Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.28 KB, 92 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là khu vực nông thôn (nơi tập
trung lớn nguồn lao động chưa qua đào tạo) có vai trò hết sức quan trọng đối với
việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hịên đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 5/8/2008 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; một trong những nhiệm vụ
và giải pháp quan trọng của Nghị quyết là: “Hình thành Chương trình mục tiêu
quốc gia về ĐTN, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng
1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác ĐTN. Đến
năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng dưới 30% lao động xă hội; tỷ lệ lao
động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%” [2].
Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đã đặt ra nhiệm vụ: tập trung xây dựng kế hoạch và giải
pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở
các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ và chuyển nghề; bộ phận nông
dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để
thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao
kiến thức cho CBQL, cán bộ cơ sở [3].
Nghệ An là tỉnh có quy mô dân số và nguồn lao động lớn. Trong đó, nông
thôn Nghệ An có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng (chiếm 70% tổng lực
lượng lao động), là nơi cung cấp nhân lực cho các khu đô thị và KCN. Tuy
nhiên, nguồn lao động này chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông
nghiệp, chưa qua đào tạo; ít có cơ hội để phát huy khả năng cống hiến của mình


2



cho sự phát triển nông thôn bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bởi vậy, phát triển nguồn nhân lực, trong đó dạy nghề cho lao động nông thôn là
nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh.
Công tác ĐTN cho lao động nông thôn tỉnh Nghệ An thời gian qua tuy đã có
bước chuyển biến, nhưng vẫn còn một số hạn chế, bất cập: cơ cấu ngành nghề
chưa hợp lý, việc tổ chức dạy nghề chưa gắn với quy hoạch sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, chưa gắn với chính sách đầu tư
hạ tầng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn ở một số CSDN còn chạy theo số lượng mà chưa coi trọng chất lượng, chưa
đạt tỷ lệ lao động nông thôn sau học nghề có việc làm mới hoặc làm công việc
cũ với hiệu quả cao hơn, chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và xã
hội...
Là một cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về dạy nghề tại Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội tỉnh Nghệ An, với mong muốn góp phần tìm ra
giải pháp quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn
của tỉnh, đưa Nghệ An cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, tác giả
đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề xuất một số giải pháp quản lý có hiệu quả nhằm quản lý chất lượng
ĐTN cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An, góp phần phát triển
ĐTN của tỉnh Nghệ An.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: ĐTN cho lao động nông thôn.
- Đối tượng nghiên cứu: Các giải pháp quản lý chất lượng ĐTN cho lao
động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.


3


- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn ở đối tượng là lao động nông thôn
tham gia học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng)
trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý chất lượng ĐTN cho lao
động nông thôn.
4.2. Phân tích, đánh giá thực trạng ĐTN cho lao động nông thôn trên địa
bàn tỉnh Nghệ An.
4.3. Đề xuất các giải pháp quản lý chất lượng ĐTN cho lao động nông thôn
trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan đến
đề tài nghiên cứu từ các nguồn thông tin như: các niên giám thống kê của Cục
thống kê, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và số liệu các ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nghệ An, Cục
Thống kê, Kế hoạch và Đầu tư, các bài viết trên các tạp chí, sách báo và trên
mạng Internet,...
5.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp thống kê, so sánh: Để đánh giá thực trạng đào tạo nghề cho
lao động nông thôn và quản lý chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn;
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến cán bộ
quản lý, Ban Giám hiệu ở các cơ sở dạy nghề, ... về các giải pháp quản lý chất
lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn.


4


- Phương pháp đàm thoại: Tiến hành trò chuyện, trao đổi trực tiếp với một
số giáo viên, cán bộ quản lý có uy tín và kinh nghiệm trong công tác quản lý
nhằm thu thập thêm thông tin cho nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu thu được.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện đồng bộ, sáng tạo các giải pháp như luận văn đã trình bày
sẽ nâng cao chất lượng ĐTN cho lao động nông thôn nói riêng và lĩnh vực ĐTN
của tỉnh nói chung.
7. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Góp phần cụ thể hoá một số vấn đề về khoa học giáo dục nói
chung và vấn đề quản lý chất lượng ĐTN cho lao động nông thôn nói riêng.
- Về thực tiễn: Góp phần đánh giá thực trạng ĐTN cho lao động nông
thôn và đưa ra một hệ thống các giải pháp quản lý tương đối đồng bộ và khả thi
nhằm nâng cao chất lượng ĐTN cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ
An.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được bố cục thành 3 chương:
- Chương 1: Cở sở lí luận của vấn đề quản lý chất lượng đào tạo nghề cho
lao động nông thôn.
- Chương 2: Thực trạng ĐTN cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh
Nghệ An
- Chương 3: Một số giải pháp quản lý chất lượng ĐTN cho lao động nông
thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO

NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
Các nước phát triển trên thế giới luôn đề cao công tác ĐTN nên học sinh
được định hướng nghề nghiệp rất tốt ngay khi còn học phổ thông. Ở Nhật, Mỹ,
Đức, Nga, Na- Uy ... người ta xây dựng nên các bộ công cụ để kiểm tra giúp
phân hóa năng lực, hứng thú nghề nghiệp ở trẻ nhằm có sự định hướng nghề
nghiệp đúng đắn từ sớm. Cho nên, với họ giáo dục không chỉ phát triển trí tuệ
thuần túy mà còn chủ ý định hướng cho học sinh về nghề nghiệp phù hợp với
năng lực bản thân, đồng thời trang bị cho học sinh kỹ năng làm việc để thích
ứng với xã hội.
Na-Uy được xem là quốc gia sở hữa nhiều mô hình dạy nghề tiên tiến trên
thế giới, lại giàu kinh nghiệm trong việc quản lý hệ thống dạy nghề. Chính vì
vậy, trong nhiều năm qua chất lượng ĐTN tại quốc gia này liên tục tăng cao,
đáp ứng hiệu quả yêu cầu hội nhập và phát triển. Nhận thức được tầm qua trọng
của công tác ĐTN cũng như vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế,
từ những năm 1994 cho đến nay, Chính phủ Na Uy liên tục có những cải cách về
giáo dục – đào tạo, có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả phát triển KT-XH của
quốc gia này. Các tổ chức ĐTN Na – Uy đã thiết lập và cây dựng nhiều mô hình
linh hoạt, uyển chuyển như: “mô hình 1+3” (1 năm học tại trường và 3 năm học
nghề), “mô hình 0+4” (cả 4 năm đều học nghề); qua đó mang lại hiệu quả cao
trong công tác đào tạo tại quốc gia này. Sự kết hợp hài hòa và khoa học này đã
tạo cơ hội cho những người thợ có điều kiện học lên bậc cao hơn để nâng cao
tay nghề. Theo đánh giá của tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống ĐTN của Na Uy khá
toàn diện và ít khiếm khuyết khi kết hợp quá trình ĐTN với chương trình giáo


6

dục phổ thông. Sự kết hợp này đã tạo điều kiện để những người thợ có thể học

lên cao hơn khi họ muốn để có một tương lai sự nghiệp vững vàng hơn [21].
Nga không chỉ là quốc gia có diện tích đất nông nghiệp cũng lớn nhất thế giới. Để
có được những người nông dân tương lai gắn bó với nghề trên đồng ruộng,
Chính phủ Nga đã chú ý phát triển nhiều hình thức ĐTN khác nhau. Trước hết,
chú trọng cung cấp những kiến thức cơ bản về nghề nông cho học sinh trung học
năm cuối phổ thông, gọi là hình thức đào tạo chuyên nghiệp sơ cấp, tại các
trường CĐ chuyên nghiệp. Học sinh có nhu cầu học nghề phải làm đơn nhập học
theo Quy chế đào tạo chung của nhà nước. Những người được tuyển thường là
học sinh đã tốt nghiệp phổ thông. Sau khi được tuyển vào học, các em sẽ được
học nghề từ 1 đến 3 năm tùy thuộc vào trình độ học vấn phổ thông của mình. Có
hai hình thức đào tạo: chính quy (ban ngày) và không chính quy (ban đêm). Ở
Nga, trong hệ thống đào tạo chuyên nghiệp sơ cấp cho nông dân có 280 ngành
nghề khác nhau, từ kỹ năng nuôi trồng sản phẩm nông nghiệp, tới thương mại,
dịch vụ, kỹ thuật, giao thông trong nông nghiệp v.v..[3].
Trung Quốc là đất nước đông dân nhưng là nước có nền kinh tế ổn định
và tăng trưởng. Tuy nhiên, sự phát triển của Trung Quốc là không đồng đều. Ở
các khu vực đô thị, các trung tâm công nghiệp dịch vụ lớn có tốc độ tăng trưởng
cao. Còn ở nông thôn Trung Quốc, những nguồn lực tự nhiên, nhất là đất nông
nghiệp tương đối khan hiếm; dân số đông nhưng chất lượng thấp, kinh tế chậm
phát triển. Do đó, phát triển nguồn lao động nông thôn là giải pháp có tính quyết
định để giải quyết vấn đề “tam nông” tại Trung Quốc. Giáo dục và dạy nghề ở
Trung Quốc hiện chia làm 3 cấp. Cấp đầu tiên được thực hiện chủ yếu trong các
trường dạy nghề và nhằm đào tạo công nhân, nông dân và nhân công cho các
ngành nghề với kiến thức nghề nghiệp cơ bản và những ký năng nhất định. Để
đáp ứng nguồn lao động cho sự phát triển kinh tế địa phương, các trường dạy
nghề cấp một này chỉ mở ở các vùng nông thôn, nơi kinh tế chưa phát triển.


7


Trường dạy nghề cấp hai không chỉ cung cấp cho xã hội những công nhân lành
nghề mà họ còn được đào tạo thêm kiến thức về văn hóa để có thể thích nghi với
các khu chế xuất, KCN. Với việc học nghề kéo dài 2-3 năm, giáo dục hướng
nghiệp cấp ba ở Trung Quốc chủ yếu tuyển sinh những học viên đã từng tốt
nghiệp các trường dạy nghề cấp 2 nhằm đào tạo những công nhân có trình độ kỹ
thuật cao. Để đáp ứng nhu cầu của các nhóm người khác nhau trong việc tìm
việc làm và chuẩn bị kỹ năng để làm những nghề nghiệp khác nhau, Chính phủ
Trung Quốc đã thực hiện nhiều chương trình ĐTN. Ngoài ra, Trung Quốc cũng
đưa ra các khóa học hướng nghiệp sớm cho những tú tài đã trượt ĐH nhằm giúp
các em nắm được ký năng nghề hoặc lấy được chứng chỉ nghề trước khi bắt đầu
tìm việc [13].
Ở Hàn Quốc, chiến lược về phát triển nguồn lao động, trong đó có dạy
nghề cho người lao động được đặc biệt chú trọng. Để có nguồn nhân lực đáp
ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế nông thôn, Chính phủ phải chủ động xây
dựng và công bố các định hướng phát triển kinh tế trong dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn trên quy mô cả nước và đối với từng vùng, trên cơ sở đó hình thành kế
hoạch phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho các nhu cầu của từng ngành và
lĩnh vực kinh tế trên quy mô cả nước và đối với từng vùng, đặc biệt trong điều
kiện nền kinh tế đang trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, lĩnh vực để thực hiện CNH-HĐH. Trong quá trình này, Chính phủ phải
thường xuyên theo dõi sự biến chuyển của cơ cấu kinh tế để điều chỉnh kịp thời
công tác đào tạo nguồn nhân lực mới cho các ngành đang và sẽ hình thành và
đào tạo lại người lao động ở những ngành bị mất đi để giúp họ có đủ năng lực
chuyển sang hoạt động ở các ngành kinh tế mới. Chính phủ phải chủ động đầu
tư vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho quốc gia với những nghề mới, bao
gồm các hoạt động dạy nghề cơ bản để tạo ra người lao động có trình độ chuyên


