Phân tích hệ thống tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân. Bình luận
về tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân hiện hành.
A. MỞ ĐẦU
Dưới góc độ lí luận nhà nước và pháp luật, Quốc hội là cơ quan quyền lực
cao nhất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để thực hiện quyền
lực của mình, Quốc hội lập ra các cơ quan phái sinh, trong đó có Viện kiểm sát
nhân dân. Trải qua các thời kì, Viện Kiểm sát nhân dân có tên gọi, vị trí, chức
năng và hệ thống tổ chức khác khau phù hợp với các giai đoạn và bối cảnh lịch
sử. Xét về hệ thống tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân, so với một số
nước trên thế giới, tại Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân có hệ thống tổ chức bộ
máy khác đặc biệt. Trong bài tập này, sinh viên xin phân tích một số đặc trưng
trong hệ thống bộ máy của Viện kiểm sát. Đồng thời, đưa ra một số ý kiến đánh
giá, nhận xét đối với mô hình tổ chức này.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề chung về Viện kiểm sát nhân dân
1. Vị trí, vai trò
Viện Kiểm sát nhân dân là một trong các cơ quan được quy định trong
Hiến pháp (Điều 107 Hiến pháp 2013) thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân
1
Được thể hiện trong Điều 107 Hiến pháp 2013, Điều 2 Luật tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân 2014: “Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Trong đó, thực hành quyền công tố chính là đưa người phạm tội ra truy tố
trước pháp luật, thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội;
kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của các cơ quan, chủ thể trong hoạt động tư pháp.
3. Nguyên tắc hoạt động
Thứ nhất, tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Theo nguyên tắc
này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.
Thứ hai, kết hợp vai trò lãnh đạo của Viện trưởng với vai trò thảo luận,
quyết định một số vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của Ủy ban kiểm
sát. Ủy ban kiểm sát làm việc tập thể, thảo luận và quyết định theo đa số những
vấn đề quan trọng. Khi Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành
viên ủy ban kiểm sát thì vẫn thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có
quyền báo cáo lên cấp trên.
Thứ ba, nguyên tắc thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp, kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân.
II.
Hệ thống tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân được quy định cụ thể trong
Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành. Theo đó, bộ
máy của Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo mô hình của Tòa án, từ trung
ương đến địa phương, cụ thể:
2
1. Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Theo Khoản 2 Điều 42 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014, Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
các Kiểm sát viên và các Điều tra viên.
Cũng theo khoản 2 Điều 42 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 thì cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Ủy
ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; Các cục, vụ, viện và tương đương;
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công
lập khác; Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là người lãnh đạo thống nhất
toàn bộ hệ thống Viện kiểm sát nhân dân. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được quy định tại Điều 63 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Các Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Các Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng thực thi nhiệm vụ. Viện kiểm
sát nhân dân tối cao có tối đa không quá 05 Phó Viện trưởng, trường hợp đặc
biệt do yêu cầu điều động cán bộ của cơ quan có thẩm quyền thì Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc
tăng số lượng Phó Viện trưởng.
Theo Điều 43 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Ủy ban
kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; Các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Một số Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết
định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ủy ban kiểm
sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng theo khoản 2 Điều 43 Luật tổ chức Viện
3
kiểm sát nhân dân 2014. Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát
viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân
tối cao. Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại
khoản 2 Điều này. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số
thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện
theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự,
vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
2. VIện kiểm sát nhân dân cấp cao
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân cấp cao. Theo khoản 2, Điều 44, Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có Viện trưởng, các Phó
Viện Trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động
khác. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm: Ủy ban kiểm
sát, Văn phòng, các viện và tương đương.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm
kỳ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là 05 năm,
kể từ ngày được bổ nhiệm.
Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có: Viện trưởng; các
Phó Viện trưởng và một số Kiểm sát viên. Số lượng thành viên Ủy ban kiểm sát,
các Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định
theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao họp do Viện trưởng chủ
trì để thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng sau đây: Việc thực hiện
chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của Viện kiểm
4
sát nhân dân tối cao; Báo cáo tổng kết công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao; Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đủ điều
kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát
viên sơ cấp; Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ
nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung
cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại khoản
3 Điều 45, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. Nghị quyết của Ủy ban
kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp
biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu
Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì
thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự,
vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
3. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi tắt là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh) thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình. Theo Điều 46, Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có Viện
trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và
người lao động khác. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm:
Ủy ban kiểm sát, Văn phòng; các phòng và tương đương.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm
kỳ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là 05 năm,
kể từ ngày được bổ nhiệm.
