Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở việt nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.85 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------------

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC
SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH CNDVBC&CNDVLS
Mã số: 9229002

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Sỹ Phán

HÀ NỘI, 2018


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Sỹ Phán

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Ngọc Long .......................................................

Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Văn Nhuận ........................................................

Phản biện 3: GS.TS. Nguyễn Văn Tài ...............................................................


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện Khoa học xã hội
vào hồi………..….giờ…………phút, ngày………tháng……….năm………………..

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Quốc gia và Thư viện Học
viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục
đổi mới và phát triển. Với chủ trương chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, kinh tế Việt Nam vượt qua
khủng hoảng, từng bước ổn định, ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Kinh tế thị trường một mặt phát huy tác dụng tích cực đến sự phát triển
kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất cho người dân; kích thích
tính tích cực, sáng tạo của người lao động; góp phần nâng cao trách nhiệm,
nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội v.v. Mặt khác, kinh tế thị trường cũng tạo ra
những hệ lụy, làm suy thoái đạo đức con người ở nhiều lứa tuổi, ngành nghề,
lĩnh vực khác nhau. Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã chỉ rõ “bản thân nền
kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng. Hơn nữa, cùng với việc
kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi để
nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội”. Thậm chí “kinh tế thị trường có
những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế
phân hóa giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà
đạp lên đạo đức, nhân phẩm…”.

Cùng với những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng có những tác
động tiêu cực đến ý thức, hành vi đạo đức của không ít sinh viên Việt Nam nói
chung, sinh viên ngành xây dựng nói riêng. Những hiện tượng thiếu trung thực
trong hoạt động xây dựng những năm gần đây như: rút ruột công trình, móc
ngoặc giữa thiết kế với thi công; giữa nghiệm thu công trình với thanh quyết
toán; thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng; làm giả hồ sơ đền
bù v.v. đang trở thành tấm gương phản diện, tác động tiêu cực đến ý thức, tinh
thần, thái độ học tập, rèn luyện; đến lý tưởng, niềm tin chính trị; đến đạo đức, lối
sống của một bộ phận sinh viên ngành xây dựng nước ta hiện nay.
Bên cạnh đa số sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ngành xây dựng
nói riêng sống có ước mơ, hoài bão lớn lao, tình nguyện vì cộng đồng, quyết tâm
học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp, vì hạnh phúc của bản thân,
vì tiền đồ của dân tộc, hiện vẫn còn không ít sinh viên sống thực dụng, chạy theo
các trào lưu, xu hướng lệch lạc, thiếu ý chí phấn đấu, rèn luyện vươn lên, thậm
chí một số sinh viên còn vi phạm pháp luật.
Vậy làm thế nào để phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng nước ta hiện nay?
Những chính sách kinh tế - xã hội nào cần được bổ sung, sửa đổi; những giải
pháp nào mang tính khả thi để có tác động tích cực đến đạo đức sinh viên ngành
xây dựng nước ta, để họ có thể trở thành những kỹ sư ngành xây dựng tương lai
vừa có chuyên môn nghề nghiệp giỏi, vừa có phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng yêu
1


cầu phát triển bền vững đất nước? Đó là những vấn đề cấp thiết cần phải được
giải quyết. Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Tác động của kinh tế thị
trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài cho luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích:

Trên cơ sở góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tác động
của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay,
cũng như thực trạng của sự tác động đó, luận án đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kinh tế thị trường; đạo
đức; tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức; xác định những chuẩn mực
đạo đức của sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh
viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác động tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây
dựng ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu tác động của kinh
tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay ở cả
hai mặt, tác động tích cực và tác động tiêu cực.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên
ngành xây dựng trên cả nước, nhưng diện khảo sát chủ yếu ở 5 trường đại học
và cao đẳng có quy mô đào tạo số lượng sinh viên ngành xây dựng tương đối
lớn ở Hà Nội, đó là: ĐH Xây dựng, ĐH Kiến trúc Hà Nội, ĐH Giao thông Vận
tải, ĐH Thủy Lợi và Cao đẳng Xây dựng Hà Nội.
Đối tượng khảo sát là sinh viên năm thứ 4, 5, vì đây là đối tượng đã trải
qua thời gian học tập nhất định tại trường, đã học các chương trình tiên tiến
chuyên ngành xây dựng, đã làm đồ án các môn học chuyên ngành và có thời
gian thực hành, thực tập tại công trường hoặc các cơ sở đào tạo. Do đó, phần lớn
sinh viên các năm này, có thể đánh giá được mức độ tác động tích cực và tác

động tiêu cực của KTTT đến ý thức, thái độ, hành vi học tập và nghiên cứu khoa
học của sinh viên.
Về mặt thời gian: Từ năm 1986 đến nay. Tức là từ khi nước ta chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng
ta gọi đó là “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
2


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước Việt Nam về kinh tế thị trường, về đạo đức sinh viên nói
chung và đạo đức sinh viên ngành xây dựng nói riêng. Ngoài ra, tác giả còn kế
thừa một số kết quả nghiên cứu đã được công bố có liên quan trực tiếp đến đề
tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp lịch sử và logic,
phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, thống kê ... Ngoài ra, luận án còn sử
dụng phương pháp phỏng vấn sâu (với các thầy cô đã và đang làm công tác
giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng thuộc ngành xây dựng), phương pháp
chuyên gia, sử dụng bảng hỏi, sử dụng các số liệu thứ cấp nhằm đánh giá tác
động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta
hiện nay.
Phương pháp tiếp cận của luận án là đi từ cái chung đến cái riêng. Từ tác
động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội nói chung đến thực trạng tác
động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng nói riêng.

Trên cơ sở đó, phát hiện những vấn đề nảy sinh và tìm giải pháp để giải quyết
các vấn đề đó.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận liên quan tới sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên
ngành xây dựng ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành
xây dựng ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
sự tác động (tích cực và tác động tiêu cực) của kinh tế thị trường đến đạo đức
sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Đánh giá thực trạng tác động của kinh tế thị trường
đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn đạo đức học, đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ngành xây dựng nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác
giả luận án đã được công bố, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4
chương, 11 tiết.

3


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu về kinh tế thị trường và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Cuốn “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của
tác giả Vũ Đình Bách (2008, Nxb Chính trị Quốc gia), “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa - Lý luận và thực tiễn” (Nguyễn Duy Hùng chủ biên
(Nxb Chính trị Quốc gia, 2009) đã có rất nhiều bài viết liên quan đến kinh tế thị
trường; “Định hướng phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả
Phạm Văn Dũng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010) đã khái lược về sự
hình thành và phát triển của kinh tế thị trường cũng như bản chất của nền kinh tế
đó.
So với những nghiên cứu liên quan đến kinh tế thị trường, những nghiên
cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm gần đây
phong phú hơn nhiều. Trong số đó có thể kể đến một số công trình sau: Cuốn
“Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam” do tác giả Vũ Đình Bách và Trần Minh Đạo đồng chủ biên, Nxb Chính trị
Quốc gia ấn hành năm 2006; cuốn “Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” do Phạm Văn
Dũng chủ biên (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009); cuốn “Hướng tới
nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam” do Nguyễn Văn Nam chủ biên (Nxb
Công Thương, năm 2010) v.v. Trong các công trình khoa học này, nhiều vấn đề
lý luận liên quan đến KTTT định hướng XHCN đã được làm sáng tỏ.
Cùng với các cuốn sách, trên các tạp chí khoa học cũng đăng tải một số
bài viết liên quan đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chẳng
hạn, tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10-2014 có bài “Một số mâu thuẫn
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
của tác giả Trần Thành; tạp chí Lý luận chính trị số 3-2014 có bài “Những đặc
trưng của kinh tế thị trường và nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” của Vũ Văn Phúc; Nguyễn Văn Thanh với bài “Hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (tạp chí Lý luận
chính trị số 6-2015); Trần Văn Phòng có bài “Có phải kinh tế thị trường thì
không thể hòa hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa” (tạp chí Lý luận chính trị
số 10-2015) và bài Về quy định “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa” trong Hiến pháp 2013 của Đỗ Kim Tuyến và
Phan Thanh Hương (tạp chí Lý luận chính trị số 12-2015); “Nhân tố chủ quan
trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay” của tác giả Phan Mạnh Toàn (tạp chí Lý luận chính trị số 5-2016); bài “Một
số luận điểm mới về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Xuân Thắng (tạp chí Lý luận chính trị, số
8-2016); Nguyễn Tấn Hùng với bài “Chế độ sở hữu và vấn đề giá trị thặng dư
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (tạp chí Lý luận
chính trị, số 7-2016); Phạm Thị Túy với bài“Sự phát triển tư duy lý luận của
4


