Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Quản lý nhà nước về dạy nghề cho lao động nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.62 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của Quản lý Nhà nước về dạy nghề
Chuyển sang kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Lực lượng sản xuất phát
triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch mạnh mẽ, cùng với việc hình thành khu công
nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm, các công nghệ mới, ngành nghề mới
xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng. Huyện Phú Bình cũng không thể đứng ngoài xu
thế đó. Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Phú Bình ngày càng được đẩy mạnh.
Yêu cầu khách quan đó đòi hỏi Phú Bình phải có nguồn nhân lực được đào tạo, đáp ứng
cả về số lượng và chất lượng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo
nghề nói riêng trong phát triển nguồn nhân lực, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
huyện Phú Bình luôn quan tâm chỉ đạo có định hướng và giải pháp phát triển đào tạo
nghề trong từng thời kỳ, tăng cường quản lý Nhà nước các hoạt động đào tạo nghề trên
địa bàn huyện.
Trong thời gian qua, quản lý của Nhà nước về đào tạo nghề ở huyện Phú Bình đã đạt
được những thành tựu nhất định: Quy mô đào tạo có sự gia tăng đáng kể, các nhân tố
đảm bảo chất lượng đào tạo được tăng cường khiến chất lượng đào tạo nghề cũng dần
được cải thiện. Đào tạo nghề ở Phú Bình đã phần nào đáp ứng được nhu cầu nhân lực
của các doanh nghiệp trên địa bàn huyện và các vùng lân cận.
Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết của ngành Giáo dục - Đào tạo và Dạy nghề, cũng
như kết quả khảo sát, đánh giá từ các cơ quan sử dụng lao động qua đào tạo nghề, thì
hiện tại, thực trạng hoạt động đào tạo nghề ở Phú Bình còn không ít hạn chế. Chất
lượng đào tạo nghề chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện, chưa
chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội; chưa giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng. Chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học nghề lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu lao động qua đào tạo không hợp lý
giữa các lĩnh vực, ngành nghề chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Quản lý Nhà nước về đào tạo nghề ở huyện Phú
1



Bình thời gian qua còn bất cập. Điều đó đòi hỏi công tác quản lý của Nhà nước về đào
tạo nghề ở huyện Phú Bình cần phải được tăng cường và nâng cao hiệu quả.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
a. Mục đích:
Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp
tăng cường quản lý Nhà nước về đào tạo nghề ở huyện Phú Bình, góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả đào tạo nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của tỉnh Thái Nguyên.
b. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa có bổ sung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận quản lý Nhà nước về
đào tạo nghề. Trong đó, đi sâu nghiên cứu quản lý Nhà nước về đào tạo nghề ở huyện
Phú Bình.
- Phân tích đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước về đào tạo nghề ở huyện Phú Bình
trong giai đoạn hiện nay, làm rõ kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về đào tạo nghề huyện Phú
Bình trong thời gian tới.
c. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Tiểu luận nghiên cứu quản lý Nhà nước về đào tạo nghề, trong đó tập
trung nghiên cứu ở huyện Phú Bình.
- Về thời gian nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu từ năm 2008 đến năm 2013.
3. Ý nghĩa, tác dụng của việc nghiên cứu Quản lý đào tạo về dạy nghề
- Hệ thống hoá có bổ sung cơ sở lý luận quản lý Nhà nước về đào tạo nghề.
- Đưa ra một cái nhìn tổng quan và đầy đủ về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đào
tạo nghề ở huyện Phú Bình, những việc làm được, đặc biệt là những mặt còn hạn chế,
thiếu sót, những bất cập, lỗ hổng trong quản lý.
- Đưa ra một số giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về đào tạo nghề ở huyện
Phú Bình trong thời gian tới.
2



I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DẠY NGHỀ, NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI
QUYẾT
a. Khái quát tình hình chung
Phú Bình nằm ở phía nam của tỉnh Thái Nguyên, Tổng diện tích tự nhiên của huyện:
249.306,11 ha; trong đó diện tích đất nông nghiệp là 13.845,93 ha.
Dân số của huyện là 134.204 người, mật độ dân số 548,7 người/km2, huyện Phú
Bình có 21 đơn vị hành chính cấp xã gồm 20 xã và 01 thị trấn, trong đó có 07 xã miền
núi.
Trong những năm gần đây do được đầu tư và chuyển dịch nhanh cơ cấu giống cây
trồng nên tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của huyện đạt khoảng 11,6% năm 2013.
Thu nhập bình quân 10 triệu đồng/người/năm.
Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được ổn định và từng bước được cải thiện,
giảm tỷ lệ hộ đói, hộ nghèo mỗi năm phấn đấu giảm 3%. Sự nghiệp giáo dục đào được
quan tâm và không ngừng phát triển.
Để thực hiện có hiệu quả chính sách lao động, việc làm của Đảng và Nhà nước phát
huy nguồn nhân lực con người trong việc phát triển kinh tế xã hội đảm bảo chuẩn bị
được lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, có tay nghề đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Phấn đấu đến năm 2015 phải hoàn thành tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt từ 40%
- 50% trong đó qua đào tạo nghề là 40%, một số có yêu cầu khá cao với công tác đào
tạo nghề, mặt khác nhu cầu không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo với đội ngũ
người lao động có đủ trình độ kỹ thuật để kịp hoà nhập với cộng đồng quốc tế và khu
vực cũng đang là một đòi hỏi cấp thiết đối với công tác tạo dạy nghề.
Phú Bình là một huyện có vị trí địa lý thuận lợi tiếp giáp với nhiều trung tâm kinh tế
lớn trong và ngoài tỉnh. Trong đó có khu Công nghiệp Gang thép Thái Nguyên, khu
công nghiệp Sông Công và các trung tâm kinh tế của các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh.
Số lao động của huyện nếu được đào tạo bồi dưỡng đảm bảo chuyên môn và tay
nghề thì không những là động lực thúc đẩy kinh tế xã hội của huyện phát triển mà còn
3



