Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN CHINH

ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI LỐI SỐNG
CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN CHINH

ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI LỐI SỐNG
CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn

Hà Nội – 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Bùi Hoài Sơn.
Các số liệu, những đánh giá, phân tích, nhận xét, nghiên cứu được trình
bày trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và khách quan, chưa từng được
công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

LỜI CẢM ƠN


Tôi sẽ không thể nào tự mình hoàn thành được luận văn thạc sĩ một cách
hoàn chỉnh nếu như không có sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô, sự giúp đỡ
và hỗ trợ hết mình của bạn bè, đồng nghiệp.
Thành quả này, tôi xin phép được gửi lời biết ơn chân thành tới PGS.TS
Bùi Hoài Sơn, người thầy đáng kính đã luôn động viên, khuyến khích và tạo mọi
điều kiện để tôi hoàn thành luận văn. Trong quá trình thực hiện, dù tôi có nhiều
hạn chế nhưng thầy vẫn luôn kiên nhẫn, chỉ bảo giúp tôi có thêm động lực để đi
đến cùng con đường nghiên cứu của mình.
Tiếp đến, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa Báo chí và
Truyền thông – Trường Đại học KHXH&NV (Đại học Quốc gia Hà Nội). Các thầy
cô đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thứ nữa, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Trần Thị Việt Trung, anh Lê
Quốc Minh – TBT báo điện tử Vietnamplus, anh Trần Duy Khánh – phóng viên
báo điện tử Vietnamnet, chị Nguyễn Thị Quỳnh Trang – nhà báo, phóng viên báo
điện tử VnExpress, Thạc sĩ Nguyễn Xuân Miên – giảng viên Trường Cao đẳng
PT-TH 1 đã giúp tôi hoàn thành phỏng vấn sâu làm tư liệu viết luận văn. Lời cảm

ơn này cũng xin được gửi tới các bạn sinh viên Trường Cao đẳng PT-TH 1,
Trường Đại học KHXH&NV (Đại học QGHN), cùng bạn bè đang công tác và
học tập tại Đà Nẵng, TP.HCM đã giúp tôi hoàn thành bảng khảo sát để lấy số liệu
viết luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các anh/chị, các bạn đồng nghiệp và
gia đình đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 5
1. Lý do lựa chọn đề tài.........................................................................................5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.........................................................8
2.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên thế giới.............................8
2.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài tại Việt Nam............................9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................11
3.1. Mục đích nghiên cứu................................................................................11
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................12
4.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................12
4.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................14
5.1. Cơ sở lý luận............................................................................................14
Luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận:................................................................14
5.2. Phương pháp cụ thể..................................................................................14
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài............................................................16
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài.........................................................................16
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài......................................................................16

7. Kết cấu của luận văn...................................................................................16
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ BÁO ĐIỆN TỬ Ở
VIỆT NAM............................................................................................................17
1.1. Một số khái niệm công cụ liên quan đến luận văn........................................17
1.1.1. Khái niệm báo điện tử...........................................................................17
1.1.2. Khái niệm giới trẻ.................................................................................19
1.1.3. Khái niệm lối sống................................................................................21
1.2. Quan điểm lý thuyết trong nghiên cứu về ảnh hưởng của báo điện tử đối với
lối sống của giới trẻ ở Việt Nam hiện nay...........................................................25

1


1.3. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của báo điện tử ở Việt Nam....29
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển.........................................................29
1.3.2. Sự khác biệt giữa báo điện tử và trang thông tin điện tử.......................30
1.3.3. Đặc điểm của báo điện tử......................................................................33
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1........................................................................................37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI
LỐI SỐNG CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................38
2.1. Giới thiệu về các tờ báo trong diện khảo sát.................................................38
2.1.1. Báo điện tử Vietnamnet.........................................................................38
2.2.2. Báo điện tử VnExpress..........................................................................39
2.2.3. Báo điện tử Dân trí................................................................................41
2.2.4. Báo điện tử Tuổi Trẻ Online..................................................................43
2.2.5. Báo điện tử Thanhnien.vn.....................................................................44
2.2. Thực trạng sử dụng báo điện tử trong giới trẻ hiện nay................................47
2.2.1. Mục đích sử dụng báo điện tử...............................................................47
2.2.2. Địa điểm và phương tiện sử dụng báo điện tử.......................................48
2.2.3. Thời gian sử dụng báo điện tử...............................................................50

