Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.3 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SAU ĐẠI HỌC


TIỂU LUẬN:
Giáo viên hướng dẫn:
TS. DƯƠNG KIM THẾ NGUYÊN

Học viên thực hiện:
LÊ PHƯƠNG CHI
MSSV: M3417003

Tỉ lệ kiểm tra tinurtin 68%

Tháng 11/2017
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, với xu thế phát triển của đời sống xã hội nên nhiều doanh
nghiệp phân phối hàng hóa, cung ứng dịch vụ ra đời nhằm phục vụ nhu
cầu thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Trong bối cảnh đó, các doanh
nghiệp đã, đang và sẽ hình thành muốn tồn tại và phát triển thì luôn tìm
mọi cách kinh doanh bằng việc lôi kéo sự quan tâm của khách hàng về
với doanh nghiệp của mình bằng việc chiếm ưu thế về thị phần trên thị


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

trường có liên quan. Trong quá trình lôi kéo sự quan tâm của khách hàng
thì doanh nghiệp tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật cho phép
(gọi là cạnh tranh lành mạnh). Tuy nhiên, không ít doanh nghiệp, nhóm
doanh nghiệp để tồn tại trên thị trường kinh doanh luôn tìm cách phát
huy năng lực cạnh tranh để trở thành doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị


trường, mà ở mức độ cao hơn là có vị trí độc quyền và để làm được như
vậy các doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp luôn tìm cách cạnh tranh
không lành mạnh nhằm hạ bệ đối thủ cạnh tranh với mục đích cuối cùng
là thống lĩnh thị trường, chiếm vị trí độc quyền về hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Giữ được vị trí thống thị trường, vị trí độc quyền thì
không có gì là xấu cả nhưng doanh nghiệp một khi mà đã bước chân vào
thị trường kinh doanh thì phải tuân thủ “luật chơi” trên thương trường
hay nói đúng hơn là phải tuân thủ các quy định của pháp Luật Cạnh
Tranh.
Thời gian vừa qua trên thị trường kinh doanh tại Việt Nam, xảy ra
hàng loạt vụ việc có dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền. Đó là vụ của Công ty Tân Hiệp Phát khiếu nại
Công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam; vụ Vinapco lạm dụng vị trí độc
quyền; vụ Megastar bị khiếu nại có hành vi lạm dụng áp đặt giá bán hàng
hóa. Mặc dù Luật Cạnh Tranh ra đời từ năm 2004 và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã được ban hành nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp,
nhóm doanh nghiệp vẫn vi phạm các hành vi bị cấm trong nhóm hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
Vậy thế nào là doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường, vị trí độc quyền? căn cứ vào đâu để nhận ra được là một
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền? Những hành
vi nào của doanh nghiệp bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành? Nội dung bài tiểu luận này, người viết
sẽ làm làm rõ các câu hỏi này. Trong bài viết này, người viết chỉ giới hạn
đề tài nghiên cứu là “Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam” để hiểu
một phần nào đó Pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã có những quy định cụ
thể điều chỉnh các hoạt động cạnh tranh trên thị trường trong bối cảnh
nền kinh tế Việt Nam hiện nay.


GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

2

HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

MỤC LỤC

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN NHẰM CẠNH TRANH TẠI
VIỆT NAM
1. Khái quát chung về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
vị trí độc quyền nhằm cạnh tranh tại Việt Nam
1.1. Khái niệm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường, đó là: Doanh
nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan; hoặc doanh
nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể (Điều 11
Luật Cạnh tranh 2004).
Ngoài doanh nghiệp thì luật còn quy định “nhóm doanh nghiệp” có
tổng thị phần từ 50% trở lên đối với nhóm hai doanh nghiệp, từ 65% trở
lên đối với nhóm ba doanh nghiệp và từ 75% trở lên đối với nhóm bốn
doanh nghiệp trên thị trường liên quan thì cũng xác định là “nhóm doanh
nghiệp” có vị trí thống lĩnh thị trường.
1.2. Khái niệm doanh nghiệp có vị trí độc quyền
Vị trí độc quyền là một trường hợp đặc biệt của vị trí thống lĩnh thị
trường vì doanh nghiệp này chiếm hầu như 100% thị phần và không
có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa dịch vụ mà doanh

nghiệp đó đang kinh doanh trên thị trường liên quan.

GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

3

HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

Doanh nghiệp có vị trí độc quyền là doanh nghiệp “duy nhất” cung
ứng hoặc thu mua hàng hóa trên thị trường (Điều 12 Luật Cạnh tranh
2004)
1.3. Đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền
Đặc điểm về chủ thể thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp, còn đối với hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền thì chủ thể là doanh nghiệp.
Đặc điểm về “thị trường sản phẩm có liên quan” theo quy định tại
khoản 1 điều 3 Luật Cạnh tranh “thị trường sản phẩm liên quan là thị
trường của những hàng hố, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc
tính, mục đích sử dụng và giá cả”. Khả năng thay thế cho nhau của hàng
hóa dịch vụ phản ánh mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp, khi đã có
thể thay thế cho nhau thì lúc đó hàng hóa dịch vụ đó đã có chung mục
đích là đáp ứng cho một nhu cầu của thị trường. Mục đích sử dụng hàng
hóa dịch vụ có thể thay thế cho nhau được xác định căn cứ vào mục đích
sử dụng chủ yếu nhất của hàng hóa dịch vụ đó, các hàng hóa dịch vụ
không phải lúc này cũng có cùng mục đích sử dụng duy nhất vì tùy thuộc
đặc tính của hàng hóa dịch vụ. Giá cả hàng hóa dịch vụ khi cơ quan có

thẩm quyền phân tích yếu tố này thì chính là tiến hành xác định phản
ứng của người tiêu dùng khi có sự thay đổi về giá cả của sản phẩm. Việc
xác định đặc tính cũng như mục đích sử dụng có thể thay thế cho nhau
để xác định việc các sản phẩm đó đáp ứng cho cùng một nhu cầu trên thị
trường. Tuy nhiên, việc xác định nhu cầu trên thị trường lại phụ thuộc vào
thái độ của khách hàng. Do vậy, việc điều tra để chứng minh về khả
năng thay thế của các sản phẩm cần phải được “kiểm chứng thông qua
phản ứng từ thị trường thông qua thái độ của khách hàng đối với các sản
phẩm khi có sự thay đổi về giá giữa chúng trên thị trường”. Chỉ khi nào
khách hàng sẵn sàng thay đổi thói quen sử dụng một sản phẩm nào đó
sang sử dụng một sản phẩm khác thì khi đó mới có căn cứ xác định rằng
hai sản phẩm đó có khả năng thay thế cho nhau trên thị trường

1

Đặc điểm về “thị trường địa lý liên quan” là một khu vực địa lý cụ thể
thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác
biệt đáng kể với các khu vực lân cận” (Khoản 1 Điều 3 của LCT và tại
Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP). Khu vực địa lý mà doanh
1 />
GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

4

HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

nghiệp đặt trụ sở hoặc tiến hành hoạt động. Nói cách khác, là khu vực

địa lý nhất định, trong đó, doanh nghiệp tiến hành các hoạt động mà
không có bất kỳ sự ngăn cản nào. Khu vực địa lý cụ thể có sự hiện diện
của những sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau; có sự tồn tại của
các điều kiện cạnh tranh tương tự trong khu vực đó; giữa khu vực đó với
các khu vực lân cận tồn tại những sự khác biệt về điều kiện cạnh tranh 2.
2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
nhằm cạnh tranh tại Việt Nam
2.1. Nhóm hành vi mang tính bốc lột:
Có nghĩa là bóc lột khách hàng bằng cách phớt lờ nhu cầu của khách
hàng và đối thủ. Là những hành vi mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường, vị trí độc quyền liến quan áp dụng những điều kiện thương
mại bất lợi cho khách hàng nhằm thu lợi nhuận độc quyền 3
a) Áp đặt giá mua bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý, hoặc ấn định giá
bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.
Với hành vi này, khách hàng đã phải chịu thiệt hại bởi giá mà họ
phải mua quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm; hoặc phải bán
với giá thấp hơn giá thành của sản phẩm. Giá mua, bán sản phẩm
trên thị trường không được hình thành từ cạnh tranh mà do các doanh
nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền ấn định4. Mức chênh lệch giữa giá
được ấn định với giá cạnh tranh (giả định) là khoản lợi ích độc quyền
mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có được. Theo
Luật Cạnh tranh và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, nhóm hành vi này có
ba loại vi phạm cụ thể: Hành vi áp đặt giá mua thấp hơn giá thành sản
xuất hàng hoá, dịch vụ áp một cách bất hợp lý, doanh nghiệp khống chế
không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hoá thấp
hơn mức đã quy định trước, cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột
biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của
doanh nghiệp.
b) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý, giới
hạn thị trường cản trở phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho

khách hàng
Nhóm hành vi này bao gồm ba loại hành vi cụ thể sau đây: Hạn chế
2 Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn, tlđd, tr. 29: “Khu vực địa lý là những vùng thị trường được đo bằng khoảng cách không
gian, bao gồm các địa điểm mà tại đó những sản phẩm có thể thay thế cho nhau được phân phối cho khách hàng…”.

3 PGS.TS. Lê Danh Vinh, Giáo trình Luật Cạnh tranh, Đại học Kinh tế luật
4 PGS.TS. Lê Danh Vinh, Giáo trình Luật Cạnh tranh, Đại học Kinh tế luật , trang 119

GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

5

HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

sản xuất, phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng, hạn chế thị
trường gây thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh hoặc độc quyền đã tự giới hạn khu vực bán hoặc giới hạn nguồn mua
sản phẩm mà không có lý do chính đáng gây thiệt hại cho khách hàng,
hạn chế sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng
Việc giới hạn thị trường gây thiệt hại bị coi là vi phạm pháp luật
cạnh tranh khi doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện một
trong hai hành vi sau đây: chỉ cung ứng hàng hoá, dịch vụ trong một
khu vực địa lý nhất định. Hành vi này làm cho các khách hàng ở
những khu vực địa lý khác trên thị trường liên quan không có cơ hội
được thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, không được sử dụng các sản phẩm
mà doanh nghiệp sản xuất hoặc phân phối, chỉ mua hàng hóa, dịch vụ
từ một hoặc một số nguồn cung nhất định mà không có lý do chính đáng.

Với hành vi này, doanh nghiệp đã giới hạn thị trường mua hàng hóa, dịch
vụ theo nguồn cung cấp (theo khách hàng).
Việc doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở việc nghiên
cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ hoặc ngăn cản việc ứng dụng tiến bộ
khoa hoặc kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh một trong hai hành vi sau
đây: mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu
hủy hoặc không sử dụng, đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu
phát triển kỹ thuật, công nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên
cứu đó.
c) Hành vi áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau cho các giao
dịch như nhau nhằm tạo sự bất bình đẳng cho khách hàng (cịn gọi là
hành vi phân biệt đối xử trong thương mại):
Cấu thành pháp lý của hành vi này bao gồm 2 yếu tố: Doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh đã áp dụng các điều kiện mua, bán, giá cả,
thời hạn thanh toán, số lượng khác nhau trong những giao dịch như
nhau, hành vi gây ra tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các
khách hàng
Việc phân biệt đối xử tạo ra những ưu thế cho một số khách hàng so
với những khách hàng khác, ví dụ giá sản phẩm được tính rẻ hơn người
khác hoặc thời gian giao hàng được sớm hơn. Việc phân biệt đối xử tạo
ra những tình trạng bất lợi hơn của một hoặc một số khách hàng so với
những khách hàng khác, ví dụ như áp đặt các điều kiện giao sản phẩm
bất lợi hơn, giá cả cao hơn… người khác.
GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

6

HVTH: Lê Phương Chi



Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

d) Hành vi áp đặt cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán
hàng hoá, dịch vụ, hoặc buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các
nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
Hành vi áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng
mua, bán hàng hoá, dịch vụ.