cung cấp nguồn lao động dồi dào cho các địa phương lân cận.
Do diện tích đất có hạn, lực lượng lao động lại tập trung chủ yếu vào khu vực sản
xuất nông nghiệp cho nên tình trạng thất nghiệp thời vụ và không có việc làm ổn định
chiếm tới 29,8% dân số. Số lao động này cũng cần phải được đào tạo, bồi dưỡng, hướng
nghiệp dạy nghề để có đủ điều kiện phát triển kinh tế nông hộ theo hướng sản xuất làng
nghề. Hiện nay huyện đang khôi phục lại các làng nghề truyền thống như: Mây tre đan,
nghề mộc mỹ nghệ... và bổ sung cho các khu vực sản xuất khác như May công nghiệp,
cơ khí...
Tại đại hội huyện Đảng bộ khoá 25 huyện Phú Bình đã xác định cơ cấu kinh tế của
huyện hiện nay là nông lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong đó tỷ lệ trong
thu nhập:
+ Nông lâm ngư nghiệp là 33,3%
+ Tiểu thủ công nghiệp xây dựng là 34,7%
+ Dịch vụ khác là 32%
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp theo
đòi hỏi huyện phải chuẩn bị cho được lực lượng lao động phù hợp đối với từng lĩnh vực
kinh tế trong từng vùng.
Hiện nay huyện Phú Bình có khoảng 95000 lao động. Trong đó khu vực nông thôn
có 61.750 lao động chiếm 65%, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là 9.500 lao động
chiếm 10%, dịch vụ là 23.750 lao động chiếm 25%. Số lao động này đòi hỏi phải có tay
nghề và trình độ quản lý nhất định mới đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị
trường.
Theo kế hoạch trung bình mỗi năm số lao động nông nghiệp phải chuyển sang các
ngành nghề khác là 0,25% (tức là 23.750 lao động) số học sinh nông thôn hàng năm
không tiếp tục theo học và không đỗ vào các trường đại học, cao đẳng bổ sung cho lực
lượng lao động tại địa phương 2.000 người.
Căn cứ vào sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, nhu cầu học nghề của người lao động tại địa

4


phương. Việc tổ chức dạy nghề may công nghiệp là yêu cầu khách quan, phù hợp với
chuyển dịch cơ cấu lao động tạo ra được lực lượng lao động có tay nghề, có trình độ
chuyên môn là nguồn lực thúc đẩy kinh tế xã hội của huyện phát triển. Đồng thời cũng
là điều kiện để giải quyết vấn đề lao động, việc làm cho người lao động của huyện trong
nền kinh tế thị trường hiện nay.
Nghị quyết huyện Đảng bộ và HĐND huyện là giải quyết việc làm cho 2.800 lao
động. Tăng quy mô dạy nghề hàng năm từ 15 - 24%, liên kết dạy nghề là 10,5%. Trong
5 năm tới cần có kế hoạch dạy nghề cho 4.500 – 5.000 lao động.
b. Tình hình quản lý Nhà nước về dạy nghề ở huyện Phú Bình trong giai đoạn
hiện nay.
Hệ thống pháp luật dạy nghề Việt Nam đã bảo đảm được các nguyên tắc cơ bản, đáp
ứng được yêu cầu về hình thức, trình tự, thủ tục ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật; điều chỉnh được phần lớn quan hệ xã hội quan trọng phát sinh trong lĩnh vực
dạy nghề, tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động dạy nghề; tháo gỡ một phần những
vướng mắc, bức xúc trong thực tiễn. Đồng thời cũng là cơ sở để các cơ quan, đơn vị
thực hiện quản lý theo chức năng và các tổ chức, cá nhân thực hiện.
Ngày 27 tháng 11 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1956/QĐTTg về việc phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. Song
song đó, các chương trình dạy nghề đã và đang được xây dựng theo phương pháp tiên
tiến, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn sản xuất, thay đổi của kỹ thuật, công nghệ. Đã
xây dựng mới 60 chương trình dạy nghề ngắn hạn; 80 bộ chương trình dạy nghề dài
hạn; nhiều bộ, ngành và các cơ sở dạy nghề đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các
chương trình dạy nghề, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Việc xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý tại các cơ sở đào tạo nghề cũng
từng bước được quan tâm nhưng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Trung tâm thiếu giáo
viên cơ hữu ở một số nghề quan trọng, kinh nghiệm giảng dạy và chất lượng đội ngũ
giáo viên dạy nghề không đều; Nhiều doanh nghiệp vào địa bàn tuyển dụng lao động

phổ thông không cần qua đào tạo (Công ty Sam sung, Canon,…) tuyển sinh và đào tạo
5


các nghề phi nông nghiệp gặp nhiều khó khăn; Nguồn kinh phí Ngân sách huyện giành
cho công tác đào tạo nghề còn hạn chế.
Tổ chức thực hiện việc kiểm định chất lượng dạy nghề và đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ
năng nghề là một trong những điểm yếu và còn bị bỏ ngỏ trong công tác QLNN về dạy
nghề thời gian qua. Tổng cục Dạy nghề đã thành lập Phòng Kiểm định chất lượng dạy
nghề và Phòng đánh giá kỹ năng nghề quốc gia trực thuộc Tổng cục nhằm đẩy mạnh
công tác này.
Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề đã bước đầu phát triển theo xu hướng xã hội hoá,
đào tạo theo nhu cầu của người lao động. cơ cấu nguồn tài chính giai đoạn 2009 - 2015
là: 80% từ Ngân sách Nhà nước theo Quyết định 1956/QĐ-TTg; 20% từ Ngân sách
huyện.
Hợp tác trong lĩnh vực dạy nghề đã dần được tăng cường nhưng vẫn còn chưa đạt
hiệu quả như mong muốn.
Cơ sở vật chất đầu tư cho Trung tâm dạy nghề lạc hậu và không đủ đáp ứng cho dạy
và học trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay.
Người lao động tham gia học tập đa số là lao động chính trong gia đình nên vẫn còn
nghỉ nhiều, chưa sắp xếp được thời gian hợp lý để đi học do vừa đi học lại vừa phải
chăm lo cho công việc gia đình, việc đồng áng...
Đó là tình huống xảy ra tại Trung tâm dạy nghề huyện Phú Bình. Đứng trên góc độ
là cán bộ quản lý của Trung tâm cần xử lý tình huống như thế nào?