2.3. Nhận diện và đánh giá tác động của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ
hiện nay............................................................................................................... 52
2.3.1. Nhận diện tác động của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ..........52
2.3.2. Đánh giá tác động của báo điện tử đến lối sống của giới trẻ...................67
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2........................................................................................75
CHƯƠNG 3: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ TÍCH CỰC CỦA BÁO ĐIỆN TỬ TRONG VIỆC XÂY DỰNG LỐI
SỐNG CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................76
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát huy vai trò của báo điện tử trong
việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói chung, giới trẻ nói
riêng.................................................................................................................... 76

2


3.2. Xu hướng phát triển và tác động của báo điện tử đến lối sống của giới trẻ
trong tương lai.....................................................................................................81
3.3. Giải pháp phát huy vai trò của báo điện tử trong việc xây dựng lối sống của
giới trẻ hiện nay...................................................................................................86
3.3.1. Giải pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để nâng cao
nhận thức của giới trẻ khi đọc báo điện tử......................................................86
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về
báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng......................................................90
3.3.3. Một số giải pháp cụ thể khác.................................................................96
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3......................................................................................100
KẾT LUẬN..........................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................103
PHỤ LỤC.............................................................................................................110

3



DANH MỤC VIẾT TẮT

BTV

Biên tập viên

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

KHXH&NV

Khoa học Xã hội và Nhân văn

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

MXH

Mạng xã hội

Nxb


Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sĩ

PT-TH

Phát thanh - Truyền hình

PTTT

Phương tiện truyền thông

TBT

Tổng Biên tập

Ths.

Thạc sĩ

XHCN

Xã hội Chủ nghĩa

4


MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Báo điện tử là một loại hình báo chí non trẻ, ra đời sau loại hình báo in, báo
phát thanh và báo hình nhưng sự ảnh hưởng cũng như phát triển của báo điện tử
trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay thì không một loại hình báo chí nào
sánh bằng. Ngoài những đặc trưng riêng, báo điện tử còn mang những vai trò của
báo chí nói chung trong xã hội như: Là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư
luận; Là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức thông tin về tình hình thời sự trong nước
và quốc tế cho nhân dân; Là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách
xã hội; Là một định chế với những quy tắc và chuẩn mực riêng của mình và có
những quan hệ mật thiết với các định chế khác trong xã hội; Là một bộ phận hữu cơ
không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của mọi cá nhân, là phương tiện cung cấp
thông tin, kiến thức và giải trí cho người dân.
Chính những vai trò trên đã làm cho báo điện tử có sự ảnh hưởng vô cùng lớn
đối với người dân nói chung, đặc biệt là giới trẻ. Đây là những người thường xuyên
tiếp cận với internet nói chung và báo điện tử nói riêng do đặc thù về điều kiện
sống, công việc, nhận thức và hành vi.
Theo báo cáo về tình hình internet tại khu vực Đông Nam Á tính đến cuối
tháng 7/2013 của hãng nghiên cứu thị trường comScore, với 16,1 triệu người dùng
internet hàng tháng, Việt Nam là quốc gia có dân số trực tuyến lớn nhất tại khu vực
ASEAN.
Cũng theo thống kê của comScore, Việt Nam còn là quốc gia có lượng người
dùng internet ở độ tuổi trẻ nhất khu vực, với 42% người sử dụng ở độ tuổi 15 – 24,
độ tuổi người dùng internet từ 25 đến 34 chiếm 32%. Theo Trung tâm internet Việt
Nam (VNNIC), người dùng internet ở nước ta nhìn chung có trình độ học vấn tương
đối khá, là học sinh, sinh viên, trí thức, công chức, viên chức. Khi ngồi trước máy
tính, người đọc thường có nhu cầu học tập, tìm kiếm thông tin bổ ích qua các báo,
tạp chí và trang thông tin điện tử chính thống trong nước và các tờ báo điện tử và
các trang mạng xã hội (MXH), các trang web nước ngoài.