8


môn về lý thuyết và có tay nghề thực tiễn, đủ khả năng đáp ứng tốt nhất các yêu
cầu của nền kinh tế [6].
Trong xu thế toàn cầu và hội nhập hiện nay, việc tổng kết kinh nghiệm
quản lý ĐTN của các nước trên thế giới nhằm vận dụng vào thực tiễn ĐTN ở
Việt Nam là thực sự cần thiết và cấp bách nhằm đào tạo nguồn nhân lực đủ sức
đương đầu với cạnh tranh và hợp tác.
1.1.2. Ở trong nước
ĐTN cho lao động nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước nhằm tạo mọi điều kiện cần thiết để người dân được học nghề và có việc
làm phù hợp tạo thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo; nâng cao chất lượng
cuộc sống của lao động nông thôn. Nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ lao động
nông thôn học nghề đã được ban hành đã thực sự đi vào cuộc sống, góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Điều này được cụ thể hóa trong “Chiến lược
phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020”, “Đề án ĐTN cho lao động nông thôn
đến năm 2020”, “Đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm”, “Đề án hỗ
trợ phụ nữ học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2011-2015”….
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước cũng đã đề
cập đến các vấn đề liên quan đến phát triển nguồn nhân lực nói chung và nhân
lực nông nghiệp nông thôn nói riêng.
Năm 2000, tác giả Phạm Đức Thành và tác giả Lê Doãn Khải đã xuất bản
cuốn: “Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH ở vùng
Bắc Bộ nước ta”. Công trình khoa học trên đã đưa ra các quan điểm và giải
pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
CNH-HĐH trong nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ đến năm
2010. Tuy nhiên, công trình chỉ tập trung vào các vấn đề của chuyển dịch cơ cấu


9


lao động trong điều kiện tác động của CNH-HĐH mà không đề cập đến ĐTN
với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính [11].
Năm 2000, ĐH kinh tế Quốc dân xuất bản cuốn “Thực trạng và giải pháp
phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam”, nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia. Tuy cuốn sách đã đặt ra những vấn đề cho việc nâng cao
trình độ cho chủ trang trại, đề xuất các giải pháp liên quan đến đào tạo cho chủ
trang trại; nhưng vấn đề đào tạo cho chủ trang trại chỉ thể hiện một bộ phận rất
nhỏ của nguồn lao động nông thôn [7].
Năm 2004, tác giả Đỗ Minh Cương và tác giả Mạc Văn Tiến đã xuất bản
cuốn “Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam: lý luận và thực tiễn”. Tác giả đã
phân tích, đánh giá thực trạng phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam đến năm
2010. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu không đi sâu vào các vấn đề trực diện
của ĐTN cho lao động nông thôn [14].
Năm 2005, đề tài về “Nghiên cứu thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống
của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các KCN, khu đô thị và cho nhu cầu
cộng đồng, lợi ích quốc gia” do Chính phủ giao cho ĐH Kinh tế quốc dân được
triển khai [12]. Kết quả của đề tài đã được biên tập và xuất bản thành sách.
Trong đó, thực trạng đào tạo cho những người bị thu hồi đất đã được phân tích,
đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện.
Tác giả Nguyễn Xuân Bảo, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, có những
nghiên cứu về ĐTN và đưa ra những kết quả, những hạn chế của ĐTN [10].
Người viết đã chỉ ra các nguyên nhân với sự nhấn mạnh về: Hệ thống đào tạo
giáo viên nghề chưa đạt yêu cầu, năng lực chuyên môn, kỹ năng giảng dạy thực
hành còn yếu; kiến thức và kỹ năng sư phạm còn hạn chế; chương trình ĐTN
còn lạc hậu.
Năm 2011, Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề đã xuất bản cuốn “Mô hình
dạy nghề và GQVL cho lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất”


10


[29]. Cuốn sách đã đề cập đến các vấn đề chủ yếu của đô thị hóa và những hệ
lụy đối với nông thôn Việt Nam; nhu cầu học nghề của người lao động và những
mô hình dạy nghề GQVL cho các nhóm lao động nông thôn khác nhau.
Ngoài ra, trên các tạp chí, các bài báo, trang Web và trang thông tin về
ĐTN nói chung, ĐTN cho lao động nông thôn nói riêng đã được đăng tải. Mỗi
bài viết đều thể hiện một cách nhìn, cách đánh giá về các vấn đề quan trọng như
thực trạng, kết quả ĐTN, những hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất những
giải pháp cần khắc phục.
Trên đây là sự khái lược kinh nghiệp của một số nước và một số công trình
nghiên cứu trong nước có liên quan đến vấn đề ĐTN cho lao động nông thôn.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đều đề cập các vấn đề ở tầm vĩ mô, chưa
đi sâu vào nghiên cứu quản lý chất lượng đào tạo nghề. Xuất phát từ điều kiện
KT-XH của địa phương, để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông
nghiệp, nông thôn, tác giả đi sâu nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp quản lý
chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An"
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý
Có nhiều khái niệm về quản lý, trong phạm vi đề tài này tác giả chỉ chọn
và làm rõ một số khái niệm liên quan đến nội dung của đề tài như:
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
(người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý).
- Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp người, công cụ, phương
tiện tài chính… để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục tiêu định
trước.
- Chủ thể muốn kết hợp để các hoạt động của đối tượng theo một định
hướng quản lý đặt ra phải tạo ra được “quyền uy” buộc đối tượng phải tuân
thủ.



