm cao với các loại kháng
sinh như florfenicol (89,47%), amoxicillin (84,21%), erythromycin (78,95%),


17

kanamycin (73,68%) và kháng mạnh streptomycin (100%), enrofloxacin (94,74%),
colistin (94,74%), gentamicin (89,47%).
Như vậy, khả năng kháng thuốc của vi khuẩn A. pleuropneumoniae khá phổ
biến, có xu hướng tăng lên về tỷ lệ và chủng loại thuốc bị kháng. Do đó cần có biện
pháp sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi và thú y hợp lý nhằm hạn chế khả

năng kháng thuốc của A. pleuropneumoniae.
2.2.Bệnh viêm phổi - màng phổi ở lợn do A. pleuropneumoniae
Bệnh viêm phổi - màng phổi (VPMP) ở lợnlây lan rộng và được ghi nhận ở
nhiều nước trên thế giới, nơi có ngành chăn nuôi lợn phát triển. Bệnh có mặt và lây
lan mạnh ở hầu hết các nước Châu Âu và một phần ở Mỹ, Canada, Mexico, Nam
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây A.
pleuropneumoniae đã được phân lập và đánh giá là một trong những nguyên nhân
gây bệnh viêm đường hô hấp khá quan trọng ở tất cả các trại lợn trên toàn quốc.
2.2.1.Triệu chứng
Triệu chứng lâm sàng của bệnh thể hiện ở nhiều mức, phụ thuộc vào tuổi của
lợn, tình trạng miễn dịch, điều kiện môi trường và mức độ cảm nhiễm với tác nhân
gây bệnh. Tiến triển lâm sàng có thể là quá cấp tính, cấp tính hoặc mãn tính.
- Thể quá cấp tính: Lợn mắc bệnh sốt 41,5oC, mệt mỏi, bỏ ăn, có thể nôn mửa
và tiêu chảy. Thời gian ngắn trước khi chết, thường có những biểu hiện khó thở dữ
dội, thở bằng mồm, lợn ở tư thế ngồi thở, nhiệt độ giảm nhanh. Ngay trước khi chết,
có chảy nhiều dịch bọt lẫn máu ở miệng và mũi, nhịp tim tăng; phần da ở mũi, tai,
chân và sau cùng toàn bộ cơ thể trở nên tím tái (Nicolet, 1992) [33], lợn mắc bệnh
thường chết sau 24 - 36 giờ.
- Thể cấp tính: Ở thể này thường có nhiều lợn cùng mắc bệnh trong một
chuồng hoặc ở những chuồng khác nhau. Lợn bệnh sốt từ 40,5oC - 41oC, da đỏ, mệt
mỏi, nằm không muốn dậy, không muốn uống, bỏ ăn. Các dấu hiệu hô hấp nặng như


18

khó thở, ho và đôi khi thở bằng miệng rất rõ (Fenwick và Henry, 1994) [15]). Bệnh
diễn biến khác nhau ở từng cá thể, phụ thuộc vào mức độ tổn thương ở phổi và thời
điểm bắt đầu điều trị. Lợn thường sống sót nếu qua được 4 ngày đầu của bệnh.
- Thể bán cấp tính: Thể này xuất hiện sau khi các dấu hiệu cấp tính mất đi, lợn
bệnh không sốt hoặc sốt nhẹ, xuất hiện ho tự phát, với các cường độ khác nhau, con