5



Giới trẻ luôn là một trong những nhóm công chúng đích của truyền thông đại
chúng. Ngày nay, sự phát triển của khoa học công nghệ và sự ra đời của các sản
phẩm công nghệ số đã giúp cho báo điện tử dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với giới
trẻ. Với sự phong phú, đa dạng về mặt thông tin trong mọi lĩnh vực từ chính trị, xã
hội, kinh tế, văn hóa, giải trí, thể thao, công nghệ… các báo điện tử đã thu hút hàng
triệu lượt truy cập mỗi ngày. Với sức lan tỏa nhanh của báo điện tử, mọi thông tin từ
các ngõ ngách đời sống, xã hội đều được truyền tải tới bạn đọc từng giây, từng phút.
Chính vì thế, báo điện tử có những tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới sự phát triển trí
tuệ, hình thành nhân sinh quan, thế giới quan và bồi đắp tình cảm nhân văn cho giới
trẻ.
Với thế giới của báo điện tử, giới trẻ được sống trong nhịp đập nóng hổi của
thời đại, quốc gia, cộng đồng. Thông qua báo điện tử, giới trẻ có cái nhìn tích cực
hơn, quan tâm hơn và những phản ứng kịp thời với những sự kiện chính trị - kinh tế
- văn hóa – xã hội của thế giới, của đất nước và của địa phương nơi mình đang
sống. Báo điện tử nói riêng và báo chí nói chung có sức mạnh tập hợp sự quan tâm
của cộng đồng vô cùng to lớn.
Đặc trưng nổi bật của báo điện tử chính là ở sự đa dạng, phong phú, cập nhật
thông tin một cách nhanh chóng, chân thực nên giới trẻ cũng tìm thấy cho mình
được nguồn tri thức hữu ích, rèn luyện kỹ năng sống của mình mà không phải bất
cứ cuốn sách nào, người thầy nào có thể đáp ứng được. Một số những trang báo
chuyên ngành còn có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động trao đổi, nghiên
cứu thông tin khoa học của giới trẻ. Chính báo chí nói chung và đặc biệt là báo điện
tử nói riêng đã tạo nên một thế hệ “công dân toàn cầu” (Global citizen) ở Việt Nam.
Tuy nhiên, tuổi trẻ thì có sự thông minh, nhanh nhạy trọng việc nắm bắt và
cập nhật công nghệ thông tin nhưng lại thiếu kinh nghiệm sống, yếu khả năng giữ
vững lập trường và chưa đủ tinh tế để nhận biết những thông tin thiếu chính thống.
Bởi vậy, sự nhanh nhạy, chân thực một cách không sàng lọc với thông tin của báo
điện tử rất dễ khiến giới trẻ như “lạc lối” nếu không được định hướng, giáo dục.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thực tiễn, chịu sự tác động không nhỏ của