Đảng về cấu trúc của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam (tạp chí Lý luận chính trị, số 4-2017); Bùi Thị Tỉnh với bài “Giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay”, tạp chí Triết học số 1 (320) tháng 1-2018…
Năm 2008, Trung tâm Đào tạo - Bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị,
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức hội thảo khoa học Vai trò lãnh đạo
của Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội thảo
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học, với 56 bản tham luận.
Các tham luận này đã đề cập trực tiếp đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức, tác động của kinh tế thị trường
đến đạo đức xã hội nói chung, đạo đức sinh viên và sinh viên ngành xây dựng
nói riêng
Năm 1996, Nxb Thông tin Khoa học xã hội có ấn hành cuốn “Những vấn
đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường”. Cuốn sách tập hợp các bài viết
của các tác giả Trung Quốc, đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường; Năm 2012, Trung tâm nghiên cứu kinh tế
và chính sách VEPR, Trường Đại học Kinh tế, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội

đã cho ra mắt cuốn sách “Những nền tảng của nền kinh tế thị trường”. Cuốn
sách tập hợp một số bài viết của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan
trực tiếp đến kinh tế thị trường, đem lại cho độc giả một cái nhìn tổng thể hơn về
các vấn đề của kinh tế thị trường. Cuốn “Thị trường và đạo đức” do Tom G.
Palmer làm chủ biên (Nxb Tri thức năm 2012); “Mấy vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn
Văn Phúc chủ biên (năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia); “Đạo đức xã hội ở
nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” (Nguyễn Duy Quý làm chủ biên (Nxb
Chính trị Quốc gia, năm 2006), Những tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị
trường ở Việt Nam” do Hà Huy Thành làm chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, năm
2000); “Sự phát triển của cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” của Đoàn Đức Hiếu (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2003); “Xây
dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
của tác giả Trịnh Duy Huy (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009); “Ý thức đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị
Tuyết Ba (Nxb Khoa học Xã hội, năm 2010); "Mấy vấn đề về đạo đức học mác
t và ây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay"
của Nguyễn Thế Kiệt (Nxb Chính trị quốc gia, năm 2012); “Giáo d c đạo đức
mới cho sinh vi n trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, do
tác giả Lương Gia Ban và Nguyễn Thế Kiệt đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2013); “Giáo d c đạo đức với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam hiện nay” của tác giả Trần Sỹ Phán (Nxb Lý luận Chính trị, năm 2016) v.v.
Dù là trực tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay mức độ khác, tất cả các
công trình trên đều đề cập đến đạo đức, tác động của kinh tế thị trường đến đạo
đức xã hội nói chung, đạo đức sinh viên nói riêng theo hai chiều hướng, vừa tích
cực, vừa tiêu cực. Trong những năm gần đây, trên một số tạp chí có đăng tải một
5


số bài viết có liên quan đến đạo đức, đến sự tác động của kinh tế thị trường đến

đời sống đạo đức xã hội nói chung, đạo đức sinh viên nói riêng. Tạp chí Giáo
dục lý luận, số 3-2014 có bài “Nâng cao chất lượng giáo d c phẩm chất đạo đức
cho sinh vi n các trường sư phạm hiện nay” của Tạ Hoa Dung và Lê Thị Điệp.
Cũng ở tạp chí này, số đặc biệt (219-2014, trang 118), tác giả Hoàng Thị Thu
Trang có bài “Một số vấn đề giáo d c đạo đức mới trong việc hình thành, phát
triển nhân cách sinh viên ở Thái Nguyên hiện nay”; Nguyễn Anh Tú trong
bài“Xây dựng phong cách sống tích cực - giải pháp quan trọng để giáo d c đạo
đức cho thanh ni n, sinh vi n dưới tác động của biến đổi của kinh tế - xã hội ở
nước ta hiện nay” (đăng ở tạp chí Giáo dục lý luận, số 208 năm 2014, tạp chí Lý
luận Chính trị và Truyền thông), bài “Định hướng giá trị nhân cách cho sinh
viên Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Sỹ Phán và Trần Thị Hồng Lê (số 42015); bài “Tác động của kinh tế thị trường đến lối sống sinh viên Việt Nam
hiện nay” của Trần Sỹ Phán và Nguyễn Thị Thanh Huyền (tạp chí Quản lý giáo
dục, số 9-2016) v.v.
Tháng 7-2008, Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, đã tổ chức
Hội thảo khoa học với chủ đề “Giáo d c đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước
ta: Thực trạng và giải pháp”; Năm 2009, trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn (Đại học Quốc gia Nội) có tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề
“Đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Hội
thảo đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và một số nhà quản lý giáo
dục.
Cùng với các công trình nghiên cứu là sách và tạp chí, còn có các đề tài
khoa học cấp quốc gia về vấn đề này như: đề tài “Đạo đức sinh viên trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam - Thực trạng, vấn đề và giải pháp”, mã số QG.01.18 do tác giả Trương
Văn Phước làm chủ nhiệm (Hà Nội, năm 2003); hay đề tài “Tác động của đổi
mới kinh tế tới đời sống sinh viên một số trường đại học ở Hà Nội”, mã số
CB.02.05 do tác giả Nguyễn Thị Bích Hà làm chủ nhiệm 2003, cho đến Chương
trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX05, đề tài KX.05.07, “Xây dựng con
người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị
trường, mở cửa và hội nhập quốc tế” (Hà Nội, năm 2005) do Phạm Minh Hạc

làm chủ nhiệm v.v. ít nhiều đã đề cập đến vấn đề đạo đức sinh viên nước ta hiện
nay.
Đối với ngành xây dựng, tháng 9-2007, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam đã
tổ chức hội thảo khoa học “Phát triển nguồn nhân lực xây dựng”. Hội thảo đã
thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, quản lý. Trong đó, vấn đề đạo đức
nghề nghiệp rất được quan tâm như bài:“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
ngành Xây dựng” (Nguyễn Trường Tiến); bài “Ngành ây dựng hiện đại và yêu
cầu đối với nguồn nhân lực hiện đại” (Phạm Sỹ Liêm); bài “Đăng bạ kỹ sư
chuyên nghiệp Việt Nam và đạo đức nghề nghiệp” (Nguyễn Đức Toản); Hội
thảo khoa học “Xây dựng nguồn nhân lực kỹ thuật của ASEAN” (11/200);
“Định hướng phát triển nhân lực đến năm 2020” của Quy hoạch phát triển nhân
lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020 (Bộ Xây dựng); Hội nghị khoa
6


học“Định hướng nghề nghiệp ngành xây dựng” trường Đại học Mở thành phố
Hồ Chí Minh (2014), Khoa Xây dựng, trường Đại học Vũng Tàu v.v.
Các cuốn sách “Kinh tế xây dựng trong cơ chế thị trường” của tác giả Bùi
Mạnh Hùng (Nxb Xây dựng, năm 2003); “Cẩm nang kỹ thuật an toàn và vệ sinh
lao động trong xây dựng, thiết kế, thi công và quản lý” của tác giả Hồ Sĩ Minh
(Nxb Xây dựng, năm 2011), hay cuốn “Quản lý rủi ro trong doanh nghiệp” của
tác giả Lê Anh Dũng và Bùi Mạnh Hùng (Nxb Xây dựng, năm 2015) v.v. đã
gián tiếp đề cập tới tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức ngành xây dựng.
“Quy định chuẩn đầu ra các ngành đào tạo trình độ đại học” của các trường đại
học có đào tạo sinh viên ngành xây dựng cũng rất coi trọng đến vấn đề đạo đức
sinh viên.
1.3. Những công trình nghiên cứu, một số văn bản về giải pháp nhằm phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực từ sự tác động của kinh tế thị trường
đến đạo đức sinh viên và sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay
Cuốn “Mấy vấn đề về đạo đức học mác-xít và xây dựng đạo đức trong

điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Nguyễn Thế Kiệt (Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2012), “Thanh ni n và lối sống của thanh niên Việt Nam trong
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế” của Phạm Hồng Tung (Năm 2012, Nxb
Chính trị quốc gia); “Giáo d c đạo đức mới cho sinh vi n trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Lương Gia Ban và Nguyễn Thế Kiệt đồng
chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, năm 2013); Hoàng Anh trong cuốn “Giáo d c
với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên” (Nxb Chính trị Quốc gia,
năm 2012); Trần Sỹ Phán trong cuốn “Giáo d c đạo đức với sự phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay” (Nxb Lý luận chính trị, năm 2016) cũng đề
ra một số giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối
sống mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường.
Hội thảo khoa học “Giáo d c đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta:
Thực trạng và giải pháp” do Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam tổ chức
tháng 7 - 2008 ở Đồng Nai; “Công tác giáo d c đạo đức, lối sống cho học sinh,
sinh vi n” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tháng 4-2014 v.v.
Bên cạnh đó, còn có các văn bản của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục - đào
tạo cũng đã đưa ra những giải pháp lớn mang tính chiến lược trong vấn đề giáo
dục đạo đức cho sinh viên giai đoạn hiện nay, như: “Chiến lược phát triển giáo
d c 2011-2020” (Ban hành theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-2012
của Thủ tướng Chính phủ); Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo d c và
đào tạo”; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 về “Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác giáo d c lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn
hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam v.v. Chỉ thị đã đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo
đức, lối sống cho thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng.
Một số giải pháp về vấn đề giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
ngành xây dựng cũng đã được đề cập đến. Tại Hội thảo “Phát triển nguồn nhân
7



lực ngành xây dựng” do Tổng hội Xây dựng Việt Nam tổ chức (2007), ông
Phạm Sỹ Liêm (Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam), đã có bản báo cáo
“Phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực ngành xây dựng nước ta” với những phân
tích sâu sắc và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn
nhân lực xây dựng một cách toàn diện, cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ lẫn
đạo đức nghề nghiệp.
Tác giả Nguyễn Trường Tiến trong bài nghiên cứu “Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực ngành xây dựng” cũng đã đưa ra một số giải pháp như: Xây
dựng tiêu chuẩn kỹ sư chuyên nghiệp, tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp và yêu
cầu học tập liên tục; thành lập liên đoàn kỹ sư Việt Nam hoặc Hội kỹ sư Việt
Nam để đóng góp cho việc đào tạo nguồn nhân lực và phát triển khoa học công
nghệ. Đặc biệt, tác giả đưa ra giải pháp cần “thành lập một trường đại học mới
theo tiêu chuẩn quốc tế cho ngành xây dựng”. Hoặc tác giả Giang Nam trong bài
“Quá ít kỹ sư chuy n nghiệp” đã đưa ra một trong những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực này là: Việt Nam cần thực hiện triển khai công
nhận kỹ sư chuyên nghiệp.
Trong khả năng bao quát của mình, tác giả luận án nhận thấy cho đến nay,
chưa có luận án nào nghiên cứu về đạo đức sinh viên ngành xây dựng.
Tổng quan một số công trình trên cho thấy, cho đến nay chưa có một công
trình nào trực tiếp bàn đến giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, các kết quả đạt được trong một số công trình khoa,
các ý kiến trong các hội nghị, hội thảo có liên quan đến đề tài giúp cho NCS có
thêm tư liệu để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đề ra.
Tiểu kết chương 1
1. Đánh giá chung về các công trình khoa học đã tổng quan
Một là, khảo cứu những công trình khoa học có liên quan đến đề tài mà
NCS tiếp cận được cho thấy, một số vấn đề lý luận chung về kinh tế thị trường,

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bước đầu đã được
làm sáng tỏ. Từ quan niệm, bản chất của kinh tế thị trường đến tính tất yếu của
việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ đặc
trưng và xu hướng vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đến vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế cũng như quy luật và
nguyên tắc vận động của kinh tế thị trường v.v. đã được đề cập một cách khá
toàn diện.
Hai là, ở các mức độ khác nhau, vấn đề đạo đức sinh viên cũng như sự tác
động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội nói chung, đạo đức sinh viên nói
riêng đã được một số tác giả đề cập đến. Tuy nhiên, trong số các công trình
nghiên cứu đó, chưa có một công trình nào đi sâu phân tích một cách cụ thể, có
hệ thống tác động của KTTT đến đạo đức sinh viên Việt Nam nói chung, sinh
viên ngành xây dựng nói riêng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Đây chính là
một trong những nhiệm vụ đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết.
8


Ba là, qua các công trình nghiên cứu đã được công bố, các báo cáo khoa
học hay các tài liệu, văn bản liên quan đến ngành xây dựng, liên quan đến yêu
cầu đạo đức nghề nghiệp người kỹ sư ngành xây dựng, chúng tôi thấy chưa có
một công trình hay văn bản nào đề cập trực tiếp đến các giải pháp nhằm phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực từ sự tác động của kinh tế thị trường đến
đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay. Có chăng các giải pháp
ấy cũng chỉ là những giải pháp mang tính định hướng nhằm nâng cao đạo đức
cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong ngành xây dựng
mà thôi. Còn đối với sinh viên ngành xây dựng thì hầu như chưa có một công
trình nào.
2. Một số vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
Một, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận có liên quan trực
tiếp đến đề tài luận án, như: kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa; tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội nói chung, đạo
đức sinh viên ngành xây dựng nói riêng; phân tích đặc điểm sinh viên ngành xây
dựng đồng thời xác định những chuẩn mực đạo đức sinh viên ngành xây dựng
cần có trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Hai, vận dụng phương pháp đi từ cái chung đến cái riêng, luận án phân
tích thực trạng tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây
dựng ở nước ta hiện nay, cả tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực.
Ba, trên cơ sở thực trạng tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh
viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay, luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế
thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay nhằm đào
tạo ra những thế hệ kỹ sư vừa giỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng
hội nhập quốc tế, vừa có phẩm chất đạo đức trong sáng, phấn đấu vì một Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chương 2
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN
NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Kinh tế thị trường và sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức
2.1.1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại, “kinh tế thị trường là một hệ thống
kinh tế, trong đó, các quyết định về việc phân bổ các nguồn lực sản xuất và phân
phối sản phẩm được đưa ra trên cơ sở các mức giá, được xác định qua những
giao dịch tự nguyện giữa các nhà sản xuất, người tiêu dùng, công nhân và chủ sở
hữu các yếu tố sản xuất”.
KTTT hoạt động theo những quy luật cơ bản sau:
Quy luật giá trị - Đây là quy luật chung, quy luật căn bản của kinh tế
hàng hóa, yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa trên cơ sở hao phí lao động xã
hội cần thiết. Quy luật giá trị hoạt động trong tất cả các giai đoạn phát triển của

9


KTTT. Trong nền KTTT, các chủ thể kinh tế đều phải tính đến yêu cầu của quy
luật giá trị, sử dụng mặt tích cực của quy luật giá trị trong hoạt động của mình
để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Quy luật giá trị tham gia điều tiết lợi ích
của các chủ thể trong nền KTTT.
Quy luật giá trị gia tăng (hay còn gọi là giá trị thặng dư - C.Mác) quy luật kinh tế cơ bản của mọi nền KTTT tự do và KTTT phát triển. Giá trị gia
tăng là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các chủ thể kinh tế. Đây là
mục tiêu theo đuổi, trở thành động lực mạnh mẽ của nền KTTT nhằm tăng
trưởng nhanh, tái sản xuất mở rộng nhiều và tích lũy lớn.
Quy luật cạnh tranh - quy luật quan trọng, đặc trưng cho vận hành của
cơ chế thị trường. Các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường tự chủ sản
xuất kinh doanh, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau và hướng đến mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận, lợi ích. Cơ chế cạnh tranh trong kinh tế thị trường tạo động lực
tích cực, tự giác cho người lao động, yêu cầu chuyên môn hóa sâu sẽ phát huy
tiềm năng nhiều mặt của mỗi cá nhân. Những nhân tố lạc hậu, không hiệu quả sẽ
bị loại bỏ trong kinh tế thị trường, khuyến khích các nhân tố tích cực, hiệu quả.
Ngoài các quy luật trên, trong nền KTTT còn có một số quy luật khác,
như quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ v.v. Các quy luật này cũng tác
động đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có đạo đức.
Có thể nói, KTTT có những ưu thế và mang trong mình nó một số giá trị
tích cực:
Thứ nhất, KTTT là nền kinh tế rất năng động.
Thứ hai, KTTT sử dụng hiệu quả các nguồn lực ở mức cao nhất.
Thứ ba, KTTT duy trì động lực mạnh mẽ áp dụng và cải tiến khoa học kỹ
thuật hiện đại, phát triển lực lượng sản xuất góp phần tăng năng suất lao động.
Thứ tư, KTTT tạo môi trường tự do hóa kinh tế và góp phần dân chủ hóa
đời sống xã hội.
Tuy nhiên, KTTT cũng có những hạn chế, khuyết tật của nó:

Một là, nền KTTT phát triển không ổn định. Do chịu sự chi phối của các
quy luật thị trường nên các hoạt động kinh tế mang tính tự phát, luôn tiềm ẩn các
yếu tố gây nên những tổn thất to lớn như lạm phát, thất nghiệp, suy thoái, xâm
hại môi trường và cạn kiệt những nguồn tài nguyên không thể tái sinh.
Hai là, KTTT vận động tự phát sẽ tất yếu dẫn đến các hệ lụy là sự phân
hóa giàu nghèo, nảy sinh các tệ nạn xã hội.
Ba là, KTTT bên cạnh mặt tích cực về cơ hội phát triển, không tránh khỏi
những thách thức gây nên sự không ổn định cho nền kinh tế xã hội.
Mô hình kinh tế thị trường mà Việt Nam đang vận dụng là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nhằm phát
triển lực lượng, giải phóng sức sản xuất của xã hội và từng bước xây dựng tiền
đề vật chất cho CNXH. Mặt khác, KTTT thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nhiều
hàng hóa phong phú, chất lượng cao, để từng bước cải thiện và nâng cao đời
sống của nhân dân. Như vậy, mục tiêu phát triển nền KTTT định hướng CNXH
ở nước ta vừa thực hiện mục tiêu kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu xã hội: dân
10


giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
2.1.2. Đạo đức, tính quy luật của sự hình thành và phát triển đạo đức
Trên cơ sở kế thừa một số quan niệm đạo đức của một số tác giả (hay tập
thể tác giả), từ kết quả nghiên cứu của mình, chúng tôi quan niệm: đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực dùng để điều
chỉnh hành vi và đánh giá cách ử sự của con người trong mối quan hệ với nhau
và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống dân tộc và sức mạnh dư luận xã hội và được hiện thực hóa bởi hành vi,
quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức nảy sinh, tồn tại và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất

xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội. Quan niệm đạo
đức thay đổi theo chế độ kinh tế - xã hội, gắn với mỗi thời đại, mỗi giai cấp. Đây
chính là quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức đạo đức. Qua các thời kỳ lịch
sử khác nhau, các quan niệm, chuẩn mực đạo đức như sống thiện, yêu thương
con người, lòng nhân ái, bao dung v.v. có thể được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Các phạm trù đạo đức cơ bản như lương tâm, nghĩa vụ tồn tại từ thời cổ đại cho
đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, nội dung các phạm trù đạo đức sẽ có sự thay đổi,
bổ sung và ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Đó là
quy luật kế thừa trong sự phát triển của đạo đức. Quy luật này chịu ảnh hưởng
của lịch sử, điều kiện kinh tế xã hội của mỗi một quốc gia, dân tộc. Đời sống
con người, điều kiện kinh tế xã hội luôn vận động, biển đổi và phát triển, do vậy,
tiến bộ đạo đức cũng là một quy luật khách quan, phản ánh xu thế vận động và
phát triển của đời sống đạo đức xã hội. Đó là một quá trình phát triển từ thấp
đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, trong quan hệ tự nguyện, tự giác
giữa người với người vì hạnh phúc chung của cộng đồng xã hội và của bản thân
mỗi người. Đây là xu thế tất yếu, thể hiện quy luật tiến bộ của đạo đức, chuyển
từ kiểu (hay dạng) đạo đức này sang kiểu (hay dạng) đạo đức khác cao hơn, tiến
bộ hơn.
2.1.3. Cơ chế tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức
Trên cơ sở lý luận về quy luật hình thành và phát triển của đạo đức, từ
mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức như đã phân tích trên, tác giả luận án tiếp
cận sự tác động của KTTT đến đạo đức ở 2 phương diện: 1) KTTT phát triển
làm thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng của kinh tế, kéo theo sự tiến bộ, công bằng
xã hội, đưa đạo đức lên một trình độ phát triển mới. Xuất phát từ quy luật kế
thừa trong sự phát triển và quy luật tiến bộ của đạo đức, chúng ta có thể coi đây
là những tác động tích cực của KTTT đến đạo đức. 2) Do sự không tương đồng
giữa kinh tế với tiến bộ đạo đức, nên trong những điều kiện nhất định của KTTT
có thể dẫn đến sự suy thoái trên một số phương diện nào đó của đạo đức. Đây có
thể được coi là những tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức một cách gián
tiếp. Ở cả 2 phương diện, KTTT không tác động trực tiếp đến đạo đức mà thông

qua những khâu trung gian như lợi ích, các chính sách xã hội, hệ thống pháp
luật, lối sống, văn hóa v.v.
11


Phân tích những biểu hiện cụ thể của sự tác động KTTT đến đạo đức dưới
góc độ nhất định, tác giả luận án khái quát một số nội dung chính như sau:
Một là, KTTT vận hành theo quy luật cạnh tranh dựa trên sự thừa nhận và
khuyến khích lợi ích cá nhân (tất nhiên đó là lợi ích cá nhân chính đáng). Đồng
thời, kinh tế thị trường cũng hình thành một nền pháp chế tương ứng để đảm bảo
cho nó vận hành một cách có hiệu quả. Thông qua những quy định ràng buộc
của pháp luật, các chủ thể kinh tế phải giữ chữ tín, đức tính trung thực, tôn trọng
đối tác và cùng đem lại lợi ích cho nhau trong các hoạt động xã hội cũng như
hoạt động kinh tế.
Hai là, sự vận hành của KTTT đòi hỏi và tạo điều kiện cho việc thúc đẩy
những nghiên cứu sáng tạo, chuyển giao, áp dụng công nghệ trong sản xuất và
trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, tạo điều kiện để mỗi cá nhân phát huy tính
tích cực, tự giác và sáng tạo và khẳng định vị trí của mình.
Ba là, KTTT thừa nhận và khuyến khích lợi ích cá nhân, cơ chế hoạt động
trong KTTT nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích cá nhân. Nhưng khi lợi
ích chính đáng của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội thì sẽ trở thành một bộ
phận của lợi ích xã hội, góp phần vào sự phát triển xã hội. Đây có thể coi là tác
động tích cực của KTTT đến đạo đức.
Do tính độc lập tương đối của đạo đức trong mối quan hệ với kinh tế nên
không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng kéo theo sự phát triển của đạo đức.
C.Mác cho rằng, giữa phát triển kinh tế - kỹ thuật và tiến bộ đạo đức không phải
trong thời kỳ nào cũng tương đồng. Tuy nhiên, bản thân các quy luật của KTTT
không tác động trực tiếp dẫn đến những biểu hiện suy thoái của đạo đức. Mà ở
đây, sự tác động này phải qua các khâu trung gian như lối sống, sự nhận thức
của bản thân các chủ thể đạo đức và cùng với đó là những ảnh hưởng, tác động

bởi các quan hệ xã hội khác.
Bên cạnh sự tác động tích cực, KTTT cũng có tác động tiêu cực đến nhiều
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có đạo đức. Điều đó thể hiện ở:
Một, trong KTTT, cơ chế vận động của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ,
quan hệ cung - cầu và quan hệ cạnh tranh, với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận đã
tạo nên lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ.
Hai, sự không ổn định, tính tự phát trong nền kinh tế thị trường cũng là
môi trường thuận lợi để làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội, tham
nhũng, tội phạm, bạo lực v.v.
2. Sinh viên ngành xây dựng và những chuẩn mực đạo đức cần có của sinh
viên ngành xây dựng dưới tác động của kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay
2.2.1. Sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay và đặc điểm của họ
2.2.1.1. Sinh vi n ngành ây dựng ở Việt Nam hiện nay
Kể từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, bước sang kinh tế thị trường,
xây dựng là một trong những ngành nghề chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng
số lao động ở nước ta. Theo số liệu thống kê, “đến năm 2015 cả nước có khoảng
trên 3,43 triệu lao động trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia trong các hoạt động của
ngành Xây dựng, chiếm 6,5% tổng số lao động của cả nước”, và “là ngành có
12


lực lượng lao động cao thứ 4”. Ngành xây dựng /Kiến trúc là 1 trong 5 ngành có
nhu cầu nhân lực cao nhất, tăng đột biến so với các năm trước, là một trong số
những ngành được đánh giá là có nhiều triển vọng phát triển.
Hiện nay, các cơ sở đang đào tạo các chuyên ngành xây dựng như: kiến
trúc sư công trình, kiến trúc sư quy hoạch, kỹ sư xây dựng, kỹ sư cầu đường
tương đối nhiều, với “33 cơ sở đào tạo tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc và phía Nam. Mạng lưới các cơ sở ngoài ngành có đào tạo các chuyên
ngành xây dựng gồm 162 đơn vị, trong đó có 41 trường đại học, 47 trường cao