11

- Quản lý là hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công
việc qua những nỗ lực của người khác.
- Quản lý là hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá
nhân nhằm đạt được các mục tiêu của nhóm.
Hiện nay quản lý thường được định nghĩa rõ hơn. Quản lý là quá trình đạt
đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra công việc của các thành viên
thuộc một hệ thống, đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được
mục đích đã định.
Theo khái niệm này, bản chất quá trình quản lý gồm các thành tố: Lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Giữa chúng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau.
Sơ đồ về bản chất của quá trình quản lý có thể biểu diễn như sau:

Lập kế hoạch

Kiểm tra

Quản lý

Tổ chức

Chỉ đạo

Sơ đồ 1: Sơ đồ khái quát quá trình quản lý.
- Lập kế hoạch: Là ra quy định, nó bao gồm việc lựa chọn một đường lối
hoạt động mà cơ sở, đơn vị, bộ phận đó sẽ tuân theo. Kế hoạch là văn bản
trong đó xác định những mục tiêu và những quy định thể thức để đạt được mục
tiêu đó.



12

Lập kế hoạch là quá trình xác định thiết lập các mục tiêu hệ thống các
hoạt động và điều kiện đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kế hoạch là nền
tảng của quản lý.
- Tổ chức: Là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và các
nguồn lực khác nhau cho các thành viên để có thể đạt được các mục tiêu của tổ
chức một cách hiệu quả. Với các mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc tổ chức
khác nhau. Người quản lý cần lựa chọn các cấu trúc tổ chức phù hợp với mục
tiêu nguồn lực hiện có.
- Lãnh đạo là điều hành, điều khiển đối tượng hoạt động và giúp đỡ các
cán bộ dưới quyền thực hiện nhiệm vụ được phân công.
- Kiểm tra: Là hoạt động của người quản lý để kiểm tra các hoạt động của
đơn vị về thực hiện mục tiêu đặt ra. Các yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra là:
+ Xây dựng chuẩn thực hiện.
+ Đánh giá việc thực hiện trên cơ sở so sánh với chuẩn.
+ Điều chỉnh hoạt động khi có sự chênh lệch.
Các chức năng quản lý tạo thành một chu trình thống nhất. Trong đó, mỗi
chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ phụ thuộc vào
chức năng khác. Quá trình ra các quyết định quản lý là qua trình thực hiện các
chức năng theo một trình tự nhất định. Nhà quản lý không được bỏ qua hay coi
nhẹ bất kỳ một chức năng nào.
Xem xét nội hàm của khái niệm quản lý, có thể thấy rõ quản lý là một
hoạt động xã hội, trong đó có sự tác động của chủ thể quản lý (người quản lý,
tổ chức quản lý), có sự chịu tác động và thực hiện của khách thể quản lý (người
bị quản lý, đối tượng bị quản lý) để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Như vậy, theo chúng tôi, quản lý là “sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt



13

động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù
hợp với quy luật khách quan”.
1.2.2. Chất lượng
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng nhất của tất cả các cơ sở đào tạo,
việc phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ
quan trọng nhất của bất cứ cơ sở đào tạo nào. Mặc dù có tầm quan trọng như
vậy, nhưng chất lượng vẫn là khái niệm khó định nghĩa, khó đo lường. Bởi đây
là một khái niệm tương đối trừu tượng, cùng với sự phát triển của xã hội, khái
niệm chất lượng cũng có những thay đổi đáng kể.
Trước đây, người ta coi chất lượng là một khái niệm “tĩnh” với tiêu
chuẩn chất lượng được coi là cố định và tồn tại trong một thời gian dài. Ngày
nay, khái niệm chất lượng không được gắn với một tiêu chuẩn cố định nào đó,
mà “chất lượng là một hành trình, không phải là một điểm dừng cuối cùng mà
ta đi tới”. Đây là quan niệm “động” về chất lượng, trong đó chất lượng được
xác định bởi người sử dụng sản phẩm – dịch vụ hay trong nền kinh tế thị
trường còn gọi là khách hàng. Khách hàng cảm thấy thoả mãn khi sử dụng sản
phẩm – dịch vụ có nghĩa là sản phẩm – dịch vụ đó có chất lượng.
Bên cạnh sự thay đổi về thời gian thì từ những cách tiếp cận khác nhau
cũng dẫn đến những khái niệm khác nhau về chất lượng. Có một số khái niệm
tiêu biểu về chất lượng như: “Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những
thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự
vật phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật.
Chất lượng biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các
thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể bao quát
toàn bộ sự vật và không tách rời khỏi sự vật. Sự vật khi vẫn còn là bản thân nó
thì không thể mất đi chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự

thay đổi của sự vật. Về căn bản, chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với


14

tính qui định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính qui định ấy. Mỗi
sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng” – theo Từ điển
tiếng Việt, năm 1999 [22].
“Chất lượng là mức độ mà một tập hợp các đặc trưng vốn có đáp ứng
được các yêu cầu của khách hàng và những người khác có quan tâm” – theo
ISO 9000- 2000 [28].
Trên đây là các khái niệm chung về chất lượng mà khi xét cho từng đối
tượng cụ thể thì cần xét tới cả những điều kiện lịch sử – cụ thể của đối tượng
đó.
1.2.3. Đào tạo nghề
Ngày 29/11/2006, Quốc hội đã ban hành Luật Dạy nghề số
76/2006/QH11. Trong đó viết: "Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang
bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để
có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thanh khóa học"
[16].
Như vậy, đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với
nhau, đó là:
- Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp .
- Học nghề: Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực
hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định [14].
ĐTN cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao
động để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn. Đào tạo nghề bao gồm: Đào
tạo công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí, điện tử, xây dựng, sửa chữa...) và

phổ cập nghề cho người lao động (chủ yếu là lao động nông thôn).