6


kinh tế thị trường và sức ép từ doanh số, báo điện tử đang dần xuất hiện những
dấu hiệu tiêu cực trong việc đưa tin, làm ảnh hưởng tới lối sống, suy nghĩ và hành
vi của giới trẻ.
Tháng 12/2010, một nhóm thiếu niên ở TP Vinh (Nghệ An) bị bắt vì hành vi
phá máy ATM để trộm tiền. Nguyên nhân là những em này đã học lỏm phương
pháp phá máy ATM để trộm tiền được miêu tả rất tỉ mỉ trên các tờ báo. Sự việc cho
thấy mặt trái của thông tin báo chí đối với giới trẻ.
Bên cạnh những tờ báo nghiêm túc, có không ít tờ báo thu hút độc giả bằng
những bài báo có nhan đề giật gân, nội dung khai thác những đề tài kịch tính, thị
hiếu tầm thường, dục vọng thấp kém của con người. Những bạn trẻ không có bản
lĩnh, thiếu nền tảng tri thức và nhân cách sẽ dễ dàng bị lôi cuốn bởi những bài báo
có tính giải trí rẻ tiền, vô bổ và thậm chí là độc hại. Nhiều nhà báo đã phải tâm sự,
đôi khi những bài báo công phu, tâm đắc nhất của họ về một đề tài thời sự nóng hổi
thì lượng người đọc không đáng kể, trong khi đó, một thông tin dạng “chó cắn xe”
lại trở thành tin nhiều người đọc nhất.
Việc các ngôi sao, người mẫu, diễn viên thường xuyên xuất hiện với tần suất
dày đặc bằng các chiêu trò lố lăng dễ khiến giới trẻ bị ngộ nhận đó là những giá trị
thời thượng được xã hội tôn vinh, kích thích giới trẻ học đòi theo những điều phù
phiếm, sao nhãng và coi nhẹ giá trị chân chính của cuộc sống. Không ít bạn trẻ bị
ảnh hưởng cách sử dụng ngôn ngữ thiếu trong sáng, thiếu chính xác, lạm dụng tiếng
nước ngoài trên báo chí.
Sự ảnh hưởng, tác động của báo điện tử đối với thế hệ trẻ là một vấn đề rất lớn
nhưng lại chưa được quan tâm đúng mực. Đến nay cũng chưa có bất cứ công trình
nghiên cứu công phu, nghiêm túc nào về nhu cầu, thị hiếu cũng như những ảnh
hưởng của báo điện tử đối với việc hình thành lối sống của giới trẻ. Lãnh đạo của

các tòa soạn cũng chưa nhận thức hết vai trò của báo điện tử trong việc ảnh hưởng
tới lối sống của giới trẻ; các phóng viên, BTV cũng chưa làm tốt chức năng, nhiệm
vụ và đạo đức trong quá trình sáng tạo tác phẩm.
Nhận thức rõ tầm quan trọng về sự ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống
của giới trẻ, trong khả năng hữu hạn của bản thân, tác giả đã lựa chọn đề tài “Ảnh

7


hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay” làm đề tài
cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên thế giới
Sự phát triển của báo điện tử gắn liền với sự bùng nổ mạnh mẽ của mạng
internet và các PTTT khác. Tất cả đều có sự ảnh hưởng nhất định đối với người dân
nói chung và đặc biệt là người trẻ hoặc trẻ em nói riêng. Trong cuốn sách “Bùng nổ
truyền thông – Sự ra đời một ý thức hệ mới” của hai tác giả Philippe Breton và
Serge Proulx đã khẳng định, sự ra đời của điện tử học và sự phát triển của khoa học
công nghệ đã có tác động mạnh mẽ đối với hệ thống truyền thông (hệ thống các
media). Nhờ đó mà các media trở nên dễ dàng hơn trong việc tiếp cận công chúng,
đồng thời dễ dàng làm ảnh hưởng tới tư tưởng, nhận thức của công chúng. Bởi vậy,
tùy thuộc vào nền văn hóa khác nhau, thể chế chính trị khác nhau mà hệ thống
media được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tiêu chí hoạt động của từng tổ
chức, cá nhân sử dụng.
Bài viết “Study Shows How internet Use Affects Today’s Youth” của tác giả
Michael Harper đăng trên cho thấy: các thanh thiếu niên
ngày nay đang tích cực sử dụng internet thông qua các thiết bị thông tin hiện đại
trong cuộc sống của mình. Bên cạnh việc cung cấp một lượng thông tin phong phú,
internet cũng mang lại sự lạc hướng về thông tin đối với giới trẻ. Điều này cho thấy,
internet nói chung và loại hình báo điện tử nói riêng đã có ảnh hưởng nhất định đối

với giới trẻ.
Ngoài ra còn có thể kể tới một số công trình nghiên cứu, bài viết khác về sự
ảnh hưởng của internet, của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với lối
sống, hành vi của giới trẻ. Đơn cử như: “The Impact of Social Media on Children,
Adolescents, and Families” (Tạm dịch: Ảnh hưởng của mạng xã hội đối với trẻ em,
thanh thiếu niên và gia đình) của hai tác giả Gwenn Schurgin O'Keeffe, Kathleen
Clarke-Pearson (đăng trên đã phân tích về
thực trạng sử dụng MXH của thanh thiếu niên Mỹ; “Impact of media use on