5
Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có: Viện trưởng;
các Phó Viện trưởng và một số Kiểm sát viên. Số lượng thành viên Ủy ban kiểm
sát, các Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định
theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh họp do Viện trưởng chủ
trì để thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây: Việc thực hiện chương
trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao; Báo cáo tổng kết công tác với Viện kiểm sát nhân dân cấp
trên, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; Xét tuyển người đang
công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện đủ điều kiện dự thi
vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp;
Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại, miễn
nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên
sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền. Nghị
quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán
thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của
Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy
ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến
về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
4. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp trong phạm vi địa phương mình.
Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện được quy định tại
Điều 48 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, theo đó tổ chức bộ máy của
6
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có văn phòng và các phòng; những nơi
chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và bộ máy giúp
việc. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện được
quy định tại khoản 2 Điều 67 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014.
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ 05 năm
kể ngày được bổ nhiệm. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, theo sự phân công
hoặc ủy quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình; chịu trách
nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trước Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp mình và trước pháp luật.
5. Viện kiểm sát quân sự
Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được tổ
chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp trong quân đội. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự đều theo quy
định chung của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát quân sự gồm có Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện
kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Viện kiểm sát quân sự trung ương thuộc cơ cấu Viện kiểm sát nhân dân tối
cao. Viện kiểm sát quân sự trung ương có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Thủ trưởng, các Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác.
7
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương đồng thời là Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi
thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, lãnh đạo hoạt động của Viện kiểm sát
quân sự các cấp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có: Ủy ban
kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; Các phòng và tương đương. Ủy ban
kiểm sát Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có: Viện trưởng; các Phó Viện
trưởng và một số Kiểm sát viên.
Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương có Viện trưởng, các Phó
Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên
chức và người lao động khác.Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự quân
khu và tương đương gồm có: Ủy ban kiểm sát; Các ban và bộ máy giúp việc. Ủy
ban kiểm sát Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương gồm có: Viện
trưởng; các Phó Viện trưởng và một số Kiểm sát viên.
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự khu vực gồm có các bộ phận
công tác và bộ máy giúp việc. Viện kiểm sát quân sự khu vực có Viện trưởng,
các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức,
viên chức và người lao động khác.
Việc thành lập, giải thể Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương,
Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình Ủy ban thường vụ Quốc hội
quyết định.
III.
Bình luận hệ thống tổ chức mộ máy Viện kiểm sát nhân dân hiện
hành
8
Trải qua những sự thay đổi theo từng thời kì, hệ thống tổ chức viện kiểm
sát hiện hành đã có sự tiến bộ hơn, phù hợp với lí luận và thực tiễn. Cụ thể, sau
khi giành độc lập, theo Sắc lệnh số 33C và số 37 (1945) chỉ có Cơ quan công tố
được thành lập trong hệ thống Tòa án, mô hình giống với Viện công tố Pháp.
Đến năm 1959, theo Nghị định 256-TTg, (01/07/1959) Viện Công tố được tổ
chức thành một hệ thống cơ quan độc lập, tách khỏi tổ chức của Tòa án và quản
lý của Bộ Tư pháp, gồm có Viện Công tố Trung ương (được đặt trực thuộc Hội
đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ), Viện Công tố địa
phương các cấp và Viện Công tố quân sự các cấp.
Tại Hiến pháp 1959 là cơ sở để xây dựng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 1960, theo đó định danh Viện kiểm sát nhân dân thay cho Viện Công tố với
hệ thống tổ chức gồm có Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân
dân địa phương và các viện kiểm sát quân sự, trong đó, các Viện kiểm sát nhân
dân địa phương gồm có Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành
phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, Viện kiểm sát nhân
dân ở các khu tự trị.
Tiếp đó, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định hệ
thống Viện kiểm sát gồm:"Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự”. Như vậy, lúc này hệ thống cơ quan
viện kiểm sát đã thành lập các viện kiểm sát quân sự, đã phân rõ thẩm quyền của
các cơ quan giúp cho quá trình giải quyết các vụ án được thuận lợi, tránh có
nhầm lẫn, chồng chéo.
Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 "Viện
kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát
khác do Luật định”. Quy định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ
chức lại hệ thống Viện kiểm sát tương ứng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét
xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như
hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án. Đây là quy định "mở”
9
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc kiện
toàn bộ máy tổ chức và hoạt động, đặc biệt khi mô hình tổ chức bộ máy đang
được xây dựng trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, quy định này mang tính tùy
nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, việc
kiện toàn hệ thống Viện kiểm sát nhân dân sẽ được cụ thể hóa trong Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi, bổ sung sắp tới, trên cơ sở định hướng của
Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Định hướng đó được cụ thể hóa tại Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và Kết Luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị
về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan
Điều tra theo Nghị quyết 49, đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét
xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, đồng thời Viện kiểm sát được tổ
chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống Viện kiểm sát được
tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sẽ
được sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức Viện kiểm sát theo bốn cấp tương
ứng với bốn cấp của Tòa án, cụ thể là: Viện kiểm sát nhân dân sơ thẩm khu vực
(số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Tòa
án nhân dân khu vực); Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (số lượng và đại hạt tư pháp tương ứng
với số lượng và địa hạt tư pháp của Tòa án cấp cao);Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Bên cạnh đó, theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Uỷ ban
kiểm sát được tổ chức ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh. Đến Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Uỷ ban kiểm sát
được thành lập thêm ở Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Riêng đối với các vụ án, vụ việc, Uỷ ban kiểm sát chỉ có vai trò tư vấn theo đề
10
nghị của Viện trưởng. Việc thành lập Ủy ban kiểm sát là cần thiết, bảo đảm kết
hợp hài hòa giữa nguyên tắc “Tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước” với nguyên tắc “Tập trung thống nhất lãnh đạo trong
ngành Kiểm sát”. Quy định về vai trò của Ủy ban kiểm sát cũng đồng thời có tác
động tích cực, vừa phát huy được trí tuệ tập thể, vừa tạo được sự đồng thuận,
nhất trí cao trong việc quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt
động của ngành kiểm sát nhân dân.
Về cơ cấu tổ chức, trước đây Viện kiểm sát nhân dân có Viện trưởng, một
hoặc nhiều Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên. Đến nay, theo Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2014, có bổ sung thêm chức danh Kiểm tra viên được bổ
nhiệm để giúp Kiểm sát viên và thực hiện các nhiệm vụ do Viện trưởng phân
công. Kiểm tra viên là một chức danh trong ngành Kiểm sát nhân dân được công
nhận từ ngày 25/7/2005 thông qua Quyết định số 73/2005/QĐ-BNV của Bộ
trưởng Bộ Nội về việc ban hành chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ và mã số các
ngạch Kiểm tra viên ngành Kiểm sát. Nhưng phải đến khi Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 có quy định mà cụ thể là tại Điều 90 mới chỉ ra:
“Kiểm tra viên là chức danh tư pháp, được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật
để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân”. Về cơ bản, hoạt động Kiểm tra viên có thể khiến cho
công việc của Kiểm sát viên được thuận lợi hơn đồng thời hoạt động giúp việc
của Kiểm tra viên được toàn diện hơn. Kiểm tra viên được quy định cụ thể về
thẩm quyền trong Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Bộ luật chuyên ngành
nhưng điều đó khiến cho Kiểm tra viên được tham gia vào các hoạt động tố tụng
một cách đầy đủ và đảm bảo hơn trong một nên tố tụng ngày càng đòi hỏi nâng
cao về tất cả các mặt. Điều đó cũng đảm bảo pháp luật tố tụng được thực thi một
cách chặt chẽ, chính xác nhằm đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh
bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và qua đó sẽ giúp nâng cao được vị
thế của ngành Kiểm sát nhân dân dân trong hệ thống tư pháp.
11
Bên cạnh đó, việc lập các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đảm bảo sự kế
thừa ổn định về tổ chức, bộ máy hiện có, tính khả thi để thực hiện ngay các
nhiệm vụ quyền hạn khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có hiệu
lực vào 01/6/2015. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là cấp tổ chức thay cho Viện
kiểm sát phúc thẩm hiện nay, nhưng được mở rộng về chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các vụ án trong lĩnh vực hình sự,
hành chính, các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động. Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với
các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân
dân cấp tỉnh trong phạm vi địa hạt thuộc thẩm quyền.