đẳng, 34 trường trung cấp chuyên nghiệp, 23 trường cao đẳng nghề, 17 trường
trung cấp nghề”. “Nhiều trường, cơ sở đào tạo đã triển khai đào tạo theo các
chương trình tiên tiến, đặc biệt đã có những cơ sở đào tạo nghề xây dựng đạt
chuẩn quốc tế”. Hàng năm, các cơ sở này cung cấp cho xã hội một nguồn nhân
lực xây dựng khá lớn. Việc đào tạo học viên dưới các hình thức, cấp học, ngành
học nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện đội ngũ nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành Xây dựng đã và đang
là đòi hỏi bức thiết hiện nay.
2.2.1.2. Đặc điểm sinh vi n ngành ây dựng Việt Nam hiện nay
Nằm trong độ tuổi chủ yếu từ 18 đến 23,24, sinh viên ngành xây dựng
cũng có những đặc điểm tâm sinh lý chung của lứa tuổi sinh viên, đó là:
Thứ nhất, sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có
những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh
sự phát triển của mình sao cho phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
Thứ hai, việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan. Một trong những
ưu điểm của sinh viên là chỗ, họ là những người có trình độ nhận thức, hiểu biết
nhất định - tức là những người có tri thức - một trong những yếu tố cơ bản, là cơ
sở trực tiếp cho sự hình thành và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan khoa
học.
Thứ ba, một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này đó chính là tình
cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo,
sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong cuộc sống.
Thứ tư, bên cạnh những ưu điểm trên, ở lứa tuổi sinh viên cũng còn một
số hạn chế. Đó là những biểu hiện xung đột về mặt tâm lý, sự thiếu chín chắn
trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi cái mới ở một
bộ phận sinh viên.
Tuy nhiên, trước những biến đổi của xã hội, không ít sinh viên thường
dao động, thiếu bản lĩnh trong khi phân tích, nhận định tình hình kinh tế, chính
trị - xã hội hiện nay.
Ngoài những đặc điểm tâm lý lứa tuổi chung như đã phân tích ở trên, sinh

vi n ngành ây dựng có những đặc điểm ri ng, gắn với đặc thù đào tạo nghề
nghiệp, đó là:
Một là, sinh viên ngành xây dựng cần có tư duy khoa học trong học tập,
nghiên cứu và giải quyết công việc, có kỹ năng tính toán, thiết kế, vẽ, thuyết
trình tốt. Vì vậy, họ thường phải nắm vững kiến thức khoa học tự nhiên, nhất là
toán học và vật lý cơ học để có khả năng tính toán, đo lường, xử lý thông tin một
13


cách mạch lạc, nhờ đó dễ dàng lập dự toán, thiết kế, kỹ thuật vì đây là ngành đòi
hỏi cao về độ chính xác, tỉ mỉ. Xây dựng là ngành kỹ thuật, chương trình học
khá khô khan, nhiều tính toán, tạo cho sinh viên khả năng tư duy, logic và giải
quyết công việc theo nhiều hướng khác nhau.
Công việc của người kỹ sư ngành xây dựng đòi hỏi sự lao động nghiêm
túc từ khâu tính toán, đo đạc, thiết kế đến thi công, nên sinh viên cần rèn luyện
cho mình đức tính cẩn thận, siêng năng, và một sức học tốt để có thể tiếp thu
chương trình đào tạo.
Hai là, sinh viên ngành xây dựng cần có hiểu biết phong phú về lịch sử,
địa lý; có vốn văn hóa sâu rộng, khả năng sáng tạo và tổ chức, thích tìm tòi, học
hỏi và yêu thích nghề nghiệp của mình. Các kỹ sư không chỉ tạo ra những công
trình với kết cấu vững chắc, an toàn, mà còn mang tính thẩm mỹ với hình khối,
đường nét, sự kết hợp màu sắc gắn liền với những công trình kiến trúc, vừa tạo
nên những cơ sở vật chất cụ thể, vừa tạo nên các công trình có giá trị kỹ thuật và
văn hóa. Nó đòi hỏi sự sáng tạo và kết hợp khéo léo giữa kỹ thuật, công nghệ
với văn hóa, nghệ thuật. Các công trình xây dựng đều mang dấu ấn văn hóa, tập
quán, đặc điểm thiên nhiên con người tại mỗi đất nước, mỗi vùng miền khác
nhau. Vì vậy, sinh viên học ngành này còn cần phải có tình yêu dành cho đất
nước, thiên nhiên và con người để xây dựng nên những công trình mang dấu ấn
cộng đồng, văn hóa, tâm linh. Ý thức tìm hiểu, cập nhật các kiến thức mới có thể
giúp sinh viên kiến tạo nên những công trình hiện đại, đáp ứng sự phát triển

không ngừng của kỹ thuật xây dựng và mang giá trị thẩm mỹ cao.
Ba là, sinh viên ngành xây dựng cần được đào tạo các kỹ năng và kiến
thức hiểu biết về nghệ thuật, kỹ thuật, kinh tế, tổ chức sản xuất - lý luận gắn liền
với thực tiễn. Đặc thù ngành đào tạo của sinh viên ngành xây dựng không phải
là những nội dung thuần túy lý thuyết mà gắn trực tiếp với thực hành, nên họ có
phong cách tự tin riêng của người kỹ sư ngành xây dựng. Sinh viên ngành xây
dựng có các kỹ năng nghề nghiệp khác như đọc, hiểu bản vẽ thiết kế kỹ thuật;
bản vẽ thi công, lập dự toán công trình để triển khai tổ chức thi công; sử dụng
được các loại máy móc liên quan trong lĩnh vực xây dựng và những kỹ năng
mềm khác như kỹ năng tư duy phản biện, thuyết trình, xây dựng nhóm, kỹ năng
giao tiếp và giải quyết vấn đề. Một công trình xây dựng hoàn thiện là công sức,
là trí tuệ và tâm huyết của cả một tập thể lớn, bao gồm nhiều bộ phận phối hợp
với nhau như thiết kế, thi công, giám sát kỹ thuật. Đây là những yêu cầu, kỹ
năng mà không phải sinh viên ngành nào cũng cần, cũng có. Vì vậy, bên cạnh
việc được đào tạo năng lực làm việc và nghiên cứu độc lập, sinh viên cần được
trang bị kỹ năng làm việc theo nhóm, vừa thực hiện tốt phần việc của mình, vừa
góp phần hoàn thành công việc chung.
Các kiến thức, kỹ năng nghề vững chắc, kết hợp với các kỹ năng lập kế
hoạch, quản lý thời gian, làm việc nhóm… chính là thái độ, tác phong công
nghiệp và bản lĩnh nghề nghiệp. Có nắm vững được chuyên môn thì mới có thể
tạo nền tảng cho việc giữ đúng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.

14


2.2.2. Những chuẩn mực đạo đức cần có của sinh viên ngành xây dựng ở Việt
Nam hiện nay
Một là, có tinh thần y u nước, tự lực, tự cường, ây dựng đất nước ngày
càng giàu mạnh.
Là những kỹ sư tương lai, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng

đất nước nói chung và phát triển ngành xây dựng nói riêng, sinh viên cần có lý
tưởng sống đúng đắn, có lòng yêu nước, tự tôn dân tộc và tự hào về ngành nghề
của mình. Lòng yêu nước của sinh viên ngành xây dựng hiện nay được thể hiện
cả ở lòng yêu nghề, ý thức đóng góp công sức và trí tuệ của mình để xây dựng
đất nước, xây dựng nên những công trình chất lượng, áp dụng những tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại của ngành xây dựng thế giới.
Hai là, có ý thức học tập chăm chỉ, sáng tạo, trau dồi kiến thức chuy n
môn, tiếp thu kiến thức nghề nghiệp và học tập suốt đời.
Ngành xây dựng ngày càng phát triển, vì vậy, sinh viên ngành xây dựng
phải không ngừng nâng cao trình độ, tìm hiểu, nắm vững công nghệ mới hiện
đại; phải luôn nghĩ và làm với sự nỗ lực cao nhất, vì sự hoàn hảo của công việc,
không bao giờ thỏa mãn với kết quả đạt được. Các kỹ sư ngành xây dựng phải
cam kết, chỉ thực hiện các nhiệm vụ kỹ thuật khi có đủ trình độ chuyên môn mà
mình được đào tạo chính quy hay kinh nghiệm trong lĩnh vực kỹ thuật có liên
quan. Họ chỉ được phép đưa ra một quan điểm, ý kiến kỹ thuật nếu nó được dựa
trên kiến thức đầy đủ về các sự kiện, dựa trên một nền tảng nắm vững chuyên
môn kỹ thuật.
Ba là, có trách nhiệm với cộng đồng và ã hội, luôn hành động vì lợi ch
và sự phát triển chung của ã hội.
Các kỹ sư ngành xây dựng phải tuyệt đối giữ gìn sự an toàn, sức khỏe và
lợi ích của cộng đồng. Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, cuộc sống, sự an
toàn, sức khỏe của mọi người và sự phát triển của xã hội phụ thuộc rất lớn vào
các quyết định, các thực hành kỹ thuật chuyên môn được các kỹ sư xây dựng áp
dụng. Họ chỉ được phép chấp thuận hoặc đóng dấu vào các hồ sơ thiết kế công
trình nếu đạt quy định an toàn cho sức khỏe và tính mạng của cộng đồng theo
đúng các tiêu chuẩn kỹ thuật đã được công nhận.
Bốn là, có ý thức tôn trọng pháp luật, kỷ luật học đường, trung thực trong
học tập, nghi n cứu khoa học và trong hoạt động nghề nghiệp sau này.
Các kỹ sư ngành xây dựng phải giữ gìn và phát huy được tính tốt đẹp, danh
dự và phẩm giá của nghề nghiệp, luôn hành xử trung thực và vô tư đối với khách