8


children and youth” (Tạm dịch: “Tác động của việc sử dụng phương tiện truyền
thông

đối

với

trẻ

em



thanh

thiếu

niên)


được

đăng

trên

đã có những phân tích sâu sắc về sự ảnh hưởng của
các PTTT đại chúng như: tivi, trò chơi điện tử, video âm nhạc, Internet… đối với trẻ
em và thanh thiếu niên; “Effects of Media on Teens: A Look at the Research” (Tạm
dịch: Ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đối với giới trẻ: Một góc nhìn
nghiên cứu) của hai tác giả Alison Burkhardt và Daniel White Hodge đăng trên
website của trường Đại học North Park ngày 01/05/2012, trong đó đã chỉ ra rằng,
PTTT đại chúng đã đưa ra những “chỉ số” để những người trẻ định hình cái gì là
“bình thường” và “không bình thường”, củng cố kiến thức, giúp họ nhận thức rõ về
bản thân và những người xung quanh mình.
2.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài tại Việt Nam
Tuy ra đời muộn hơn so với các loại hình báo chí khác nhưng báo điện tử lại
nhanh chóng có được chỗ đứng nhất định, vững vàng trong lòng bạn đọc. Trải qua
gần 20 năm hình thành và phát triển, báo điện tử đã có những đóng góp to lớn cho
sự phát triển của báo chí nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Bởi vậy, báo điện
tử đã trở thành đề tài nghiên cứu của rất nhiều người từ học sinh – sinh viên cho đến
các cử nhân, thạc sĩ, nghiên cứu sinh hay các nhà nghiên cứu, các phóng viên,
BTV…
Trước hết, về mặt lý luận và những vấn đề cơ bản của báo điện tử như: sự ra
đời và phát triển của báo điện tử, khái niệm và đặc trưng của báo điện tử, phương
thức sáng tạo tác phẩm báo điện tử… phải kể đến các cuốn sách tiêu biểu như:“Báo
mạng điện tử những vấn đề cơ bản” – TS. Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên
(Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội – 2011); “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo”
– TS. Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội –

2011); “Báo mạng điện tử - Đặc trưng và phương pháp sáng tạo” – TS. Nguyễn Trí
Nhiệm, TS. Nguyễn Thị Trường Giang đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội – 2014); “Các thủ thuật làm báo điện tử” do Vũ Kim Hải, Đinh Thuận
biên soạn.

9


Trong cuốn sách “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện
đại” – TS Nguyễn Thành Lợi, Nxb Thông tin và Truyền thông, tháng 06/2014 đã
giới thiệu những nét khái quát nhất về các vấn đề khá mới mẻ đang được nghiên
cứu rộng rãi trên thế giới nhiều năm – nhiều thập kỷ qua như: truyền thông xã hội,
các lý thuyết về truyền thông, hội tụ truyền thông, xu hướng tòa soạn báo hội tụ và
những kỹ năng cần thiết trong viết báo đa phương tiện. Cuốn sách đã khẳng định
tầm quan trọng của internet và các thiết bị truyền thông hiện đại đối với báo chí.
Trong cuốn “Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa xã hội
ở Việt Nam” – Bùi Hoài Sơn, Nxb Khoa học Xã hội năm 2008 đã khẳng định: “Dù
biết rằng, công nghệ luôn luôn là công nghệ, nó không hoàn toàn tốt cũng không
hoàn toàn xấu, mà chỉ giúp con người trở nên thuận tiện hơn trong cuộc sống hàng
ngày, tuy nhiên, các phương tiện truyền thông mới đã khiến nhân loại lo lắng về
một khả năng con người trở thành nạn nhân của máy móc”. Hay trong cuốn “Ảnh
hưởng của internet đối với hành vi của thanh niên Hà Nội”, Nxb Khoa học Xã hội
(2006), tác giả trên có viết: “Trên thực tế, đối với bất kỳ một công nghệ mới nào,
bản chất của công nghệ đều mang tính trung tính. Việc con người sử dụng nó trong
những hoàn cảnh cụ thể và vì những mục đích cụ thể sẽ quyết định nó có lợi hay có
hại đối với bản thân người sử dụng hay lợi ích của toàn bộ xã hội”. Tuy nhiên, cả
hai tài liệu nghiên cứu này mới chỉ đề cập tới sự ảnh hưởng của mạng internet mà
vẫn chưa nói tới báo điện tử hay báo chí đối với lối sống của giới trẻ.
Trong các đề tài nghiên cứu khóa luận, luận văn và luận án tiến sĩ tại Khoa
Báo chí và Truyền thông – Đại học KHXH&NV cũng đã đề cập tới sự ảnh hưởng