vật kém ăn, giảm tăng trọng (Nicolet, 1992) [33].
- Thể mãn tính: Lợn mắc bệnh không có biểu hiện rõ ràng trên lâm sàng.
Những con vật mắc bệnh thể mãn tính là nhân tố truyền bệnh cho những lợn khác.
Những dấu hiệu viêm phổi sẽ biểu hiện rõ hơn nếu có nhiễm trùng kế phát các vi
sinh vật đường hô hấp khác (Mycoplasma, Pasteurella, PRRS) hay các nhân tố
Stress (MacInnes và Rosendal, 1988) [31].
2.2.2. Bệnh tích
Lợn bị nhiễm A. pleuropneumoniae cho thấy lợn bệnh có những tổn thương
chủ yếu ở đường hô hấp (Nicolet, 1992) [33]. Đa số các trường hợp lợn bị viêm hai
bên phổi với tổn thương ở các thùy đỉnh, thùy tim và một phần các thùy trên vòm
hoành. Viêm màng phổi tơ huyết và fibrin thường rất rõ ở những lợn chết trong giai
đoạn cấp tính của bệnh. Hầu hết những nghiên cứu đều kết luận rằng những tổn
thương trên là do độc tố của vi khuẩn A. pleuropneumoniae gây ra (Bertram, 1986)
[8]. Ở các trường hợp tử vong nhanh chóng như thể cấp tính thấy khí quản và các
phế quản bị lấp đầy bởi các chất tiết nhày, bọt nhuốm máu, phổi trở nên sẫm màu, có
rất nhiều máu ở lồng ngực và nhiều tơ huyết gắn giữa phổi, thành ngực, cơ hoành và
màng ngoài tim.
2.2.3. Các biện pháp phòng bệnh
Việc phòng bệnh cần thực hiện theo một số nguyên tắc sau:
- Các trại chăn nuôi không có lợn mắc bệnh và nhiễm A. pleuropneumoniae
phải duy trì việc cách ly, đi đôi với việc sử dụng tinh dịch an toàn. Khi nhập lợn mới


19

vào đàn, phải đảm bảo lợn có nguồn gốc từ một đàn không bị bệnh, không bị nhiễm
khuẩn, nên nuôi cách ly trong một thời gian trước khi cho vào đàn.
- Có thể dùng thuốc kháng sinh để phòng bệnh nhưng không được dùng kéo
dài và thường xuyên kiểm tra sự mẫn cảm của vi khuẩn A. pleuropneumoniae với
kháng sinh. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh không loại bỏ được mầm bệnh hoàn

toàn và vi khuẩn A. pleuropneumoniae vẫn có thể thải ra môi trường (Fedorka-Cray
và cs, 1993) [14].
- Tiêu hủy toàn đàn khi mắc bệnh là phương pháp tối ưu để thanh toán dịch
bệnh, sau đó tiêu độc chuồng trại, tạo đàn mới từ những con giống sạch bệnh. Trong
trường hợp có tỷ lệ lợn trong đàn kiểm tra huyết thanh dương tính cao thì tiêu hủy là
phương pháp hiệu quả (Nicolet, 1992) [33]. Tuy nhiên, phương pháp tiêu hủy rất tốn
kém và có thể dẫn đến mất đi những giống thuần quý (Leman, 1992) [28]. Điều này
cho thấy trong chăn nuôi lợn việc chẩn đoán sớm những con lợn mang trùng mà
chưa có dấu hiệu lâm sàng là rất cần thiết và cấp bách. Các biện pháp quản lý không
được kết hợp để cải thiện điều kiện chăn nuôi thì nguy cơ dịch viêm phổi vẫn sẽ tồn
tại (Fenwick và Henry, 1994) [15].
- Hiện đã có nhiều loại vaccine được sản xuất để phòng cho bệnh này và được
chia thành 2 nhóm chính là vaccine vô hoạt và vaccine có chứa một số thành phần cấu
tạo của vi khuẩn. Vaccine vô hoạt toàn khuẩn đặc hiệu theo chủng huyết thanh, có thể
có miễn dịch chéo với các chủng huyết thanh khác. Vaccine dùng tiêm cho lợn con khi
kháng thể thụ động nhận được từ lợn mẹ đã giảm đi giúp đàn lợn giảm tỷ lệ tử vong,
giảm thuốc điều trị và chất lượng thịt cũng được nâng cao, lợn ít bị viêm phổi.
- Trong chương trình kiểm soát dịch bệnh do A. pleuropneumoniae gây ra ở
lợn phải thực hiện triệt để biện pháp tiêu độc khử trùng. Vi khuẩn nhạy cảm với
nhiều chất sát trùng thông thường như Han-Iodine 10%, Benkocid, Chloramin B.
Các đàn lợn đã bị nhiễm vi khuẩn A. pleuropneumoniae cần có biện pháp can thiệp