Ngoài ra, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã kiện toàn cơ
cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện theo hướng tổ chức “Văn
phòng và các Phòng”. Việc thành lập các đơn vị cấp phòng tại Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện vừa tăng cường hiệu quả công tác quản lý, điều hành; đảm
bảo tính chuyên sâu, phù hợp với việc thành lập các toà chuyên trách của Toà án
nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, đối với các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
chưa đủ điều kiện thành lập phòng (ở miền núi, hải đảo, khối lượng công việc ít)
thì vẫn giữ nguyên mô hình các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc như hiện
nay. Cách tổ chức như vậy vừa linh hoạt, vừa phù hợp với thực tiễn thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của từng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Đặc biệt, từ
năm 1994, tổ chức bộ máy thi hành án ở Viện kiểm sát các cấp có sự thay đổi
quan trọng, đó là thành lập Vụ kiểm sát thi hành án ở Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và 25 phòng kiểm sát thi hành án ở các viện kiểm sát địa phương
Một vấn đề khác là hiện nay, theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020
đã định hướng cho việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát như sau:
12
“Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được
tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Nghiên cứu việc chuyển viện
kiểm sát thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt
động điều tra.”
Trước năm 1960 nước ta cũng đã nghiên cứu thành lập Viện công tố, khi
đó Viện công tố cũng thực hiện hai chức năng - đó là chức năng thực hành
quyền công tố và chức năng giám sát hoạt động tư pháp như ngoài nhiệm vụ
điều tra, truy tố trước Toà án, Viện công tố còn được giao nhiệm vụ giám sát
việc chấp hành luật pháp trong lĩnh vực tư pháp (như xét xử, thi hành án, giam
giữ - cải tạo…). Việc Viện công tố nước ta được thành lập vào trước năm 1960
thể hiện nhiều được sự hợp lý là thừa nhận Viện công tố thực hiện hai chức năng
- đó là chức năng thực hành quyền công tố và chức năng giám sát hoạt động tư
pháp. Đồng thời thể hiện một cách sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong việc vận dụng mô hình Viện kiểm sát (hoặc Viện công tố) của các nước
tiến bộ trên thế giới vào thực tiễn nước ta từ những năm đầu tiên của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, cần phải được tiếp thu kế thừa và hoàn chỉnh cho
phù hợp tình hình nước ta hiện nay.
Tuy nhiên bây giờ, với bối cảnh hiện tại, nhóm chúng em cho rằng chuyển
Viện kiểm sát thành Viện công tố là không hợp lý vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp là một loại hoạt động thực hiện quyền lực
nhà nước đánh giá những hành vi con người, các phán quyết có ảnh hưởng trực
tiếp đến những quyền quan trọng nhất của con người, công dân. Có thể thấy
được những sai sót, vi phạm trong hoạt động tư pháp luôn có khả năng dẫn đến
những thiệt hại. Do vậy, hoạt động tư pháp phải chịu sự kiểm tra, giám sát của
nhiều cơ chế khác nhau bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong hệ thống và cơ
chế giám sát từ bên ngoài hệ thống, đặc biệt, phải thiết lập cho được cơ chế giám
sát trực tiếp, thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Cơ chế đó hiện nay
chính là hoạt động của Viện kiểm sát vì Viện kiểm sát có bộ máy từ trung ương
13
đến địa phương, tổ chức phù hợp với hệ thống Toà án, Cơ quan điều tra, Cơ
quan thi hành án các cấp tiến hành kiểm sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan
Tòa an, cơ quan điều tra, cơ quant hi hành án. Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát đã đạt được những kết quả rất quan trọng, mỗi năm,
Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện và ban hành hàng nghìn kiến nghị, kháng
nghị yêu cầu các cơ quan tư pháp khắc phục vi phạm, được thực tiễn kiểm
nghiệm và chứng minh là cơ chế giám sát tư pháp hữu hiệu.