6


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DẠY
NGHỀ Ở HUYỆN PHÚ BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Để có kế hoạch, phương án xử lý tình huống hiệu quả trước tiên cần xác thực những
nội dung vướng mắc cần giải quyết. Sau đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của quản lý
Nhà nước về dạy nghề để đưa ra giải pháp xử lý tình huống và ngăn chặn những tình
huống tương tự xảy ra tiếp theo. Xác định rõ nguyên nhân và hậu quả của tình huống đã
xảy ra.
1. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề
a. Khái niệm chung về quản lý và quản lý Nhà nước:
Quản lý là tác động một cách có tổ chức, và định hướng của chủ thể quản lý vào một
đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm
duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định.
QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực Nhà nước và sử
dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện, nhằm thoả mãn
nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
b. Khái niệm quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề:
QLNN trong lĩnh vực dạy nghề là quản lý theo ngành do một cơ quan Trung ương
thực hiện. Đó là việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
cơ chế và chính sách phát triển lĩnh vực dạy nghề của đất nước, phù hợp với sự phát
triển kinh tế - xã hội.
QLNN trong lĩnh vực dạy nghề về bản chất là QLNN về giáo dục nhưng có đặc
trưng riêng:
+ Chủ thể QLNN trong lĩnh vực dạy nghề là các cơ quan trong bộ máy Nhà nước từ
Trung ương tới địa phương theo quy định của pháp luật.
+ Đối tượng QLNN trong lĩnh vực dạy nghề: Là mọi hoạt động dạy nghề
+ Mục tiêu quản lý: Đi sâu vào mục tiêu đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, ý
thức kỷ luật, tác phong công nghiệp.
7


2. Nguyên nhân

a. Nguyên nhân khách quan
- Hiện nay, lao động nông thôn có khoảng 32,7 triệu người chiếm tới 76% dân số
trong độ tuổi lao động của cả nước. Đây là lực lượng lao động có vai trò quan trọng
trong quá trình thực hiện sụ nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước và sự ổn
định chính trị của đất nước. Song thực tế hiện nay, lực lượng lao động nông thôn được
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về nghề nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp, hầu hết các kiến
thức, kinh nghiệm người lao động sử dụng đều thông qua sự đúc rút kinh nghiệm trong
quá trình làm việc và sự truyền dạy lại của các thế hệ trước;
- Việc đào tạo chưa gắn với nhu cầu, chưa phù hợp với tâm lý của người lao động,
tuyển sinh còn chồng chéo, có biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa các Trung
tâm trong và ngoài huyện. Việc hỗ trợ của các cấp chính quyền, các ngành về đất đai,
vốn, tìm việc làm để phát huy kiến thức sau học nghề rất hạn chế, chưa bố trí được. Cơ
sở vất chất cho các cơ sở dạy nghề còn thiếu, đặc biệt là các trung tâm dạy nghề mới
thành lập, trung tâm dạy nghề trực thuộc các đoàn thể. Đội ngũ giáo viên cơ hữu còn
thiếu, chương trình, nội dung đào tạo chưa thực sự sát với thực tế địa phương, còn nặng
về lý thuyết, kỹ năng thực hành của một số giáo viên hạn chế. Việc xây dựng kế hoạch
dạy nghề chưa thực sự sát với nhu cầu người học, còn có hiện tượng giao chỉ tiêu dạy
nghề cho các cơ sở dạy nghề chưa căn cứ đúng năng lực, thực tế.
- Hệ thống giáo trình, chương trình khung do Bộ ban hành còn nhiều thiếu sót, chỉ
áp dụng được phần nào vào quá trình giảng dạy cho người lao động. Chưa phù hợp với
thực tế của địa phương;
- Các Công ty, doanh nghiệp tuyển lao động phổ thông không cần qua đào tạo dẫn
tới người lao động không cần học nghề cũng có thể đi làm.
b. Nguyên nhân chủ quan
- Mặc dù Đề án 1956 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành từ ngày 27/11/2009
nhưng hơn 3 năm sau (12/12/2012), các bộ liên quan mới ban hành thông tư liên tịch
hướng dẫn thi hành nên các địa phương, đơn vị rất lúng túng, bị động trong quá trình
8



triển khai thực hiện. Đến nay, công tác quản lý nhà nước về dạy nghề cho LĐNT ở địa
phương, đơn vị trên địa bàn còn lỏng lẻo. Vai trò quản lý hết sức mờ nhạt do thiếu các
văn bản quy định, cán bộ phụ trách không nắm rõ chức trách, nhiệm vụ của mình,
không nắm vững nội dung Đề án 1956 và văn bản hướng dẫn của các cấp nên không
chủ động tham mưu và thực hiện chức năng quản lý...
- Mặc dù các địa phương cấp xã đã lập kế hoạch nhu cầu học nghề, nhưng báo cáo
này không được các cơ quan chức năng sử dụng để làm căn cứ phân bổ chỉ tiêu, ra
thông báo mở lớp. Trong khi đó, các cơ sở dạy nghề phải trực tiếp về các địa phương
tuyển sinh theo các ngành nghề đã được phê duyệt dẫn đến các ngành nghề được đào
tạo nhiều khi không sát với nhu cầu thực tiễn, gây khó khăn trong quá trình tìm việc
làm của người lao động và đôi khi không đáp ứng với nhu cầu cần học nghề
- Trình độ văn hóa của lao động nông thôn ở mức thấp, phần lớn ở trình độ tiểu học
và trung học cơ sở, chỉ có số ít trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông;
- Đại bộ phận lao động nông thôn chưa có nhận thức đúng về đào tạo nghề, học
nghề. Một phần do tập quán và thói quen canh tác, nông dân tiến hành sản xuất nông
nghiệp theo kinh nghiệm, nông dân coi sản xuất nông nghiệp nói riêng và các hoạt động
khác trong khu vực nông thôn nói chung là công việc giản đơn không phải học. Do đó
nông dân nhận thức về việc học tập để sản xuất chưa thực sự cần cho bản thân họ. Nhu
cầu học tập của họ được dồn vào cho thế hệ con cháu với mục đích là tìm lối thoát khỏi
nghề nông và cuộc sống ở nông thôn;
- Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong một thời gian dài chưa được coi trọng
đúng mức. Nhiều ngành, địa phương và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề
cho lao động nông thôn, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh có tính thời điểm, không phải
là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống;
- Đào tao nghề hiện nay thường tập trung vào các ngành mũi nhọn trong lĩnh vực
công nghiệp, thương mại và dịch vụ…Đồng thời nhận thức về nguồn lao động lâu nay
mới được quan tâm về mặt số lượng, về chất lượng, trình độ của nguồn lao động như
khả năng và năng lực thực hiện các công việc có hiệu quả cao ít được chú ý đặc biệt là
đối với lao động nông thôn;
9