20

kịp thời để loại trừ mầm bệnh. Thiết lập lại đàn lợn có nguồn gốc từ các đàn chắc
chắn không bị nhiễm A. pleuropneumoniae là một trong các biện pháp tối ưu.
2.2.4. Điều trị bệnh
Vi khuẩn A. pleuropneumoniae có MIC cao với streptomycin, kanamycin,
spectinomycin, spiramycin và lincomycin (Nicolet và Schifferli, 1982 [32]. Prescott

và Baggot (1993) [35] đã đánh giá lại khả năng nhạy cảm của vi khuẩn này với một
số kháng sinh. Sự xuất hiện tình trạng vi khuẩn A. pleuropneumoniae kháng lại
ampicilin, cephalosporin, colistin, tetracyclin, streptromycin, sulfonamide là vấn đề
đáng lo ngại và thường gặp ở các serotype 1; 3; 5 và 7; nhưng hiếm gặp ở các chủng
khác, nhất là serotype 2 (Nicolet và Schifferli, 1982 [32].
Kháng sinh được chọn lựa trong điều trị phải là kháng sinh có nồng độ ức chế
tối thiểu thấp và có khả năng diệt khuẩn tốt nhất. Một số kháng sinh mới có gần đây
như các dẫn xuất quinolone (enrofloxacin) hoặc cephalosporin bán tổng hợp
(ceftiofur sodium) đã được chứng minh trên thử nghiệm rất có kết quả. Lê Văn
Dương (2013) [3] cho biết, các chủng vi khuẩn A. pleuropneumoniae phân lập được
mẫn cảm nhất với ceftiofur, chiếm tỷ lệ 77,08%; tiếp theo là amoxicillin, florfenicol,
ampicillin lần lượt là 70,84%; 68,75%; 54,17%. Một số kháng sinh đang được sử
dụng nhiều có tỷ lệ kháng thuốc khá cao như lincomycin bị kháng tới 93,75%; tiếp
đến là erythromycin, neomycin và gentamicin với tỷ lệ tương ứng 79,17%; 77,08%
và 45,83%. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng kháng kháng sinh của vi
khuẩn A. pleuropneumoniae ngày càng gia tăng như do việc dùng kháng sinh điều trị
kéo dài, kháng sinh được bổ xung vào thức ăn chăn nuôi và do hiện tượng di truyền
tính kháng thuốc bởi các gen nằm trong plasmid của vi khuẩn A. pleuropneumoniae.
Cần làm kháng sinh đồ khi thí nghiệm điều trị bằng kháng sinh. Sự thành công của
điều trị phụ thuộc chủ yếu vào việc phát hiện sớm các dấu hiệu lâm sàng và can thiệp
điều trị kịp thời.


21

2.3. Tình hình nghiên cứu vi khuẩn A. pleuropneumoniae ở trong và ngoài nước
Shope và cs, 1964 là những người đầu tiên nghiên cứu về bệnh và thông báo
A. pleuropneumoniae gây viêm phổi. Năm 1978, Killian và cs [22] đã đặt tên vi
khuẩn là Haemophylus parahamolyticus (H. pleuropneumoniae) nhưng sau này
được sắp xếp vào họ Actinobacillus và đặt tên là A. pleuropneumoniae do người ta