Thứ hai, nghiên cứu xu hướng cải cách Viện Công tố trên thế giới thì
thấy, các nước ngày càng có xu hướng tăng cường sự độc lập cho Viện Công tố
và mở rộng phạm vi lĩnh vực hoạt động của Viện Công tố ra ngoài lĩnh vực hoạt
động truyền thống là truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Viện kiểm sát của
Việt Nam hiện nay là một cơ quan độc có chức năng nhiệm vụ rõ ràng, nếu như
chuyển thành Viện công tố thì cơ này sẽ nằm ở vị trí nào trong bộ máy nhà
nước, đây là một câu hỏi khó cần được suy nghĩ cẩn thận bởi những nhà làm
luật.
Thứ ba, Theo dõi quá trình cải cách Viện kiểm sát ở các nước thời gian
qua, nhất là ở Nga và một số nước XHCN cũ ở Đông Âu thì thấy, mặc dù các
nước này có sự thay đổi về thể chế chính trị, song phần lớn vẫn giữ mô hình
Viện kiểm sát với hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật (Nga, Hungari, Bungari,Ucraina.v.v.), thậm chí có nước còn
giao cho Viện kiểm sát nhiều thẩm quyền để thực hiện hiệu lực, hiệu quả hai
chức năng này. Hiện tại Viện kiểm sát tại Việt Nam cũng có hai chức năng chính
như thế này, nếu như mất đi chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát thì liệu cơ quan nào có thể đảm nhiệm chức năng này?. Có thể sẽ giao
chức năng này cho Thanh tra Chính phủ nhưng nhận thấy sẽ không thực sự
khách quan bởi Thanh tra Chính phủ mà đi kiểm sát các hoạt động tư pháp thì có
thể vô tư được hay không. Đó là thực sự một vấn đề lớn.
Xét thấy, thẩm quyền viện kiểm sát nhân dân xuất phát từ bản chất của
Nhà nước và yêu cầu quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, từ đó đặt ra chức năng,
14
nhiệm vụ và vị trí, vai trò của từng cơ quan Nhà nước đó trong bộ máy Nhà
nước. Nghiên cứu nguyên lý chung của việc hình thành và phát triển cơ quan
Viện kiểm sát cũng đều xuất phát từ bản chất của Nhà nước và tuỳ theo đặc
điểm truyền thống mỗi quốc gia mà có tên gọi là Viện kiểm sát (hay Viện công
tố) nhưng bản chất pháp lý về chức năng, nhiệm vụ vẫn là: “Thực hành quyền
công tố, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án để xét xử và thực
hiện việc buộc tội tại phiên toà” và giám sát việc tuân thủ luật pháp ở một số
lĩnh vực nhất định do pháp luật quy định để đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả của
cơ quan này, cụ thể như trong tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát tham gia với tư
cách như một bên tham gia tố tụng hoặc tiến hành tố tụng để bảo vệ cho lợi ích
chung, lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, pháp chế.
Vậy thì theo tinh thần của nghị quyết số 49-NQ/TW việc” chuyển viện kiểm sát
thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố” liệu có phù hợp?
C. KẾT LUẬN
Theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, kết luận của Bộ Chính trị và Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI theo hướng Viện kiểm sát tiếp tục thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp và duy trì
mô hình Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước
như hiện nay. Để tiếp tục thực hiện đầy đủ, có hiệu quả nhằm đáp ứng chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, trong thời gian tới, cần
tiếp tục phát huy những tinh thần phù hợp của hệ thống tổ chức bộ máy Viện
kiểm sát nhân dân, đồng thời, khắc phục những vướng mắc, thiếu sót còn tồn
đọng nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát. Góp phần lớn trong thành công của chiến lược cải cách tư pháp
trong giai đoạn này.
15
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
B. NỘI DUNG....................................................................................................1
I. Một số vấn đề chung về Viện kiểm sát nhân dân....................................1
1. Vị trí, vai trò............................................................................................1
2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân.............................2
3. Nguyên tắc hoạt động.............................................................................2
II.
Hệ thống tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay........2
1. Viện kiểm sát nhân dân tối cao..............................................................3
2. VIện kiểm sát nhân dân cấp cao............................................................4
3. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương5
4. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh..................................................................................................................6
5. Viện kiểm sát quân sự.............................................................................7
III. Bình luận hệ thống tổ chức mộ máy Viện kiểm sát nhân dân hiện
hành 9
C. KẾT LUẬN..................................................................................................15
16