- Các hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn hiện mới chỉ dừng lại ở mức quy
mô nhỏ, rời rạc, thiếu thống nhất, thông qua các chương trình hoặc hoạt động như
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư là chủ yếu. Việc xây dựng các chiến lược đào
tạo, kế hoạch đào tạo lao động nông thôn dài hạn cho các làng nghề, vùng chuyên canh
chưa căn cứ vào thực trạng lao động, định hướng phát triển của địa phương, nhu cầu về
nguồn nhân lực…
- Phần lớn các nghề dạy trong các trung tâm chưa gần với nghề khu vực nông thôn
cần có, đối tượng đến học cũng không phải là nông dân, những người đang làm việc ở
khu vực nông thôn mà mới chỉ dừng lại ở đối tượng con em của nông dân là chủ yếu,
các điều kiện dạy và học rất hạn chế cả về quy mô và tính kỹ thuật, khó có khả năng
đáp ứng được các mục tiêu đào tạo. Các điều kiện dạy và học của cơ sở dạy nghề cho
lao động nông thôn hiện nay rất nghèo, nhỏ bé về quy mô, lạc hậu về kỹ thuật thiếu về
chủng loại, không có nơi thực hành, thực tập tay nghề;
- Đội ngũ giáo viên dạy nghề cho lao động nông thôn còn thiếu về số lượng và chất
lượng. Hiện tại chưa có chương trình nào đào tạo giáo viên nông nghiệp, hầu hết các
giáo viên dạy nghề cho lao động nông thôn thiếu kiến thức và kỹ năng khi làm việc với
nông dân. Mặt khác các hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực nông thôn rất đa
dạng, đồi hỏi người giáo viên không chỉ có kiến thức chuyên môn, mà còn cần có
những kiến thức lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng mô hình, giám sát đánh
giá…
- Tài liệu đào tạo lao động nông thôn chưa đáp ứng kịp với sự thay đổi của khoa học
công nghệ trong nông nghiệp, đồng thời chưa căn cứ vào nhu cầu học tập của người lao
động, chưa có sự tham gia của người nông dân trong quá trình xây dựng và phát triển
tài liệu. Các tài liệu phần lớn viết theo hướng hàn lâm, viết nhiều và dài, trong khi đó
với tâm lý người nông dân rất ngại đọc các tài liệu viết dài, nhiều chữ ít có hình…
- Thời gian và các tổ chức lớp học chưa thực sự phù hợp lao động nông thôn. Những
người lao động nông thôn thường là những lao động chính trong gia đình, do vậy họ
không thể và không muốn tham gia các khóa học với thời gian dài, địa điểm xa nhà,

phương pháp giảng dạy theo hướng lý thuyết nhiều;
10


- Tổ chức bộ máy, cán bộ QLNN trong lĩnh vực dạy nghề; chỉ đạo việc đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu
dạy nghề trong giai đoạn hiện nay.
- Tổ chức thực hiện việc kiểm định chất lượng dạy nghề và đánh giá, cấp chứng chỉ
kỹ năng nghề quốc gia chưa được thường xuyên và kịp thời;
- Kinh phí đầu tư cho công tác đào tạo dạy nghề còn hạn chế.
3. Hậu quả
- Đề án 1956 khẳng định: “Đào tạo nghề cho LĐNT là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước, của các cấp, ngành và xã hội…”. Tuy vậy, sau hơn 5 năm triển khai, sự chuyển
biến về nhận thức và hành động của CBCC và nhân dân trên địa bàn còn chậm. Chỉ
những đối tượng được các cơ sở đào tạo nghề hoặc các tổ chức, đoàn thể đến tận nhà tư
vấn, vận động đi học nghề nắm được một số nội dung liên quan đến quyền lợi của mình
khi tham gia Đề án 1956. Còn lại, hầu hết LĐNT đều không nắm bắt được các nội dung
chủ trương, chính sách của đề án làm ảnh hưởng trược tiếp tới quyền lợi của người lao
động muốn học nghề;
- Bên cạnh đó, hoạt động điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của LĐNT
vừa là khâu yếu, vừa là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện đề án. Trên
thực tế, số liệu điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu của chính quyền cơ sở hàng năm
chưa chính xác, chưa phù hợp với cơ cấu lao động theo quy hoạch KT-XH, quy hoạch
sản phẩm chủ lực của địa phương. Nhiều nơi, thực hiện công tác đào tạo nghề đang
nhằm mục tiêu hướng tới tỷ lệ lao động đã qua đào tạo theo tiêu chí xây dựng NTM;
chưa chú trọng đến chất lượng và hiệu quả sau đào tạo đối với thu nhập của người dân
và sự phát triển kinh tế của địa phương dẫn đến thiệt hại về kinh tế;
- Có thể nói, từ những nguyên nhân, hậu quả nêu trên, thì hệ quả tất yếu là kết quả
thực hiện một số mục tiêu trong Đề án 1956 chưa đạt được như mong muốn. Tuy chưa
có con số thống kê đầy đủ, nhưng qua khảo sát tại một số địa bàn trong huyện cho thấy,

số người có việc làm ổn định sau khi tham gia học nghề đạt tỷ lệ rất thấp. Nguyên nhân
là do chất lượng đào tạo chưa đảm bảo để người dân thành nghề, rất nhiều người học
11


xong không chuyển đổi được nghề, đặc biệt đối với một số nghề nông nghiệp mới du
nhập như làm nấm, mây tre đan…
- Những bất cập trong Quản lý nhà nước về dạy nghề đã làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với đội ngũ nhà giáo, đối với Trung tâm và các cấp lãnh đạo;
- Việc khắc phục những tồn tại, bất cập để công tác dạy nghề cho LĐNT đạt hiệu quả
thực chất rất cần được các cấp quản lý nhìn nhận một cách nghiêm túc, thấu đáo. Song
trước mắt, vấn đề cần nhất lúc này để tránh lãng phí ngân sách của Nhà nước, công sức
của nhân dân là khẩn trương rà soát và chấn chỉnh việc tổ chức thực hiện Đề án 1956
theo hướng quản lý chặt chẽ, đưa hiệu quả đào tạo đi vào thực chất, tránh tình trạng
“phấn đấu thi đua hoàn thành kế hoạch cấp trên giao”. Có như vậy, Đề án 1956 mới
thực sự mang lại hiệu quả thiết thực cho người dân.