Khoản 1 Điều 30 Nghị định số

116/2005/NĐ-CP quy định “Áp đặt cho các doanh nghiệp khác điều kiện
ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc áp đặt những điều
kiện tiên quyết mà khách hàng phải chấp nhận trước khi ký kết hợp
đồng, bao gồm: Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa khác; hạn chế
mua, cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết
của bên nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý; Hạn chế về
địa điểm, bán lại hàng hoá trừ những hàng hoá thuộc danh mục mặt hàng
kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của
pháp luật; Hạn chế về khách hàng mua lại hàng hoá trừ những hàng hoá
thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh
doanh theo quy định của pháp luật; Hạn chế về hình thức, số lượng
hàng hoá được cung cấp.Ví dụ: Công ty A (có vị trí thống lĩnh thị
trường) bán hàng hóa cho B và buộc B phải bán hàng hóa tại một địa
điểm do A ấn định trước, không được bán tại các địa điểm khác.
Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Khoản 2 Điều 30 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP quy định “buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là hành vi gắn
việc mua bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc phải
mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định

trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi
cần thiết thực hiện hợp đồng” . Ví dụ: Công ty A (có vị trí thống lĩnh thị
trường) bán điện thoại di động cho B và buộc B phải mua thêm sản
phẩm ốp lưng điện thoại, sản phẩm ốp lưng điện thoại không có liên
quan đến hàng hóa là đối tượng của hợp đồng.
2.2. Nhóm hành vi lạm dụng mang tính độc quyền:
Hành vi lạm dụng mang tính độc quyền là những hành vi do
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thực hiện nhằm kìm
hãm cạnh tranh bằng cách loại bỏ, ngăn cản đối thủ tham gia thị
trường để duy trì, củng cố quyền lực thị trường

GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

7

HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

a) Hành vi bán hàng hoá, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh (còn gọi là hành vi định giá cướp đoạt hoặc hành vi
định giá hủy diệt)
Điều 23 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định “trừ những trường
hợp đặc biệt, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ
nhằm loại bỏ đối thủ canh tranh là việc bán hàng với mức giá thấp hơn
tổng các chi phí sau đây: Chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng
hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật hoặc gia mua hàng hoá để
bán lại; Chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp
luật”.

b) Hành vi ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh
mới
Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới
là hành vi tạo ra những rào cản về giá hoặc về nguồn tiêu thụ, nguồn
nguyên vật liệu… trên thị trường liên quan. Việc xác định hành vi ngăn
cản cần phải làm rõ một số vấn đề sau đây:
- Cần xác định rõ đối thủ cạnh tranh mới. Đối thủ cạnh tranh mới là
doanh nghiệp đang tìm cách tham gia thị trường (có thể gọi là doanh
nghiệp mới).
- Xác định các rào cản cho sự gia nhập (yêu cầu khách hàng của
mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới; đe dọa hoặc cưỡng ép
các nhà phân phối, các cửa hành bán lẻ không chấp nhận phân phối
những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới; bán hàng hoá với mức giá
đủ để đối thủ cạnh tranh không thể gia nhập thị trường nhưng không
thuộc trường hợp bán hàng hoá dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ đối
thủ)
2.3. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường, kể cả
các doanh nghiệp độc quyền tự nhiên hay độc quyền Nhà nước, ngoài
những hành vi lạm dụng quyền lực thị trường để hạn chế cạnh tranh
kể trên, Luật Cạnh tranh còn nghiên cấm thêm hai hành vi sau đây: là
hành vi buộc khách hàng phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa
vụ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng;
hành vi của doanh nghiệp độc quyền đơn phương thay đổi hoặc hủy
bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần thông báo trước cho khách

GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

8


HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào và đơn phương thay
đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc một số lý
do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết
Về phạm vi điều chỉnh, luật cạnh tranh liệt kê đầy đủ các dạng lạm
dụng phổ biến của thị trường cạnh tranh việt nam. Luật cạnh tranh và
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP mô tả chi tiết hành vi vi phạm bằng khái
niệm hoặc bằng cách liệt kê các biểu hiện cụ thể của hành vi. Luật cạnh
tranh đã không áp dụng các cơ chế loại trừ đối với các hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thị trường để hạn chế cạnh tranh.