hàng hay chủ đầu tư với một lòng trung thực, độ tin cậy cao. Họ phải trung thực
với công việc, đồng nghiệp, trung thực trong công tác chuyên môn, chỉ được
phép thực hiện các dịch vụ trong phạm vi chuyên môn của mình. Trong quá
trình thi công hay thiết kế, các kỹ sư chỉ được phép đưa ra các phát biểu công
khai một cách khách quan và trung thực nhất về các công trình xây dựng mà
mình đang phụ trách. Sự trung thực này được thể hiện trong mối quan hệ với
khách hàng và chủ đầu tư, luôn có những quyết định đúng đắn để tránh để xảy ra
các xung đột về lợi ích.
15


Năm là, có trách nhiệm với các quyết định của cá nhân, với các hoạt động
li n quan đến nghề nghiệp, chủ động, sáng tạo trong các hoạt động nghề
nghiệp.
Sinh viên ngành xây dựng phải là người có trách nhiệm với các quyết
định của cá nhân, trước hết đó là sự lựa chọn nghề nghiệp. Phải xuất phát từ
lòng đam mê, yêu thích, phù hợp với khả năng, điều kiện bản thân thì sau này họ
mới có thể trở thành những kỹ sư giỏi về chuyên môn và hết lòng yêu nghề. Đây
sẽ là động lực to lớn thôi thúc sinh viên tích cực học tập, hăng say nghiên cứu
khoa học, phấn đấu vì tương lai của bản thân và xã hội. Công việc của ngành
xây dựng không chấp nhận có phế phẩm vì liên quan trực tiếp đến sinh mạng
nhiều người. Để trở thành kỹ sư ngành xây dựng giỏi, trước hết sinh viên phải là
người có tinh thần trách nhiệm cao, lương tâm và đạo đức nghề nghiệp trong
sáng. Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, người kỹ sư chỉ cần thiếu thận
trọng ở bất kỳ khâu nào đều có thể ảnh hưởng đến sinh mạng của nhiều người
khác.
Tiểu kết chương 2
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền KTTT định hướng XHCN. Nền
kinh tế này vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của KTTT, đồng thời đảm
bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy

nhiên, việc hoàn thiện thể chế KTTT hiện nay ở nước ta còn chậm, hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ v.v. Do đó, mặt
trái của KTTT đang tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có
đạo đức xã hội nói chung, đời sống đạo đức sinh viên ngành xây dựng nói riêng.
Để có được những kỹ sư ngành xây dựng trong tương lai vừa “hồng”, vừa
“chuyên”, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, các chủ thể giáo dục phải
quan tâm đúng mức đến việc giáo dục đạo đức, xác định những chuẩn mực đạo
đức cần có đối với sinh viên ngành xây dựng; giúp họ có khả năng phát huy tác
động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT trong quá trình học tập, rèn
luyện cũng như khi ra trường công tác.
Chương 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO
ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ KẾT LUẬN RÚT RA
3.1. Thực trạng tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên
ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Tác động tích cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây
dựng ở Việt Nam hiện nay
3.1.1.1. Sự phát triển của xã hội và những yêu cầu mới của nền KTTT đòi
hỏi phải có sự thay đổi làm thay đổi, bổ sung nội dung mới về lòng yêu nước,
điều đó đã tác động tích cực đến nhận thức và hành vi đạo đức của sinh viên
ngành xây dựng
16


KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Do vậy, lòng yêu nước
của sinh viên phải góp phần thực hiện những mục tiêu đó và là động lực của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hoàn cảnh lịch sử mới. Đối với sinh
viên ngành xây dựng, những thành tựu của ngành và những yêu cầu mới đặt ra

trong nền KTTT đã có những tác động tích cực đến niềm tự hào nghề nghiệp, ý
thức xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh của sinh viên ngành xây dựng.
Trong giới hạn và ở góc độ nhất định, chúng tôi khảo sát thực trạng thể
hiện lòng yêu nước của sinh viên ngành xây dựng hiện nay ở những kết quả mà
sinh viên đạt được trong quá trình phấn đấu học tập. Đây chính là hành vi, thực
tiễn đạo đức được thực hiện khi sinh viên ý thức sâu sắc được nhiệm vụ học tập
của mình.
Lòng yêu nước, tự hào về ngành nghề, chính là đem tài năng và trí tuệ của
mình để cho bạn bè trên thế giới thấy được, trình độ của sinh viên ngành xây
dựng Việt Nam không hề thua kém họ, có thể sánh kịp cùng các nước trong khu
vực và trên thế giới. Những giải thưởng của sinh viên trong các sân chơi học
thuật quốc tế đã chứng tỏ điều này.
3.1.1.2. Quy luật hoạt động của KTTT; quy luật hình thành và phát triển
của đạo đức đã có những tác động nhất định đến tính tích cực học tập, nâng cao
tri thức khoa học, trình độ chuyên môn nghề nghiệp của sinh viên ngành xây
dựng
Để nghiên cứu sự tác động này, chúng ta không chỉ đơn thuần khảo sát
trực tiếp từ các quan hệ kinh tế thị trường mà KTTT tác động đến đạo đức sinh
viên thông qua khâu trung gian, đó là qua các chính sách thu hút nhân tài, chế độ
đãi ngộ đối với những sinh viên giỏi, có thành tích học tập và nghiên cứu khoa
học. Những chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu mà nền KTTT đặt ra đã gián tiếp
tác động đã tác động tích cực đến tính năng động, chủ động trong việc học tập
của sinh viên ngành xây dựng, giúp cho họ nhận thức được vị trí, vai trò, trách
nhiệm xã hội của mình.
3.1.1.3. Quy luật vận động và phát triển của KTTT, những yêu cầu về đạo
đức của người sản xuất, kinh doanh, nhất là tính hợp tác, tính kỷ luật trong lao
động đã có tác động nhất định đến ý thức tập thể, tinh thần trách nhiệm với cộng
đồng, xã hội của sinh viên ngành xây dựng
Một, kinh tế thị trường đòi hỏi sự tôn trọng kỷ luật lao động cao độ, do
đó, bản thân kỹ sư ngành xây dựng cần từ bỏ thói quen tùy tiện, vô tổ chức, hình

thành tác phong chuyên nghiệp, rèn luyện tính kỷ luật, tác phong công nghiệp
trong lao động cho phù hợp với điều kiện xây dựng hiện đại. Quá trình làm việc
đòi hỏi các kỹ sư phải nêu cao ý thức trách nhiệm, tinh thần tập thể, tinh thần
hợp tác. Tiêu chí về chuẩn đầu ra ở tất cả các trường đối với sinh viên ngành xây
dựng đều coi trọng kỹ năng làm việc nhóm, có ý thức và tinh thần tập thể. Đây
chính là mục đích ra đời của các Nhóm Học tập - Nghiên cứu SRT (StudyResearch Team) - Một mô hình mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; nghiên
cứu khoa học và kỹ năng mềm làm việc tập thể cho sinh viên.
17