12


III. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Trước tình hình thực tế như vậy, là một người làm công tác quản lý Nhà nước về dạy
nghề cần phải xác định rõ mục tiêu của việc xử lý tình huống Quản lý nhà nước về dạy
nghề như đã nêu trên cụ thể như sau:
- Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả, tăng quy mô, mở rộng cơ
cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong
sản xuất phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của huyện nhà và các khu vực lân cận, đáp
ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới của địa phương;
- QLNN trong lĩnh vực dạy nghề theo hướng cầu của thị trường lao động, gắn chặt
với đổi mới chung của đất nước, nhất là đổi mới về chính sách phát triển nguồn nhân

lực quốc gia;
- QLNN trong lĩnh vực dạy nghề theo hướng đa dạng hoá hoạt động dạy nghề, đa
tầng, đa cấp trình độ và ngành nghề đào tạo; đảm bảo cơ cấu trình độ đào tạo hợp lý,
thích ứng nhanh với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự phát triển không ngừng của khoa
học công nghệ;
- QLNN trong lĩnh vực dạy nghề một cách toàn diện, đồng bộ theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá; bảo đảm công bằng về cơ hội học nghề cho mọi người;
- Đổi mới tư duy trong quản lý dạy nghề; đổi mới chính sách, cơ chế quản lý, tổ
chức bộ máy theo hướng nâng cao năng lực QLNN; Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý
dạy nghề, khắc phục tình trạng chồng chéo, kém hiệu lực của hệ thống quản lý; Tổ chức
lại bộ máy QLNN trong lĩnh vực dạy nghề theo hướng tăng cường hiệu lực và hiệu quả
quản lý với nguồn biên chế hợp lý;
- Định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý cho các cơ sở dạy nghề hoạt động có
hiệu quả; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực dạy nghề; Thực hiện phân cấp quản lý
mạnh mẽ cho các Bộ, ngành, các địa phương, giao quyền quản lý về tổ chức, cán bộ, tài
chính cho các cơ quan quản lý dạy nghề; Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực
dạy nghề và đổi mới phương thức quản lý dạy nghề, đổi mới công tác tổ chức cán bộ.
13


- Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy nghề cho đơn vị dạy nghề công lập; Đổi mới nội dung, chương trình,
giáo trình đào tạo theo định hướng thị trường, sát hợp với thực tế sản xuất;
- Phấn đấu mỗi năm đào tạo cho khoảng 2000 lao động có tay nghề, đáp ứng nhu cầu
tuyển dụng của các doanh nghiệp trên địa bàn và góp phần vào xây dựng nông thôn
mới, xoá đói giảm nghèo của địa phương.;
- Tích cực thông tin, tuyên truyền tới người lao động về chế độ và quyền lợi của
người học nghề theo Quyết định 1965/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để người dân
lắm được và không bị thiệt thòi khi không biết thông tin để đăng ký học;

- Tăng nguồn kinh phí hỗ trợ cho người học nghề tham gia khoá học và hỗ trợ cho
người lao động vay vốn sau khi học xong để áp dụng vào sản xuất.

14


IV. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Những vấn đề bất cập trong công tác Quản lý Nhà nước về dạy nghề là vấn đề đáng
lo ngại, trăn trở của các nhà quản lý và cũng là vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Để khắc
phục tình trạng nêu trên, giải quyết bức xúc của người lao động để hoạt động dạy nghề
vào nề nếp, chế độ quyền lợi của học viên được đảm bảo, đòi hỏi người quản lý phải sử
dụng và phối hợp nhiều phương pháp một cách đồng bộ thì mới giải quyết được vấn đề
trên một cách có hiệu quả. Sau đây là các biện pháp để giải quyết tình huống nói trên:
1. Biện pháp thứ nhất: Thành lập ban chỉ đạo thực hiện Đề án 1956 ở cấp huyện,
cấp xã theo Thông tư liên tịch số 30/2012/TTLT-BLĐTBXH-BNV-BNN&PTNT-BCTBTTTT, ngày 12 tháng 12 năm 2012 của Bộ Lao động thương binh xã hội - Bộ nội vụ Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Bộ Công thương - Bộ Thông tin truyền thông
về việc hướng dẫn trách nhiệm tổ chức thực hiện Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27
tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020”
- Ưu điểm:
+ Thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát được hoạt động dạy nghề một cách đồng bộ
giữa cáp cấp, các ban ngành, đoàn thể với đơn vị dạy nghề;
+ Có sự phối kết hợp giữa đơn vị quản lý nhà nước với cơ sở dạy nghề từ đó đề xuất
được ý kiến đóng góp, bổ xung những điều còn bất cập trong quá trình Dạy nghề tại cơ
sở với các cơ quan chức năng để ngày một hoàn thiện hơn;
+ Có sự phối hợp nhịp nhàng giữa đơn vị dạy nghề với chính quyền cấp xã, giữa
giáo viên với học viên, giáo viên với quản lý lớp học tại địa phương;
+ Xử lý được những vướng mắc, vi phạm trong hoạt động dạy nghề.
- Nhược điểm:
+ Hiện tại theo Thông tư liên tịch số 30/2012/TTLT-BLĐTBXH-BNV-BNN&PTNTBTTTT Ở cấp huyện và cấp xã chưa được chú trọng. Cụ thể ở cấp huyện mới chỉ phân
công một lãnh đạo phụ trách chung về công tác dạy nghề mà chưa thành lập được ban