đã xác định được là có điểm tương đồng về DNA giữa H. pleuropneumonỉae và A.
pleuropneumonỉae. Vi khuẩn A. pleuropneumonỉae gồm có 12 seroype khác nhau,
trong đó chỉ có một số có khả năng gây bệnh, như type 1; 5; 9; 11; 12. ở các quốc gia
khác nhau thì sự lưu hành các chủng vi khuẩn này khác nhau. Chúng gây bệnh cho
lợn từ cai sữa đến giết thịt, nhưng thường lợn từ 8 đến 16 tuần tuổi dễ cảm nhiễm
với bệnh.
Ở Việt Nam, một số tác giả đã nghiên cứu và đã thu được kết quả. Nhóm tác
giả Cù Hữu Phú, Nguyên Ngọc Nhiên và cs, 2001 đã phân lập được vi khuẩn A.
pleuropneumoniae từ đường hô hấp của lợn lần đầu tiên ở Hải Phòng (serotype 5)
tiếp đến là các tình Thái Nguyên, Bắc Giang...với các serotype 5, 2, 1. Theo thống
kê, trong các năm vừa qua, tỷ lệ phát hiện lợn bị nhiễm vi khuẩn này có sự gia tăng
khá rõ. Theo Trịnh Quang Hiệp, 2002 [3] tỷ lệ phân lập được vi khuẩn A.
pleuropneumonỉae ở lợn con sau cai sữa tại Hải Phòng, Thái Bình 6,8% tổng số các
loại vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp phân lập được và chủ yếu serotype 5, 2.
Như vậy, hiện nay trong 12 Serotype của A. pleuropneumoniae thì có 3
serotype 1, 2, 5 gây bệnh viêm phổi- màng phổi cho lợn của Việt Nam.
Đặc tính vi khuẩn, bệnh học, việc sản xuất vacxin mới và các phương pháp
chẩn đoán vẫn luôn được chú trọng nghiên cứu, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn là
một vấn đề cần được thảo luận.


22

CHƯƠNG 3
NỘI DUNG, ĐỊA ĐIỂM, VẬT LIỆU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Lợn nghi mắc bệnh viêm phổi do vi khuẩnActinobacillus pleuropneumoniae
gây ra tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

- Vi khuẩn: Vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên và phòng thí nghiệm trọng điểmCông ty
cổ phần thuốc thú y Đức Hạnh Marphavet.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Phân lập và giám định một số đặc tính sinh hóa của vi khuẩnActinobacillus
pleuropneumoniae trong mẫu bệnh phẩm lợn bị viêm phổi.
- Xác định các triệu chứng, bệnh tích điển hình của lợn nghi mắc bệnh viêm
phổi dovi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae gây ra tại Thái Nguyên.
- Xác định mức độ mẫn cảm với một số kháng sinh của vi khuẩn
Actinobacillus pleuropneumoniae phân lập được.


23

3.3. Thời gian, địa điểm, nguyên vật liệu dùng cho nghiên cứu
3.3.1. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018.
3.3.2. Địa điểm nghiên cứu
- Phòng thí nghiệmCông ty CP thuốc thú y Đức Hạnh Marphavet.
3.3.3.Nguyên liệu và dụng cụ dùng cho nghiên cứu
3.3.3.1. Nguyên liệu
- Động vật thí nghiệm: Lợn nghi mắc bệnh viêm phổi do Actinobacillus
pleuropneumoniae.
- Môi trường, hóa chất dùng trong nghiên cứu.
- Các loại môi trường dùng để nuôi cấy, lưu giữ vi khuẩn do hãng Oxoid
(Anh) và Merck (Pháp) sản xuất: Môi trường thạch thường, thạch máu, thạch
MacConkey, thạch Chocolate, BHI broth, BHI agar, TSB ...
- Các loại môi trường, hóa chất dùng để giám định, xác định các đặc tính sinh
hóa của vi khuẩn: Môi trường đường các loại, dung dịch Kovac’s, dung dịch H2O2

3%, giấy thử Oxidase, nước muối 6,5%, ...
- NAD do hãng Oxoid (Anh) sản xuất.
3.3.3.2.Máy móc, dụng cụ thí nghiệm
- Các máy móc, dụng cụ dùng trong phòng thí nghiệm, các hoá chất dùng để
sát trùng, tiêu độc, rửa dụng cụ ... như PCR, RT-PCR; ELISA, ....
- Tủ cấy An toàn sinh học cấp 1
- Tủ ấm CO2
- Bộ KIT tách chiết DNA vi khuẩn gram âm bao gồm:
+ Proteinase K
+ Buffer CL có thể bị lắng, nếu thấy thì có thể làm tan ở 56oC.
+ Buffer BL có thể bị lắng, nếu thấy thì có thể làm tan ở 56oC.