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN TẠI
VIỆT NAM
1. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường tại Việt Nam
Bộ TT&TT vừa ban hành Danh mục doanh nghiệp viễn thông, nhóm
doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh thị trường đối với các dịch vụ
viễn thông quan trọng có hiệu lực từ 15/6/2015. Tập đoàn Viễn thông
Quân đội (Viettel) chính thức trở thành doanh nghiệp duy nhất thống lĩnh
trên thị trường viễn thông Việt Nam (SMP) đối với dịch vụ thông tin di
động mặt đất, bao trọn cả 3 mảng dịch vụ điện thoại, nhắn tin và truy
nhập Internet. Cụ thể, theo Thông tư 15 sửa đổi một số quy định của

GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

9


HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

Thông tư số 18/2012/TT-BTTTT, Bộ Thông tin và Truyền thông vừa ban
hành danh mục doanh nghiệp viễn thông, nhóm doanh nghiệp viễn thông
có vị trí thống lĩnh thị trường đối với các dịch vụ viễn thông quan trọng.
So với Thông tư số 18, hai nhà mạng lớn khác là MobiFone và VinaPhone
đều đã được đưa ra khỏi nhóm doanh nghiệp viễn thông SMP và gia nhập
nhóm doanh nghiệp không thống lĩnh thị trường để cùng cạnh tranh với
Viettel.
Nếu vẫn ở trong nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường,
MobiFone và VinaPhone sẽ bị quản lý chặt hơn. Khi muốn thay đổi giá
cước, giảm giá dịch vụ, họ phải đăng ký với Cục Viễn thông (Bộ Thông tin
và Truyền thông). Và chỉ khi được Cục Viễn thông đồng ý chấp thuận, họ
mới được triển khai. Đặc biệt, nếu là doanh nghiệp thống lĩnh thị trường,
họ không được phép ban hành giá cước dịch vụ viễn thông thấp hơn giá
thành. Đồng thời, họ phải thống kê, kế toán riêng để xác định giá thành
dịch vụ viễn thông chiếm thị phần khống chế. Thoát khỏi danh mục
doanh nghiệp SMP sẽ đồng nghĩa với việc VinaPhone, MobiFone khi điều
chỉnh giá cước và thực hiện khuyến mãi giảm giá đối với dịch vụ thông tin
di động chỉ cần thông báo với Cục Viễn thông, cũng như không bị cấm
ban hành giá cước thấp hơn giá thành.
Tóm lại, theo quy định của pháp luật cạnh tranh với những doanh nghiệp chiếm trên
30% thị phần, trước khi họ muốn ban hành một mức giá cước nào đó thì doanh nghiệp phải
thực hiện đăng ký với cơ quan quản lý trên cơ sở không được bán dưới giá thành. Cịn đối
với doanh nghiệp khơng chiếm thị phần khống chế, họ được quyền ban hành giá cước có thể
thấp hơn cả giá thành của mình nhưng không quá thấp so với mức trung bình hiện có trên

thị trường.
2. Doanh nghiệp có vị trí độc quyền tại Việt Nam
Vụ Công ty Cổ phần Xăng dầu Hàng không (Vinapco), lợi dụng vị trí
là doanh nghiệp bán nhiên liệu bay duy nhất trên thị trường, đơn phương
chấm dứt bán hàng cho Jestar Pacific Airlines...
Vinapco đã ký hợp đồng (HĐ) cung cấp xăng năm 2008 cho PA với
giá cố định. Trong HĐ thương mại, thỏa thuận về giá cả là thỏa thuận
quan trọng nhất. Tự ý thay đổi giá cả đã cam kết là hành vi vi phạm
nghiêm trọng hợp đồng. Lấy lý do giá cả thị trường thay đổi, để có quyền
thay đổi giá đã cam kết, là lý do chưa bao giờ được chấp nhận trong
thương mại quốc tế. Vì chấp nhận nó, cũng có nghĩa là chấp nhận sự vô
nghĩa của một cam kết thương mại. Chính là để được bảo đảm giá mua
GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