chỉ đạo Đề án 1956, ở cấp xã không được triển khai tập huấn về công tác đào tạo nghề
15


cho lao động nông thôn mà mới chỉ nghe thông tin qua đài, báo...nên cũng không thành
lập Ban chỉ đạo Đề án 1956 theo Thông tư hướng dẫn, dẫn đến sự bế tắc trong khâu
quản lý về công tác dạy nghề trên địa bàn huyện Phú Bình, không có sự phối hợp quản
lý giữa các cấp, các ban ngành đoàn thể với nhau;
+ Phòng LĐTBXH đóng vai trò là đơn vị quản lý trên lĩnh vực dạy nghề chưa có cán
bộ chuyên môn phụ trách công tác dạy nghề gây tình trạng các đơn vị dạy nghề trong và
ngoài huyện có sự cạnh tranh không lành mạnh, tạo nên dư luận xấu trong lòng người
dân.
2. Biện pháp thứ hai: Đổi mới cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực bộ máy quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề:
- Ưu điểm:
+ Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý dạy nghề, khắc phục tình trạng chồng chéo,
kém hiệu lực của hệ thống quản lý;
+ Tổ chức lại bộ máy QLNN trong lĩnh vực dạy nghề theo hướng tăng cường hiệu
lực và hiệu quả quản lý với nguồn biên chế hợp lý. Đổi mới tổ chức bộ máy làm công
tác quản lý ở địa phương giúp cho quá trình quản lý được thông suốt;
+ Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực dạy nghề và đổi mới phương thức
quản lý dạy nghề tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở dạy nghề thực hiện nhiệm vụ và đáp
ứng được quyền lợi của người lao động.
- Nhược điểm:
Do nguồn biên chế hạn hẹp nên khó thực hiện, đa phần vẫn phải kiêm nhiệm nên
mức độ hoàn thành công việc không cao, chưa đáp ứng được với nhu cầu đề ra;
3. Biện pháp thứ ba: Bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng dạy nghề bằng
cách: Đẩy mạnh đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên; Tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy nghề; Đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình và phương
pháp giảng dạy; Xây dựng và từng bước áp dụng các tiêu chí kiểm định chất lượng

nghề.
- Ưu điểm:
16


+ Thực hiện bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ về chính trị, phương pháp, kỹ
năng, kỹ thuật, công nghệ mới cũng như ngoại ngữ và tin học cho đội ngũ giáo viên dạy
nghề để đội ngũ giáo viên được cập nhật những thông tin mới nhất, tiên tiên nhất áp
dụng vào công tác giảng dạy của mình giúp cho chất lượng đào tạo đạt kết quả cao,
giúp người lao động nắm được những kiến thức mới nhất, không lạc hậu so với địa
phương và khu vực lân cận;
+ Sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, chương trình mục
tiêu, vốn tự có và các dự án hợp tác để nâng cấp trang thiết bị dạy nghề. Xây dựng và
ban hành các chính sách để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động
tham gia học nghề. Đổi mới chính sách tài chính, tăng hiệu quả đầu tư từ ngân sách theo
hướng đầu tư có trọng điểm giúp cho công tác dạy nghề ngày một phát triển và hoàn
thiện hơn;
+ Đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo theo định hướng thị trường, sát
hợp với thực tế sản xuất; Cải tiến phương pháp đào tạo theo hướng nâng cao kỹ năng
thực hành của người học; Phát triển chương trình dạy nghề theo phương pháp tiên tiến
của thế giới; Đa dạng hoá hình thức đào tạo, chú trọng đào tạo chính quy, tăng cường
đào tạo gắn với doanh nghiệp.
+ Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về kiểm định chất lượng dạy nghề; Xây
dựng và ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích các cơ sở dạy nghề tổ chức kiểm
định; Xây dựng đội ngũ cán bộ và hoàn thiện hệ thống tổ chức kiểm định chất lượng
dạy nghề.
- Nhược điểm:
+ Thực hiện biện pháp trên không phải do một cấp làm được, nó đòi hỏi tất cả các
cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương phải vào cuộc mới tạo được sự chuyển
biến tích cực trong công tác Quản lý về dạy nghề;

+ Biên chế giao cho các đơn vị Dạy nghề còn hạn chế, mới chỉ đủ một phần về bộ
máy quản lý. Thiếu biên chế về cán bộ quản lý, giáo viên cơ hữu;

17


Tóm lại trong 3 biện pháp như đã nêu trên thì biện pháp thứ nhất: Thành lập ban chỉ
đạo thực hiện Đề án 1956 ở cấp huyện, cấp xã theo Thông tư liên tịch số
30/2012/TTLT-BLĐTBXH-BNV-BNN&PTNT-BCT-BTTTT, ngày 12 tháng 12 năm
2012 của Bộ Lao động thương binh xã hội - Bộ Nội vụ - Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn - Bộ Công thương - Bộ Thông tin Truyền thông về việc hướng dẫn trách
nhiệm tổ chức thực hiện Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020” là biện pháp tối ưu, khoa học và hiệu quả nhất. Nó khắc phục được những điểm
yếu kém trong công tác quản lý về dạy nghề, góp phần nâng cao chất lượng dạy nghề,
đem lại lợi ích thiết thực cho người lao động, cho địa phương và cho toàn xã hội.