15

Qua đó, ta có thể thấy dạy nghề là khâu quan trọng trong việc GQVL
cho người lao động, tuy nó không tạo ra việc làm ngay nhưng đó là yếu tố cơ
bản tạo thuận lợi cho quá trình tìm việc làm và thực hiện công việc. Hiện nay,
dạy nghề có sự tích hợp giữa lý thuyết và thực hành. Sự tích hợp thể hiện ở
chỗ: nó đòi hỏi người học sinh hôm nay, người thợ trong tương lai lại phải vừa
chuyên sâu về kiến thức, vừa thành thục về kỹ năng, tay nghề. Đây là điểm
khác biệt lớn trong dạy nghề so với học văn hóa.
Trong Luật dạy nghề số: 76/2006/QH11 cũng xác định: "Mục tiêu của
dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng
lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều
kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo
việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNHHĐH đất nước" [16].
Như vậy, nội dung của ĐTN bao gồm: trang bị các kiến thức lý thuyết
cho học viên một cách có hệ thống và rèn luyện các kỹ năng thực hành, tác
phong làm việc cho học viên trong phạm vi ngành nghề họ theo học nhằm giúp
họ có thể làm một nghề nhất định
Nguyên lý và phương châm của dạy nghề là: học đi đôi với hành; lấy
thực hành, thực tập kỹ năng nghề làm chính; coi trọng giáo dục đạo đức, lương
tâm nghề nghiệp, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của
người học, đảm bảo tính giáo dục toàn diện.
Dạy nghề hiện nay có ba cấp trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, TCN,
CĐN. Dạy nghề bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên.
1.2.4. Chất lượng đào tạo nghề
Chất lượng giáo dục – đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là vấn

đề cơ bản và là mục tiêu phấn đấu không ngừng của các cấp quản lý giáo dục -


16

đào tạo cũng như các cơ sở đào tạo trực tiếp. Có nhiều cách hiểu khác nhau về
chất lượng ĐTN với những khía cạnh khác nhau.
Quan điểm nguồn lực ở phương Tây cho rằng chất lượng ĐTN phụ thuộc
đầu vào của hệ thống đào tạo. Khi có các yếu tố đầu vào có chất lượng như: giáo
viên giỏi, CBQL giỏi, cơ sở vật chất đầy đủ, học sinh giỏi, ... thì chất lượng
ĐTN được nâng cao. Cũng có quan điểm cho rằng chất lượng ĐTN được đánh
giá bằng sản phẩm của quá trình đào tạo (đầu ra), tức là bằng mức độ hoàn thành
của học viên tốt nghiệp. Một số quan điểm khác lại khẳng định chất lượng ĐTN
được quyết định bởi các quá trình hoạt động bên trong, đặc biệt là hệ thống
thông tin và hệ thống các quyết định tối ưu. Chất lượng đào tạo là kết quả cuối
cùng đạt được bởi sự tác động tích cực của các yếu tố cấu thành quá trình đào
tạo. Chất lượng đào tạo nghề là sự phù hợp với mục tiêu đào tạo nghề.
Có thể khái quát quan niệm này như sơ đồ sau:
MT

GV

HV

Q

ND

PPTP
T

CSVC,TC

Sơ đồ 2: Sơ đồ khát quát quan niệm chất lượng đào tạo
Trong đó:
- MT: Mục tiêu đào tạo.


17

- PP, PT: Phương pháp đào tạo, phương tiện phục vụ đào tạo.
- GV: Giáo viên và CBQL đào tạo.
- HV: Học viên.
- ND: Nội dung đào tạo.
- CSVC, TC: Cơ sở vật chất, tài chính phục vụ đào tạo.
- Q: Chất lượng đào tạo.
Hệ thống kiểm định quốc gia Việt Nam quan niệm: Chất lượng sẽ đánh giá
bằng cách khách hàng xếp hạng tầm quan trọng của các đặc trưng phẩm chất đối
nghịch với tính nhất quán và giá trị bằng tiền. ĐTN sẽ đảm bảo, nâng cao chất
lượng nếu thực hiện các yếu tố như: đáp ứng yêu cầu của khách hàng; tập trung
vào con người và mọi người đóng góp xây dựng tổ chức của mình; có tầm nhìn
dài hạn; quản lý sự thay đổi một cách có hiệu quả; có đổi mới; hữu hiệu; tổ chức
tiếp thị tốt với thị trường.
Xuất phát từ những khái niệm chung về chất lượng và các quan niệm về
chất lượng ĐTN nêu trên, có thể hiểu chất lượng ĐTN với những điểm cơ bản
như sau: Chất lượng ĐTN là kết quả tác động tích cực của tất cả các yếu tố cấu
thành hệ thống ĐTN và quá trình đào tạo vận hành trong môi trường nhất định.
Mức độ tác động tích cực của các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng ĐTN
không giống nhau. Vì vậy, để nâng cao chất lượng ĐTN cần phải tìm biện pháp
quản lý tốt trong quá trình đào tạo.
Để đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác ĐTN, có nhiều việc phải

làm, song việc trước hết cần nâng cao nhận thức về công tác ĐTN, đồng thời đổi
mới mạnh mẽ công tác quản lý ĐTN và phương pháp thực hiện. Đây là những
khâu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác ĐTN.
Tóm lại, mặc dù khó có thể đưa ra một định nghĩa về chất lượng trong giáo
dục nghề nghiệp, song các nhà nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra cách tiếp cận phổ
biến nhất. Cơ sở của các cách tiếp cận này xem chất lượng là một khái niệm