10

HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

bán không thay đổi-dù giá cả thị trường có biến động- các doanh nghiệp
mới giao kết hợp đồng, cam kết bảo đảm cho nhau các điều kiện mua
bán ổn định, loại trừ rủi ro của thị trường. Tuy vậy, đối với Vinapco và rất
nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác, sự thay đổi chi phí đầu vào của họđặc biệt là khi vì vậy mà bị lỗ- là lý do đương nhiên để họ ngừng thực
hiện hợp đồng, buộc đối tác trong nước chấp nhận giá mới. Quan niệm và
cách hành xử như thế rất xa lạ với tập quán quốc tế và góp phần quan
trọng hạ thấp ý thức tôn trọng các cam kết pháp lý (HĐ), đồng thời làm
người ta luôn nghi ngờ sự ổn định và do đó cả tính có thể dự đoán được
từ các cam kết này. Rõ ràng không thể xây dựng được một hệ thống tư

pháp hiệu quả khi sự không tôn trọng giao kết tự nguyện như thế thể
hiện ở rất nhiều nơi, nhiều lĩnh vực trong cuộc sống 5.
Tóm lại, doanh nghiệp có vị trí độc quyền thì phải tuân thủ quy định
của Luật Cạnh tranh tức là phải kinh doanh đúng như thỏa thuận cam
kết, không được lạm dụng vị trí độc quyền mà đơn phương thay đổi thỏa
thuận đã cam kết.

5 Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Vân Nam , />
GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

11

HVTH: Lê Phương Chi


Thực trạng của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền tại Việt Nam

KẾT LUẬN
Luật Cạnh tranh năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2005) đã thiết lập nền tảng pháp
lý đầu tiên cho môi trường cạnh tranh ở Việt Nam, Luật Cạnh tranh ra đời nhằm đảm bảo
cạnh tranh công bằng giữa các chủ thể, cũng như hạn chế, ngăn chặn, xử lý các hành vi gây
thiệt hại doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm áp dụng, Luật Cạnh tranh đang bộc lộ rõ
những điểm bất cập không phù hợp với thực tiễn hiện nay, một số quy định trong Ḷt Cạnh
tranh hiện hành khơng cịn phù hợp với bối cảnh và xu hướng phát triển của nền kinh tế, đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu, rộng với khu vực và thế giới. Nhiều hành vi phản
cạnh tranh mới, đa dạng chưa, đặc biệt trong vấn đề các hành vi vi phạm thống lĩnh thị
trường và vị trí độc quyền để nhằm hạn chế cạnh tranh. Hạn chế cạnh tranh về hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền phụ thuộc nhiều vào yếu tố thị
phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Trong khi đó, các yếu tố để xác định thị
trường liên quan không phù hợp với thực tế và gây nhiều khó khăn trong quá trình thực thi

pháp luật.
Có thể nói luật hiện hành quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện quản lý cạnh tranh và điều tiết
kinh tế, góp phần hiệu quả vào sự phát triển ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay, có
một số Doanh nghiệp bất chấp, vì mục đích lợi nhuận đã thực hiện không đúng quy định của
luật chơi. Việc thống lĩnh thị trường, độc quyền sẽ trở thành rào cảng gây khó khăn cho môi
trường cạnh tranh lành mạnh. Vì vậy, trước tiên phải hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về
kiểm soát hành vi lạm dụng của các Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường trở nên cấp
bách, cần phải có quy định mang tính ổn định, chặt chẽ và mang tính cưỡng chế thi hành
nhằm triệt tiêu hanh vi trên, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, hành lang pháp lý an
toàn cho quá trình phát triển của các Doanh nghiệp, góp phần vào việc phát triển chung cho
nền kinh tế thị trường hiện nay.

GVHD: TS. Dương Kim Thế Nguyên

12

HVTH: Lê Phương Chi



×