18


V. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Phân công trách nhiệm, thời hạn thực hiện cho các tổ chức và cá nhân:
a. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp huyện
- Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn của huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã triển khai
thực hiện Đề án trên địa bàn;
- Đề xuất danh mục nghề nông nghiệp, nghề phi nông nghiệp; nhu cầu học nghề nông
nghiệp, phi nông nghiệp và các cơ sở có đủ điều kiện tham gia dạy nghề cho lao động nông
thôn trên địa bàn huyện, gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, trình
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
- Hàng năm, 5 năm tổng hợp kế hoạch, dự toán kinh phí dạy nghề cho lao động nông

thôn để thực hiện Đề án của huyện (bao gồm cả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
xã), gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hội và Sở Nội vụ để tổng hợp, trình Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh;
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện dạy nghề cho lao động nông thôn theo quy định và
thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án trên địa bàn huyện;
- Bố trí 01 biên chế chuyên trách theo dõi công tác dạy nghề cho Phòng Lao động Thương binh và Xã hội; bảo đảm các điều kiện về ngân sách, biên chế cán bộ quản lý,
giáo viên dạy nghề, cơ sở vật chất cho cơ sở dạy nghề công lập trực thuộc để thực hiện
dạy nghề theo kế hoạch;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở có đủ điều kiện tham gia dạy nghề cho lao
động nông thôn trên địa bàn huyện;
- Định kỳ 6 tháng, hàng năm, 5 năm xây dựng báo cáo tình hình thực hiện trách
nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo các nội dung nêu trên và hàng năm đề xuất
khen thưởng các tập thể, cá nhân có nhiều thành tích trong thực hiện Đề án trên địa bàn
huyện, gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh.
b. Trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn cấp huyện
- Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội
19


+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn có liên quan của huyện xây dựng kế
hoạch, dự toán nhu cầu kinh phí thực hiện Đề án hàng năm, 5 năm trình Ủy ban nhân
dân cấp huyện;
+ Hướng dẫn cán bộ làm công tác Lao động -Thương binh và Xã hội cấp xã xây
dựng kế hoạch thực hiện Đề án hàng năm và 5 năm, trình Ủy ban nhân dân cấp xã;
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xác định danh mục nghề đào tạo và
nhu cầu học nghề phi nông nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn huyện;
+ Tổng hợp danh mục nghề nông nghiệp, nghề phi nông nghiệp; nhu cầu học nghề
nông nghiệp, phi nông nghiệp và kế hoạch dạy nghề nông nghiệp, nghề phi nông nghiệp
cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện, trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện;

+ Thông báo công khai cho các cơ sở trên địa bàn huyện về việc tham gia dạy nghề
cho lao động nông thôn;
+ Chủ trì, phối hợp với Phòng Công thương, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (hoặc Phòng Kinh tế) lựa chọn các cơ sở có đủ điều kiện dạy nghề cho lao động
nông thôn trên địa bàn huyện theo quy định, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đối với
những nghề mà các cơ sở trên địa bàn huyện không đủ điều kiện tổ chức đào tạo, Phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội tổng hợp báo cáo Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội;
+ Xây dựng, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt và tổ chức thực hiện kế
hoạch thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án trên địa bàn
huyện;
+ Định kỳ 6 tháng, hàng năm, 5 năm xây dựng báo cáo tình hình thực hiện Đề án và
hàng năm đề xuất khen thưởng các tập thể, cá nhân có nhiều thành tích trong thực hiện
Đề án trên địa bàn huyện, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Phòng Nội vụ
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng kế hoạch, dự toán nhu
cầu kinh phí hàng năm, 5 năm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, gửi Phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện;
20


+ Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã; xây dựng quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã đến năm 2015 và đến năm 2020 của địa
phương;
+ Phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan có liên
quan kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án trên địa bàn huyện;
- Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
+ Xây dựng kế hoạch, dự toán nhu cầu kinh phí thực hiện dạy nghề nông nghiệp
hàng năm, 5 năm trên địa bàn huyện theo phân công, phân cấp quản lý, gửi Phòng Lao
động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện;

+ Trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc dạy nghề nông nghiệp cho lao động
nông thôn trên địa bàn huyện;
+ Cung cấp thông tin về định hướng, các quy hoạch sản xuất, quy hoạch xây dựng
nông thôn mới của huyện và hướng dẫn cấp xã xác định danh mục nghề đào tạo, nhu
cầu học nghề nông nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn xã;
+ Chủ trì xác định danh mục nghề đào tạo và nhu cầu học nghề nông nghiệp của lao
động nông thôn trên địa bàn huyện, gửi Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội để
tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện;
+ Đề xuất các cơ sở có đủ điều kiện tham gia dạy nghề nông nghiệp cho lao động
nông thôn trên địa bàn huyện theo quy định, gửi Phòng Lao động - Thương binh và Xã
hội để tổng hợp trình Ủy ban nhân dân cấp huyện;
+ Phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan có liên
quan kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án trên địa bàn huyện;
- Phòng Kinh tế hạ tầng
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan khảo sát, xác định nhu cầu sử dụng
lao động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ của các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn huyện, gửi Phòng Lao động Thương binh và Xã hội để tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện;

21


+ Hướng dẫn các xã khai thác thông tin thị trường hàng hóa cho lao động nông thôn
trên các kênh thông tin về tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm; hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp;
+ Đề xuất các cơ sở có đủ điều kiện dạy nghề phi nông nghiệp cho lao động nông
thôn trên địa bàn huyện theo quy định, gửi Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội để
tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân cấp huyện;
+ Phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan có liên
quan kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án trên địa bàn huyện;
- Phòng Văn hóa - Thông tin

+ Chủ trì, phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Công
Thương, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc Phòng Kinh tế) tổ chức thực
hiện chuyên mục tuyên truyền về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên các phương
tiện thông tin ở địa phương; cung cấp thông tin về các cơ sở dạy nghề có đủ điều kiện,
các nghề đào tạo, các mô hình dạy nghề gắn với việc làm có hiệu quả để lao động nông
thôn biết và lựa chọn;
+ Chỉ đạo đài phát thanh cấp huyện và truyền thanh cơ sở thực hiện công tác thông
tin, tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng về các chính sách và tình hình thực hiện các
hoạt động của Đề án;
+ Phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan có liên
quan kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án trên địa bàn huyện;
- Phòng Tài chính - Kế hoạch
+ Chủ trì, phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Nội vụ,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc Phòng Kinh tế) thẩm định kế hoạch
và dự toán kinh phí hàng năm, 5 năm để thực hiện các hoạt động dạy nghề cho lao động
nông thôn và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã trên địa bàn, trình Ủy ban nhân
dân cấp huyện;
+ Phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan có liên
quan kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án trên địa bàn huyện;
22


c. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã
- Thành lập ban chỉ đạo hoặc tổ công tác thực hiện Đề án; có quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch sản xuất, quy hoạch xây dựng nông thôn mới làm cơ sở để
thực hiện dạy nghề cho lao động nông thôn;
- Phổ biến các chính sách, quy định về dạy nghề cho lao động nông thôn; cung cấp
các thông tin về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các thông tin về
nghề đào tạo, điều kiện của nghề học, địa chỉ nơi làm việc sau khi học; cơ sở đủ điều
kiện tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn để người lao động nông thôn biết, tự

lựa chọn nghề học phù hợp;
- Thống kê số lao động nông thôn có nhu cầu thực tế cần học nghề trên địa bàn xã;
nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn; tuyên truyền, tư vấn cho lao động nông thôn lựa chọn
nghề học phù hợp; đề xuất danh mục nghề đào tạo, nhu cầu học nghề của lao động nông
thôn gửi Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc Phòng Kinh tế); nhu cầu đào tạo bồi dưỡng cán
bộ, công chức xã, gửi Phòng Nội vụ;
- Hàng năm, xây dựng kế hoạch dạy nghề cho lao động nông thôn của xã gửi Phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc
Phòng Kinh tế); xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, gửi Phòng
Nội vụ;
- Xác nhận vào đơn xin học nghề của người lao động nông thôn trong xã về đối
tượng theo quy định và các điều kiện để làm việc theo nghề đăng ký học;
- Phối hợp với các cơ sở được giao nhiệm vụ dạy nghề cho lao động nông thôn để
tuyển lao động nông thôn học nghề đủ điều kiện;
- Tạo điều kiện cho người học nghề tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng tại địa
phương theo quy định; giúp người lao động tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc
giải quyết việc làm sau học nghề;
- Tổ chức kiểm tra, giám sát việc dạy nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn xã;
23


- Lập danh sách theo dõi, thống kê số người đã học nghề, số người có việc làm theo
từng hình thức, số hộ thoát nghèo, số hộ trở thành hộ khá, số người chuyển sang làm
công nghiệp, dịch vụ sau khi học nghề trên địa bàn xã;
- Chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức đoàn thể của xã, thôn tham gia vào việc tuyên
truyền, tư vấn học nghề cho lao động nông thôn và giám sát các lớp dạy nghề ở xã;
d. Trách nhiệm của cơ sở tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn; cơ sở tham
gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã

- Cơ sở tham gia dạy nghề trình độ sơ cấp nghề phải chuẩn bị đủ các điều kiện để
hoạt dạy nghề theo quy định tại Thông tư số 29/2011/TT-BLĐTBXH ngày 24 tháng 11
năm 2011 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về đăng ký hoạt động dạy nghề và
được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề đối với nghề đào tạo;
- Cơ sở tham gia dạy nghề dưới ba tháng phải chuẩn bị đủ các điều kiện để dạy nghề
và được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội kiểm tra, thông báo bằng văn bản về
nghề đào tạo, quy mô đào tạo đối với từng nghề. Các điều kiện để dạy nghề, gồm:
- Có đội ngũ giáo viên hoặc người dạy nghề có chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm
thực tế về nghề sẽ tổ chức đào tạo; đã được bồi dưỡng kỹ năng dạy nghề cho lao động
nông thôn và phải có ít nhất 2 giáo viên hoặc người dạy nghề trực tiếp giảng dạy ở 1 lớp
dạy nghề;
- Có đủ cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy nghề phù hợp với nghề sẽ tổ chức
đào tạo và số lượng người học;
- Có chương trình, tài liệu dạy nghề của nghề sẽ tổ chức đào tạo được xây dựng và
phê duyệt phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể theo yêu cầu sản xuất, kinh doanh
hoặc quy trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi và điều kiện của người học ở từng
vùng, miền; chương trình đào tạo phải xác định rõ thời gian đào tạo và thời gian thực
học của từng nghề;
- Cơ sở được giao nhiệm vụ dạy nghề cho lao động nông thôn có trách nhiệm:
+ Phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức tuyển lao động nông thôn học nghề
đúng nghề đào tạo, đối tượng, số lượng người học, địa bàn tuyển sinh nêu trong hợp
24


đồng đặt hàng đào tạo nghề ký với cơ quan được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao nhiệm
vụ dạy nghề cho lao động nông thôn và quy chế tuyển sinh học nghề theo quy định của
Quyết định số 08/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 26 tháng 3 năm 2007 của Bộ Lao độngThương binh và Xã hội ban hành quy chế tuyển sinh học nghề;
+ Tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn theo đúng chương trình đào tạo, kế
hoạch dạy nghề đã được phê duyệt. Tổ chức kiểm tra, công nhận tốt nghiệp đối với
người học nghề trình độ sơ cấp nghề đúng quy chế thi, kiểm tra và công nhận tốt nghiệp

trong dạy nghề chính quy, theo Quyết định số 14/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 24 tháng 5
năm 2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; cấp chứng chỉ sơ cấp nghề theo
quy định. Tổ chức kiểm tra, công nhận tốt nghiệp đối với người học nghề dưới ba tháng
thực hiện theo quy định của chương trình dạy nghề; cấp chứng chỉ theo quy định;
+ Lập các biểu mẫu, sổ sách quản lý dạy và học đối với lớp dạy nghề cho lao động
nông thôn đúng hệ thống biểu mẫu, sổ sách quản lý dạy và học trong đào tạo nghề, trình
độ sơ cấp nghề theo Quyết định số 62/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 04 tháng 11 năm
2008 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành hệ thống biểu mẫu, sổ
sách quản lý dạy và học trong đào tạo nghề;
+ Thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng đặt hàng đào tạo nghề ký với cơ
quan được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao nhiệm vụ dạy nghề cho lao động nông thôn
và quản lý, sử dụng, thanh quyết toán kinh phí theo đúng quy định hiện hành; báo cáo
tình hình, kết quả tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn theo quy định;
+ Phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã theo dõi, thống kê tình trạng việc làm, thu
nhập của lao động nông thôn do cơ sở đào tạo sau học nghề.
- Cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã thực hiện theo chức
năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định hoặc được cơ quan có thẩm quyền giao. Trong
quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã phải chấp hành đầy đủ các
quy định của Nhà nước và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
2. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát.
- Thiết lập, triển khai hoạt động hệ thống kiểm định chất lượng đào tạo nghề, phổ
25


×