18

mang tính tương đối, động, đa chiều, và với những người ở các cương vị khác
nhau có thể có những ưu tiên khác nhau khi xem xét nó. Chẳng hạn: đối với giáo
viện dạy nghề và học sinh thì ưu tiên của khái niệm chất lượng phải là ở quá
trình đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề phục vụ cho công tác dạy và
học. Còn đối với những người sử dụng lao động, ưu tiên về chất lượng của họ
lại ở đầu ra, tức là ở kiến thức, kỹ năng tay nghề, thái độ nghề nghiệp và năng
lực làm việc của người học sau học nghề... Do vậy, không thể nói tới chất lượng
như một khái niệm nhất thể, chất lượng cần được xác định kèm theo mục tiêu
hay ý nghĩa của nó, và ở khía cạnh này, một trường ĐTN có thể có chất lượng
cao ở lĩnh vực này nhưng ở lĩnh vực khác lại có chất lượng thấp.
Điều này đặt ra một yêu cầu phải xây dựng một hệ thống rõ ràng, mạch lạc
các tiêu chí với những chỉ số được lượng hóa, nêu rõ các phương thức đảm bảo
chất lượng và quản lý chất lượng sẽ được sử dụng trong và ngoài giáo dục nghề
nghiệp với xu hướng tiếp cận dần với chuẩn của khu vực và thế giới nhằm đưa
giáo dục nghề nghiệp Việt Nam hòa nhập với giáo dục nghề nghiệp thế giới.
1.2.5. Quản lý chất lượng đào tạo nghề
Quản lý chất lượng ĐTN thực chất là quản lý các yếu tố sau theo một trình
tự, quy trình vừa khoa học, vừa phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị, đem
lại hiệu quả trong công tác đào tạo. Các yếu tố đó là:
- Mục tiêu đào tạo nghề.

- Phương pháp đào tạo nghề, phương tiện phục vụ đào tạo nghề.
- Giáo viên và CBQL đào tạo nghề.
- Học viên.
- Nội dung đào tạo nghề.
- Cơ sở vật chất, tài chính phục vụ đào tạo nghề.
- Chất lượng đào tạo nghề.
Các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ và có tác động qua lại lẫn nhau.


19

Để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý chất lượng ĐTN cần tiến hành
các bước theo quy trình như quản lý giáo dục: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra, đánh giá.
Trong quá trình quản lý chất lượng đào tạo nghề, các yếu tố trên luôn luôn
vận động và tác động qua lại lẫn nhau làm nảy sinh những tình huống quản lý.
Nhà quản lý phải thướng xuyên theo dõi, đánh giá, xử lý các sai lệch để kịp thời
điều chỉnh nhằm làm cho công tác giáo dục - đào tạo phát triển liên tục.
1.2.6. Lao động nông thôn
Nông thôn là vùng lãnh thổ rộng lớn, trong đó hoạt động nông nghiệp
đóng vai trò chủ yếu và quan trọng.
Lao động nông thôn là lực lượng lao động sinh sống và làm việc ở khu
vực nông thôn trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật (nam từ 16
đến 60 tuổi, nữ từ 16 đến 55 tuổi) có khả năng lao động.
Sự khác nhau giữa khái niệm ĐTN nói chung và ĐTN cho lao động nông
thôn nói riêng chính là ở đối tượng của ĐTN - những người lao động nông thôn
và những điều kiện gắn với quá trình đào tạo đó.
Từ khái niệm về ĐTN, ta có thể đưa ra khái niệm ĐTN cho lao động
nông thôn như sau:
- ĐTN cho lao động nông thôn là hoạt động kết hợp giữa dạy nghề và

học nghề nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho
lao động nông thôn để họ có được một trình độ, kỹ năng kỹ xảo đối với nghề
nghiệp, có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa
học.
Xét về đối tượng đào tạo, ĐTN cho lao động nông thôn có các đặc điểm
chủ yếu sau:
- Đối tượng ĐTN cho lao động nông thôn có số lượng lớn. Do nguồn lao
động nông thôn không chỉ lớn về số lượng, mà còn thể hiện ở chất lượng của


20

nguồn lao động nông thôn thấp nên yêu cầu đào tạo cao. Năm 2007, lực lượng
lao động nông thôn của cả nước là 34,8 triệu người, chiếm 74,5% tổng lực
lượng lao động, trong đó lao động trong độ tuổi lao động là 32,73 triệu người,
và tỷ lệ lao động nông thôn chưa qua đào tạo người là 81,32% [24].
- Đối tượng ĐTN cho lao động nông thôn rất đa dạng. Thể hiện ở độ
tuổi, trình độ học vấn, trạng thái sức khỏe, điều kiện sản xuất kinh doanh và
hoàn cảnh sống. Bởi vậy, hoạt động ĐTN cho lao động nông thôn cần được tổ
chức linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể của đối tượng tham gia học nghề.
- Lao động nông thôn mang tính thời vụ (đặc biệt là bộ phận lao động
sản xuất trực tiếp). Vì vậy, đòi hỏi việc tổ chức ĐTN, tập huấn kiến thức liên
quan về cây trồng vật nuôi cũng phải được sắp xếp phù hợp và kịp thời vụ để
đạt hiệu quả. Đặc điểm này dẫn đến một bộ phận lớn người lao động nông
nghiệp, nông thôn sẽ có thời gian rảnh rỗi, nông nhàn sau mùa vụ. Để tăng thu
nhập, đảm bảo cuộc sống cho lao động nông thôn, công tác ĐTN không chỉ tập
trung vào việc bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng các nghề thuộc lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp, mà còn dạy nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp, thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ... nhằm giúp người lao động có thể kiếm thêm
việc làm và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực lao động.