của báo chí đối với giới trẻ ở Việt Nam. Cụ thể: “Báo chí với quá trình hình thành
nhân cách của học sinh - sinh viên” (Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của
Lại Thị Hải Bình, năm 2006) có chỉ ra rằng, báo chí với chức năng và vai trò định
hướng dư luận xã hội đã có sự tác động tới quá trình hình thành nhân cách của học
sinh – sinh viên, nhất là đối với các loại hình báo chí hiện đại.
“Báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên” (Luận văn thạc sĩ Truyền
thông đại chúng của Trương Thị Tuyên, năm 2008) đã trình bày cơ sở lý luận của

10


báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên, mối quan hệ giữa báo chí và sinh
viên. Tìm hiểu thực trạng báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên qua hệ
thống báo chí cho sinh viên; nội dung chuyển tải và hình thức thể hiện của của hệ
thống báo chí cho sinh viên.
“Công chúng thế hệ Net với các phương tiện truyền thông đại chúng” (Luận
văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Hoàng Thị Thu Hà, năm 2011) đã chỉ ra
được sự ảnh hưởng của các PTTT hiện đại đối với thế hệ trẻ, những người có khả
năng tiếp thu công nghệ nhanh chóng.
Tuy nhiên, trong các đề tài trên, báo điện tử đóng vai trò như một trong những
PTTT nên luận văn không chỉ ra chi tiết, cũng không có những thông tin mang tính
chất nghiên cứu chuyên về loại hình này đối với giới trẻ hiện nay.
Tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về
báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng, trong đó cũng có nói tới sự ảnh hưởng
của chúng đối với người trẻ. Đơn cử: “Thực trạng tiếp nhận báo mạng điện tử của
học sinh phổ thông trung học ở nội thành Hà Nội hiện nay” – Luận văn Thạc sĩ của
Phạm Duy Đức, năm 2013; “Báo mạng điện tử đối với việc phát triển hỗ trợ kỹ
năng mềm cho sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh” – Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn
Thị Minh Châu, năm 2014; “Tương tác giữa tòa soạn và công chúng báo mạng
điện tử (Khảo sát báo Vietnamnet.vn, VnExpress.net và Tuoitre.com.vn từ 01/2006

đến 01/2011) – Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Hoàng Quỳnh Hương… Tuy có đề
cập tới các vấn đề cơ bản nhất của báo điện tử và giới trẻ nhưng những luận văn này
chưa tập trung đề cập tới sự ảnh hưởng của loại hình này tới lối sống của giới trẻ
Việt Nam hiện nay.
Trong khả năng giới hạn của mình, tác giả luận văn đã cố gắng đọc và tìm hiểu
về các tài liệu nghiên cứu trên, coi đó là những kiến thức bổ sung để làm sáng tỏ
những ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ các lý thuyết về báo điện
tử, nêu bật lên mối quan hệ của loại hình báo chí này đối với lối sống của giới trẻ