24

+ Ethanol (96%)
+ Buffer BW
+ Buffer TW
+ Buffer AE
- Máy ủ nhiệt
- Máy PCR Eppendorf
- Máy ly tâm lạnh để bàn
- Máy Votex
- Máy điện di
- Máy chụp ảnh Gel điện di
- Nồi hấp
- Đĩa hộp lồng petri, que cấy, đèn cồn, ống nghiệm,...
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. phương pháp thu thập mẫu
Dựa vào triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh do vi khuẩn A.

pleuropneumoniae gây ra.
- Thể quá cấp tính: Lợn mắc bệnh sốt 41,5oC, mệt mỏi, bỏ ăn, có thể nôn mửa
và tiêu chảy. Thời gian ngắn trước khi chết, thường có những biểu hiện khó thở dữ
dội, thở bằng mồm, lợn ở tư thế ngồi thở, nhiệt độ giảm nhanh. Ngay trước khi chết,
có chảy nhiều dịch bọt lẫn máu ở miệng và mũi, nhịp tim tăng; phần da ở mũi, tai,
chân và sau cùng toàn bộ cơ thể trở nên tím tái (Nicolet, 1992) [33], lợn mắc bệnh
thường chết sau 24 - 36 giờ.
- Thể cấp tính: Ở thể này thường có nhiều lợn cùng mắc bệnh trong một
chuồng hoặc ở những chuồng khác nhau. Lợn bệnh sốt từ 40,5oC - 41oC, da đỏ, mệt
mỏi, nằm không muốn dậy, không muốn uống, bỏ ăn. Các dấu hiệu hô hấp nặng như


25

khó thở, ho và đôi khi thở bằng miệng rất rõ (Fenwick và Henry, 1994) [15]. Bệnh
diễn biến khác nhau ở từng cá thể, phụ thuộc vào mức độ tổn thương ở phổi và thời
điểm bắt đầu điều trị. Lợn thường sống sót nếu qua được 4 ngày đầu của bệnh.
- Thể bán cấp tính: Thể này xuất hiện sau khi các dấu hiệu cấp tính mất đi; lợn
bệnh không sốt hoặc sốt nhẹ, xuất hiện ho tự phát, với các cường độ khác nhau, con
vật kém ăn, giảm tăng trọng (Nicolet, 1992) [33].
- Thể mãn tính: Lợn mắc bệnh không có biểu hiện rõ ràng trên lâm sàng.
Những con vật mắc bệnh thể mãn tính là nhân tố truyền bệnh cho những lợn khác.
Những dấu hiệu viêm phổi sẽ biểu hiện rõ hơn nếu có nhiễm trùng kế phát các vi
sinh vật đường hô hấp khác (Mycoplasma, Pasteurella, PRRS) hay các nhân tố
Stress (MacInnes và Rosendal, 1988) [31].
Chúng tôi thu thập được 30 mẫu lợn nghi mắc viêm phổi dính sườn do vi
khuẩn A. pleuropneumoniae gây ra tại tỉnh Thái Nguyên.

3.4.2. Phương pháp lấy mẫu
Dịch ngoáy mũi, họng: Dùng tăm bông vô trùng ngoáy sâu vào mũi hoặc

vùng họng của lợn. Sau đo tăm bông được để vào hộp lạnh ở 4oC rồi chuyển về
phòng thí nghiệm trong vòng 2-8 giờ.
Bệnh phẩm là phổi hoặc hạch amidan: Dùng dao mổ cắt phần bệnh tích viêm
phổi và hạch amidan của lợn có triệu chứng được mổ khám.
Lưu ý: - động vật dùng để lấy mẫu đều chưa được sử dụng thuốc kháng sinh
điều trị.
Các mẫu bệnh phẩm được bảo quản trong túi nylon vô trùng ở nhiệt độ 4ºC và
nhanh chóng được đưa về phòng thí nghiệm.Sau đó, mẫu bệnh phẩm sẽ được cấy ria


×