Do có những đặc điểm trên, nên các điều kiện đảm bảo để tổ chức dạy
nghề cho lao động nông thôn (cơ sở đào tạo, GVDN, chương trình đào tạo,
hình thức đào tạo...) cũng cần có sự thích ứng. Xã hội hóa các nguồn lực và đa
dạng hóa các hình thức ĐTN là giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực của
tổ chức ĐTN cho lao động nông thôn.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng ĐTN cho lao động nông thôn
Chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và ĐTN cho lao động nông thôn
nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố khách quan và
chủ quan. Có thể phân các yếu tố chủ yếu thành các nhóm để xem xét như sau:


21

ĐTN nói chung và ĐTN cho lao động nông thôn chịu ảnh hưởng trước
tiên là của các nhân tố bên trong của chính quá trình đào tạo bao gồm: hệ thống
CSDN; cơ sở vật chất, tài chính cho dạy nghề; đội ngũ giáo viên, học viên học
nghề; chương trình, giáo trình đào tạo; hệ thống mục tiêu; tuyển sinh, việc làm;
kiểm tra đánh giá, cấp văn bằng chứng chỉ…, những yếu tố này được coi là
những yếu tố đảm bảo chất lượng của ĐTN:
1.3.1 Cơ sở vật chất, tài chính
Cơ sở vật chất bao gồm: phòng học, xưởng thực hành cơ bản và thực tập
sản xuất, thư viện – học liệu, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập…
Đây là yếu tố hết sức quan trọng, nó tác động trực tiếp đến chất lượng ĐTN.
Máy móc, trang thiết bị là những thứ không thể thiếu trong quá trình ĐTN, nó
giúp cho học viên có điều kiện thực hành để hoàn thiện kỹ năng. Điều kiện cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề càng tốt, càng hiện đại, theo sát với công
nghệ sản xuất thực tế bao nhiêu thì người học viên càng có thể thích ứng, vận
dụng nhanh chóng trong công việc bấy nhiêu. Do vậy, cơ sở vật chất trang thiết
bị cho ĐTN đòi hỏi phải theo kịp với tốc độ đổi mới của máy móc, công nghệ
sản xuất.

Tài chính cho ĐTN cũng là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo chất
lượng đào tạo, nó tác động gián tiếp tới chất lượng ĐTN thông qua khả năng
trang bị về cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị giảng dạy, khả năng đào tạo,
bồi dưỡng CBQL, giáo viên, …. Tài chính đầu tư cho ĐTN càng dồi dào thì
càng có điều kiện bảo đảm chất lượng ĐTN.
1.3.2. Đội ngũ giáo viên và CBQL
GVDN là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức lý thuyết cũng như
các kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của mình cho các học viên trên cơ sở trang
thiết bị dạy học hiện có. Vì vậy, năng lực GVDN tác động trực tiếp đến chất
lượng ĐTN.


22

GVDN phải có đủ cả về số lượng và chất lượng, có đủ về số lượng thì mới
có thể tận tình hướng dẫn, theo sát học viên và đội ngũ giáo viên có chất lượng
thì mới có thể giảng dạy và truyền đạt cho các học viên học nghề một cách
hiệu quả.
Một loại nhân lực khác cũng có ảnh hưởng đến chất lượng ĐTN đó là đội
ngũ CBQL dạy nghề. Trong giai đoạn trước đây, vai trò của các CBQL trong
các cơ sở đào tạo không được đánh giá cao, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay,
nhất là trước bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh trong lĩnh vực dạy nghề
đòi hỏi đội ngũ CBQL phải là những người thực sự có trình độ. Chất lượng
CBQL cũng có ảnh hưởng rất lớn đến ĐTN, thể hiện qua khả năng tổ chức,
quản lý, điều phối quá trình đào tạo, tìm kiếm cơ hội hợp tác, liên kết đào
tạo…
1.3.3. Người tham gia học nghề
Người tham gia học nghề là nhân tố quan trọng nhất, có tính chất quyết
định đối với công tác ĐTN, nó ảnh hưởng toàn diện tới công tác ĐTN. Trình
độ văn hoá, sự hiểu biết, tâm lý, cá tính, khả năng tài chính, quỹ thời gian…

của bản thân học viên đều có ảnh hưởng sâu sắc tới quy mô và chất lượng
ĐTN. Trình độ văn hoá cũng như khả năng tư duy của người học càng cao thì
khả năng tiếp thu các kiến thức trong quá trình học nghề càng tốt, khi ấy chất
lượng ĐTN càng cao và ngược lại.
1.3.4. Mục tiêu đào tạo
Hệ thống mục tiêu đào tạo bao gồm: các mục tiêu ngành, quốc gia; mục
tiêu trường (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn); mục tiêu đáp ứng yêu cầu thực tiễn
của thị trường chung; mục tiêu đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp hợp tác đào
tạo. Các mục tiêu đào tạo càng sát thực, càng khả thi thì chất lượng ĐTN càng
được nâng cao. Do đó, khi xây dựng mục tiêu đào tạo nghề cần phải có sự khảo
sát, nghiên cứu kỹ lưỡng đối với từng yếu tố.