Hai, những chính sách quan tâm và chú trọng đến các hoạt động an sinh
xã hội, vì cộng đồng, đã tác động tích cực đến ý thức trách nhiệm với cộng
đồng, hoạt động vì lợi ích và sự phát triển cộng đồng, xã hội của sinh viên ngành
xây dựng.
Ba, xuất phát từ mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, cá nhân với
xã hội cũng như từ mục tiêu, định hướng phát triển nền KTTT của chúng ta hiện
nay đòi hỏi sự phát triển các công nghệ xây dựng tiên tiến, hiện đại gắn với việc
khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên
nhiên đã tác động tích cực đến ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên, trách nhiệm
với môi trường sống vì cộng đồng, xã hội của sinh viên ngành xây dựng. Đây là
những yêu cầu vừa có tính chất bắt buộc, tính chất pháp lý, vừa có tính chất đạo
đức đối với ngành xây dựng.
3.1.1.4. Tác động tích cực của KTTT đến ý thức chấp hành pháp luật, kỷ
luật học đường, tính trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên
ngành xây dựng
KTTT tác động đến đạo đức người kỹ sư ngành xây dựng thông qua các
quy định, chủ trương, chính sách, luật pháp. Nó đòi hỏi người kỹ sư phải có ý
thức tôn trọng pháp luật, phải luôn luôn trung thực, luôn luôn coi trọng đạo đức
nghề nghiệp. Tổ chức Kỹ sư chuyên nghiệp quốc tế (NSPE - National Society of
Professional Engineers [182]) đã đưa ra tiêu chí cao nhất, rất được coi trọng, đó

là tính trung thực và tính chính trực, vì công việc của họ có ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của nhiều người
Bên cạnh đó, để tạo hành lang pháp lý đảm bảo thực hiện các nguyên tắc
và quy luật của nền KTTT, ngành xây dựng đã có Luật Xây dựng; Nghị định số
16/2005/NĐ-CP, số 12/2009/NĐ-CP, trong đó có quy định chi tiết những điều
kiện để được xem xét cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư, kỹ sư. Theo đó, Bộ
Xây dựng đã ban hành Quy chế cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư, kỹ sư
theo các quyết định số 12/2005/BXD-QĐ, số 15/2005/QĐ-BXD và Thông tư số
12/2009/TT-BXD v.v. Tất cả những khung pháp lý đó là những định hướng cho
sinh viên ngành xây dựng về những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của mình
sau này. Sinh viên bước đầu nhận thức và hiểu được các giá trị đạo đức và tiêu
chí về tính trung thực, tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật của kỹ sư ngành
xây dựng.
3.1.1.5. Môi trường tự do hóa kinh tế, dân chủ hóa xã hội trong nền KTTT
đã tạo sự chủ động trong việc lựa chọn các chuyên ngành học tập của sinh viên
ngành xây dựng.
Khảo sát về động cơ lựa chọn nghề nghiệp kỹ sư ngành xây dựng, tỷ lệ
sinh viên học vì đam mê, yêu thích ngành này chiếm tỷ lệ tương đối cao. Trước
khi quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai, và ngay cả trong quá trình
học tập, sinh viên đã chủ động tham gia các buổi nói chuyện chuyên đề về đạo
đức người kỹ sư ngành xây dựng, tọa đàm, hội thảo khoa học về vấn đề việc làm
ngành xây dựng. Xu hướng nhận thức của sinh viên đối với lao động đã thay
đổi. Bất cứ làm việc ở đâu, bằng sức lao động của mình, đem lại hiệu quả thực
tế, tự đảm bảo được đời sống và có đóng góp cho xã hội, không trái với luật
18


pháp… đều được xem như là lao động có ích, đều được thừa nhận, đều có giá trị
xã hội như nhau về mặt đạo đức.
3.1.2. Tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây

dựng ở nước ta hiện nay
3.1.2.1. Kinh tế thị trường kích thích chủ nghĩa thực dụng, lối sống chạy
theo đồng tiền làm hạn chế lý tưởng, niềm tin chính trị, động cơ, xu hướng lựa
chọn nghề nghiệp, mục tiêu học tập của một bộ phận sinh viên ngành xây dựng
ở nước ta hiện nay
Một, tâm lý thực d ng, chạy theo giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị tinh thần,
lý tưởng, niềm tin chính trị trong một bộ phận sinh viên.
Hai, tâm lý thực d ng trong động cơ, u hướng chọn ngành nghề của một
bộ phận sinh vi n ngành ây dựng.
3.1.2.2. Tác động tiêu cực của KTTT đến ý thức chấp hành pháp luật, nội
quy, quy định của nhà trường, đến ý thức tập thể, đến trách nhiệm cá nhân với
cộng đồng, xã hội
Một, tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong cơ
chế thị trường của ngành xây dựng đang tác động tiêu cực đến nhận thức của
sinh viên về sự trung thực, chữ tín trong hoạt động nghề nghiệp tương lai của
mình.
Hai, quan niệm thực dụng về giá trị đồng tiền trong KTTT, góp phần làm
nảy sinh tình trạng thương mại hóa, bất bình đẳng trong giáo dục, ảnh hưởng
trực tiếp đến tính trung thực trong học tập và rèn luyện của một bộ phận sinh
viên ngành xây dựng.
Ba, để đạt được mục tiêu lợi nhuận, lợi ích tối đa, không ít công ty xây
dựng đã gây ra những tác động xấu đến môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã
hội, tác động tiêu cực đến nhận thức của sinh viên về trách nhiệm nghề nghiệp,
về lợi ích của cộng đồng, của xã hội.
3.1.2.3. Quy luật cung cầu trong KTTT gián tiếp làm hạn chế tính tự chủ,
sáng tạo, nâng cao trình độ chuyên môn và hiểu biết về đạo đức nghề nghiệp của
sinh viên ngành xây dựng
Nắm bắt được nhu cầu của thị trường về nguồn nhân lực ngành xây dựng,
để tăng thêm nguồn thu nhằm đảm bảo tự chủ về tài chính, nhiều trường đã mở
thêm nhiều mã ngành xây dựng để tuyển sinh. Chưa kể có một số lượng không

nhỏ các trường trung cấp nâng cấp lên cao đẳng, cao đẳng lên đại học, trong khi
năng lực không đáp ứng được yêu cầu đào tạo nhưng vẫn mở mã ngành đào tạo
kỹ sư ngành xây dựng. Nhiều ngành mới có, các trường chưa có đủ lực lượng
giảng viên chuyên sâu, như các ngành về vật liệu mới, về môi trường, về ngành
ứng dụng tin học, ngành xây dựng công trình ngầm, ngành xây dựng các công
trình đặc biệt, ngành quản lý dự án... nhưng vẫn cứ mở để tuyển sinh nhằm tăng
nguồn thu cho nhà trường.
3.2. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu thực trạng tác động của
kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện
nay
19


1. Những chính sách xã hội và khung pháp lý trong nền KTTT định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay có những tác động tích cực nhất định đến đạo
đức sinh viên ngành xây dựng. Tuy nhiên, nền kinh tế hiện nay chưa phải là nền
KTTT đầy đủ, hiện đại, một nền KTTT chưa hoàn thiện, nên không thể tránh
khỏi những tác động tiêu cực do những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nó.
Bên cạnh đó, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao, kỷ luật, kỷ cương
không nghiêm, cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động xây
dựng còn yếu. Thực trạng đạo đức nghề nghiệp ngành xây dựng bị chi phối bởi
các lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm dẫn đến tình trạng tham nhũng, vi phạm pháp
luật, vi phạm đạo đức, vi phạm lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, là những
gương phản diện tác động tiêu cực tới đạo đức của sinh viên ngành xây dựng với
tư cách là những kỹ sư tương lai.
2. Nhận thức về những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của không ít sinh
viên ngành xây dựng hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế. Một mặt, là từ thực
trạng đạo đức nghề nghiệp ngành xây dựng hiện nay bị chi phối bởi các lợi ích
cá nhân, lợi ích nhóm dẫn đến tình trạng tham nhũng, vi phạm pháp luật, vi
phạm đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp. Hệ thống pháp luật ngành

xây dựng ở nước ta hiện nay chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, nhiều kẽ hở và bất
cập, tạo cơ hội cho các hành vi vi phạm pháp luật, tác động tiêu cực tới ý thức
chấp hành pháp luật, đức tính trung thực của sinh viên ngành xây dựng với tư
cách là những kỹ sư tương lai. Mặt khác, còn do trình độ nhận thức, còn do sinh
viên không được học kiến thức về đạo đức nghề nghiệp như là một môn học độc
lập. Vì vậy, cần phải có những giải pháp về mặt chương trình, hình thức,
phương pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên ngành xây dựng ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường để sau này trở thành những kỹ sư ngành xây dựng
chuyên môn giỏi, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng.
3. Những yếu tố tác động tiêu cực của nền KTTT đến tư tưởng, niềm tin
chính trị, nguyên nhân một phần là do các trường kỹ thuật chưa chú trọng đúng
mức vai trò của các môn lý luận chính trị trong việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên. Vấn đề này cần có giải pháp khẳng định vai trò của Nhà nước, của Bộ Xây
dựng, của nhà trường, của gia đình, của các tổ chức xã hội nghề nghiệp xây
dựng nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đến
đạo đức sinh viên ngành xây dựng hiện nay.
4. Những hạn chế trong nhận thức và hành vi đạo đức của sinh viên ngành
xây dựng, không chỉ có nguyên nhân khách quan là sự tác động của KTTT, mà
còn có nguyên nhân chủ quan đến từ bản thân sinh viên. Vì vậy, không thể thiếu
những giải pháp nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập,
rèn luyện đạo đức của sinh viên ngành xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn
nhân lực chất lượng cao trong nền KTTT và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tiểu kết chương 3
Sự tác động của KTTT đến đạo đức cho sinh viên ngành xây dựng đang
có ảnh hưởng ở cả 2 mặt tích cực và tiêu cực. Không thể phủ nhận những thuận
lợi, ưu điểm mà nền KTTT đang tạo điều kiện phát triển cho ngành xây dựng,
cũng như mở ra cơ hội cho sinh viên ngành xây dựng cống hiến tài năng và trí
20