23

1.3.5. Chương trình, giáo trình đào tạo
Chương trình đào tạo là điều kiện không thể thiếu trong quản lý nhà nước
các cấp, các ngành đối với hoạt động của các cơ sở ĐTN. Chương trình đào tạo
phù hợp được các cấp có thẩm quyền phê duyệt là một trong những yếu tố quan
trọng, quyết định chất lượng đào tạo. Không có chương trình đào tạo sẽ không
có các căn cứ để xem xét, đánh giá bậc đào tạo của các đối tượng tham gia đào
tạo và việc đào tạo sẽ diễn ra tự phát không theo một tiêu chuẩn thống nhất.
Trong lĩnh vực dạy nghề, chương trình đào tạo gắn với nghề đào tạo.
Không có chương trình đào tạo chung cho các nghề mà mỗi loại nghề đều có
chương trình riêng. Do vậy, một CSDN có thể có nhiều chương trình đào tạo
nếu như cơ sở đó đào tạo nhiều nghề. Điều này đòi hỏi việc nghiên cứu, đánh
giá thực trạng về chương trình ĐTN xét ở mức độ có hay không có, không thể
chỉ căn cứ vào cơ sở ĐTN mà phải căn cứ vào các nghề mà cơ sở đó đào tạo.
Chương trình đào tạo bao gồm phần lý thuyết và phần thực hành, tương
ứng với mỗi nghề thì tỷ lệ phân chia giữa hai phần này là khác nhau về lượng

nội dung cũng như thời gian học.
Giáo trình là những quy định cụ thể hơn của chương trình về từng môn cụ
thể trong đào tạo. Nội dung giáo trình phải tiên tiến, phải thường xuyên được
cập nhật kiến thức mới thì việc đào tạo mới sát thực tế và hiệu quả ĐTN mới
cao.
Trên đây là các yếu tố cơ bản bên trong của quá trình ĐTN. Chất lượng của
các yếu tố này sẽ tác động quyết định tới chất lượng ĐTN.
Tuy nhiên, hệ thống ĐTN vận hành trong môi trường văn hoá, chính trị, xã
hội … nhất định và cũng chịu sự tác động qua lại của điều kiện môi trường.
1.3.6. Một số yếu tố khác
Các yếu tố khác ảnh hưởng tới chất lượng ĐTN cho lao động nông thôn
bao gồm các yếu tố thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: quy hoạch phát triển


24

KT-XH của địa phương, điều kiện tự nhiên, cơ chế chính sách thể chế chính
trị, kinh tế – xã hội, qui mô - cơ cấu lao động, nhận thức xã hội về ĐTN.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng ĐTN có thể khái quát như sơ đồ sau:

Sơ đồ 3: Các yếu tố tác động đến chất lượng đào tạo
1.4. Phân loại và các hình thức đào tạo nghề
1.4.1. Phân loại đào tạo nghề
Có rất nhiều cách phân loại ĐTN, tùy theo mỗi loại tiêu thức ta có thể phân
loại ĐTN thành các loại hình khác nhau. Trong phạm vi bài này chỉ xét hai tiêu
thức phân loại như sau:
- Căn cứ vào thời gian ĐTN:
+ Đào tạo ngắn hạn: Là loại hình ĐTN có thời gian đào tạo dưới một năm
chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề.
Loại hình này có ưu điểm là có thể tập hợp được đông đảo lực lượng lao

động ở mọi lứa tuổi, những người không có điều kiện học tập tập trung vẫn có
thể tiếp thu được tri thức ngay tại chỗ, với sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan
đoàn thể, địa phương, Nhà nước về mặt giáo trình, giảng viên.


25

+ Đào tạo dài hạn: Là loại hình ĐTN có thời gian đào tạo từ một năm trở
lên, chủ yếu áp dụng đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ.
ĐTN dài hạn thường có chất lượng cao hơn các lớp đào tạo ngắn hạn.
- Căn cứ vào nghề đào tạo đối với người học:
+ Đào tạo mới: Là loại hình ĐTN áp dụng cho những người chưa có nghề,
để đáp ứng yêu cầu tăng thêm lao động có nghề.
+ Đào tạo lại: Là quá trình ĐTN áp dụng với những người đã có nghề
song nghề hoặc chuyên môn của họ không còn phù hợp nữa.
+ Đào tạo nâng cao: Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc phức
tạp hơn.
1.4.2. Các hình thức đào tạo nghề
Với đối tượng ĐTN đa dạng, có những điểm đặc thù, nên hình thức ĐTN
cho lao động nông thôn cũng đa dạng. Từ thực tiễn ĐTN cho lao động nông
thôn hiện nay, về cơ bản thường áp dụng một số hình thức chính sau đây:
- ĐTN chính quy:
Theo quy định của Luật dạy nghề, ĐTN chính quy được thực hiện với các
chương trình sơ cấp nghề, TCN và CĐN tại các CSDN theo các khóa học tập
trung và liên tục. Có thể hiểu ĐTN chính quy là loại hình đào tạo tập trung tại
các TTDN, các trường nghề với quy mô đào tạo tương đối lớn, chủ yếu là đào
tạo các công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề cao.
Việc đào tạo công nhân kỹ thuật thường chia làm hai giai đoạn: giai đoạn
học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn. Giai đoạn học tập cơ bản là

giai đoạn ĐTN theo diện rộng, thường chiếm từ 70% đến 80% nội dung giảng
dạy và tương đối ổn định. Còn trong giai đoạn học tập chuyên môn, người học
được trang bị những kiến thức chuyên sâu và rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo
để nắm vững nghề đã chọn. Ưu điểm cơ bản của hình thức đào tạo này là: Học


×