tuệ của mình cho nghề nghiệp mà mình đam mê, yêu thích. Bên cạnh mặt tích
cực, bản thân KTTT cũng làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội,
tâm lý sùng bái đồng tiền, chủ nghĩa thực dụng; những áp lực về vấn đề việc
làm, cùng với những sai phạm, tiêu cực của ngành xây dựng trong nền KTTT,
đã ảnh hưởng không tốt đến tinh thần, thái độ, động cơ học tập của sinh viên;
đến ý thức, trách nhiệm với cộng đồng, xã hội; đến ý thức tôn trọng pháp luật,
kỷ luật học đường v.v.. của không ít sinh viên.
Để có được những thế hệ sinh viên phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri
thức, sức khỏe, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; để
có được những kỹ sư xây dựng trong tương lai vừa có năng lực chuyên môn,
vừa có phẩm chất đạo đức cá nhân, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và phẩm
chất đạo đức xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đòi hỏi
chúng ta phải tìm ra các giải pháp khả thi nhằm phát huy tác động tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ngay từ
khi họ còn ngồi trên ghế nhà trường.
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC,
HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN
ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của
KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay
Một, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách; gắn kết
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách và trong suốt quá trình phát triển để có tác động tích cực đến đời sống đạo
đức sinh viên ngành xây dựng.
Hai, tăng cường sự quản lý của nhà nước, tạo hành lang pháp lý để ngăn
chặn sai phạm xây dựng trong điều kiện KTTT, làm định hướng trong việc giáo
dục đạo đức cho sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.

Ba, cần có cơ chế chính sách đãi ngộ và sử dụng nguồn nhân lực phù hợp
với yêu cầu và điều kiện của nền KTTT định hướng XHCN, nhằm tạo động lực,
niềm tin vào ngành nghề cho sinh viên ngành xây dựng.
4.2. Đổi mới chương trình đào tạo, hình thức giáo dục đạo đức nhằm
phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức
sinh viên ngành xây dựng hiện nay
Một, chương trình đào tạo cho sinh viên ngành xây dựng cần gắn với xu
hướng phát triển và yêu cầu thị trường lao động của ngành xây dựng trong điều
kiện KTTT, phát huy tối đa khả năng học tập sáng tạo, nâng cao nhận thức của
sinh viên về nghĩa vụ học tập, đạo đức nghề nghiệp.
Hai, hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên ngành xây
dựng cần phong phú, đa dạng, nhằm nâng cao lòng yêu ngành, yêu nghề và đạo
đức nghề cho sinh viên.
21


Tăng thời lượng thực hành và hình thức thực hành, thực tập để rèn luyện
kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp có hiệu quả thiết thực cho sinh vi n.
Đưa môn học đạo đức nghề nghiệp kỹ sư ngành ây dựng vào chương
trình giảng dạy như là một môn lý thuyết bắt buộc.
Nhà trường thường uy n tổ chức mời các chuy n gia có uy tín trong
ngành ây dựng nói chuyện chuy n đề về chuy n môn và đạo đức nghề nghiệp,
coi đây là một trong những hoạt động ngoại khóa y u cầu sinh vi n phải tham
gia, có đánh giá vào kết quả học tập.
Giáo d c pháp luật đi đôi với tăng cường kỷ luật học đường để ngăn chặn
những hành vi học tập gian dối, không trung thực của sinh vi n trong quá trình
học cũng như khi làm các đồ án các môn học.
4.3. Nâng cao vai trò của các chủ thể giáo dục nhằm phát huy tác động tích
cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây
dựng ở nước ta hiện nay

* Nhà nước cần có cơ chế chính sách đối với các doanh nghiệp xây dựng,
các tổ chức khoa học có uy tín tham gia vào quá trình đào tạo, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo và kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Bộ Xây dựng và các cơ quan chức năng cần dự báo nhân lực sát với nhu
cầu thị trường, định hướng nghề nghiệp hiệu quả, tạo điều kiện và cơ hội việc
làm cho sinh viên sau khi ra trường, từ đó giáo dục tinh thần học tập, lòng yêu
nghề, đam mê công việc mà sinh viên đã lựa chọn.
* Nhà trường cần nâng cao vai trò hơn nữa trong việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên dưới tác động của KTTT.
Một, nhằm hạn chế động cơ, tâm lý thực dụng do tác động của KTTT khi
lựa chọn ngành nghề kỹ sư xây dựng, nhà trường cần thực hiện hiệu quả công
tác hướng nghiệp.
Hai, nhằm giáo dục lòng yêu nước cũng như hạn chế sự tác động tiêu cực
của mặt trái của nền KTTT là tâm lý coi trọng giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị tinh
thần, ảnh hưởng đến lý tưởng niềm tin chính trị, nhà trường cần quan tâm và đẩy
mạnh hơn nữa đối với công tác giáo dục lý tưởng, niềm tin chính trị.
Ba, tạo nền tảng về đạo đức nghề nghiệp kỹ sư ngành xây dựng phụ thuộc
rất nhiều vào vai trò của các giảng viên chuyên ngành. Các trường phải có các
chính sách hỗ trợ và cấp học bổng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, cử giảng viên đi học
tập ở nước ngoài một số chuyên ngành mới. Ngoài ra, các trường có thể mời
những kỹ sư ngành xây dựng đã từng thi công các công trình xây dựng lớn về
giảng dạy cho sinh viên.
Bốn, nhằm khơi dậy tính tích cực, tự giác sáng tạo của sinh viên dưới tác
động tích cực của KTTT, nhà trường cần chú trọng và đẩy mạnh công tác nghiên
cứu khoa học của sinh viên.
* Các tổ chức xã hội nghề nghiệp xây dựng cũng có vai trò hết sức to
lớn trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, giúp cho sinh viên mới ra trường
tích lũy kinh nghiệm thực tế trong kỹ thuật xây dựng, tránh những sai phạm
nghề nghiệp sau này.
22



4.4. Nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện đạo
đức của sinh viên ngành xây dựng dưới sự tác động của kinh tế thị trường
Để trở thành một kỹ sư ngành xây dựng giỏi, có ích cho xã hội, nhất là
trong điều kiện của KTTT, sinh viên cần tự ý thức về quyền và nghĩa vụ của cá
nhân đối với xã hội. Hiện nay, có rất nhiều diễn đàn của kỹ sư ngành xây dựng,
sinh viên cần chủ động tham gia để tìm hiểu, khám phá thế giới nghề nghiệp của
mình. Việc tự giác đi học đầy đủ, đúng giờ, không ngừng học tập, tham gia các
hoạt động ngoại khóa dành cho sinh viên chuyên ngành xây dựng cũng là từng
bước hình thành giá trị năng lực hành nghề. Việc sinh viên chủ động tham gia
các hoạt động nghiên cứu khoa học, các sân chơi mang tính học thuật sẽ trang bị
cho sinh viên ngành xây dựng các kiến thức, kỹ năng nghiên cứu khoa học độc
lập để hỗ trợ cho hoạt động học tập và chuẩn bị cho các dự án thực tế sau khi tốt
nghiệp.
Tiểu kết chương 4
Việc giáo dục các chuẩn mực, tiêu chí đạo đức nghề nghiệp của người kỹ
sư ngành xây dựng là một việc làm rất quan trọng, không chỉ giúp cho người kỹ
sư hiểu rõ về khả năng của họ, mà còn giúp định hướng nghề nghiệp và tạo ra
những động lực tích cực cho người kỹ sư. Vì vậy, cần rất nhiều giải pháp có tính
đồng bộ của các chủ thể liên quan để hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tiêu
cực của nền KTTT đối với đạo đức người kỹ sư ngành xây dựng như: hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo hành lang pháp lý và
môi trường kinh tế xã hội lành mạnh; đổi mới chương trình, hình thức, phương
pháp giáo dục đạo đức; nâng cao vai trò của các chủ thể giáo dục và tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện đạo đức của sinh viên ngành
xây dựng. Thực hiện tốt các giải pháp này sẽ góp phần to lớn trong việc khắc
phục những hạn chế từ mặt trái của KTTT, phát huy mặt tích cực của chính nền
kinh tế đó đối với sự hình thành và phát triển những nhân cách sinh viên ngành
xây dựng một cách toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.


23


×