11


đặt dưới góc độ báo chí. Trên cơ sở khảo sát các tờ báo điện tử:
/> (để ngắn gọn, tác giả sẽ gọi tên các báo điện tử trên lần lượt là:
VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online) trong thời
gian 6 tháng, luận văn sẽ chỉ ra thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối
sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay; đánh giá về vai trò và đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng ảnh hưởng của báo điện tử đối với giới trẻ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn đã thực hiện những
nhiệm vụ như sau:
- Làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận liên quan đến đề tài như: khái niệm về
báo điện tử, khái niệm về ảnh hưởng, khái niệm về giới trẻ, khái niệm về lối sống; nội
dung về sự ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ; đồng thời phân
tích những ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay.
- Khảo sát thực trạng sử dụng và ảnh hưởng của thông tin trên các tờ báo điện
tử: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online. Từ đó

đưa ra những nhận xét, phân tích, đánh giá về ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối
sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
- Thông qua kết quả khảo sát thực tế và những nghiên cứu chuyên sâu, luận
văn sẽ đề xuất những giải pháp cho tòa soạn báo điện tử nhằm nâng cao chất lượng
thông tin, nâng cao mức ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ
hiện nay, góp phần vào việc định hướng lối sống tích cực cho giới trẻ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu chính là những tác động tích cực và
tiêu cực của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Tác giả tiến hành khảo sát nội dung tin, bài và phản hồi
trên các tờ báo điện tử: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh
niên Online. Lý do tác giả luận văn lựa chọn các báo này là bởi: Đối với ba trang

12


báo VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet đều là những báo điện tử lớn, chính thống, có
lượng độc giả đông đảo bao gồm cả độc giả trẻ ở cả trong nước và nước ngoài. Đây
cũng là những báo có hàm lượng thông tin cao, thông tin có tính xác thực, uy tín và
đáng tin cậy.
Đối với các báo Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online, luận văn tiến hành khảo
sát là bởi đây là hai phiên bản điện tử hoàn hảo, tin cậy của báo in Tuổi Trẻ và
Thanh Niên. Cả hai báo đều có cơ quan chủ quản lần lượt là Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, cơ quan có liên quan trực tiếp đến
người trẻ.
Như vậy, với sự lựa chọn gồm cả báo điện tử chính thống, phiên bản điện tử hoàn
hảo của báo in, luận văn đã có sự đa dạng trong việc lựa chọn đối tượng khảo sát.
- Về mặt thời gian: Luận văn tiến hành khảo sát trên các báo điện tử VnExpress,

Vietnamnet, Dân Trí, Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online từ 01/01/2016 –
30/06/2016. Dù thời gian khảo sát không dài nhưng với số lượng tin bài thường
xuyên cập nhật lớn cũng giúp cho người thực hiện luận văn có cái nhìn toàn diện về
sự tác động của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Tác giả cũng tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi với những bạn trẻ có độ tuổi từ
15 – 28 tuổi, làm việc ở các lĩnh vực khác nhau như: học sinh – sinh viên, kinh
doanh – buôn bán, nhân viên văn phòng,… để làm rõ sự khác biệt trong sở thích
tiếp cận thông tin, nhận thức, hành vi của họ sau khi tiếp nhận thông tin. Từ đó đi
sâu vào nghiên cứu sự tác động của báo điện tử đối với giới trẻ.
Trong khả năng giới hạn của mình, cũng như điều kiện thời gian và kinh phí
không cho phép, tác giả tập trung khảo sát giới trẻ sinh sống chủ yếu ở thành phố
lớn là Hà Nội. Sở dĩ như vậy là bởi, đây là thành phố hiện đại và phát triển bậc nhất
cả nước, tập trung đông đảo lực lượng lao động đến từ nhiều tỉnh thành. Đây cũng
được coi là cái nôi của văn hóa, có nhịp sống sôi động, trẻ trung và thường xuyên
đổi mới.
Mặc dù công nghệ và internet giờ đã trở nên phổ biến, cập nhật đến từng ngõ
nhỏ nhưng để tiếp cận được với báo điện tử thường xuyên, liên tục thì đòi hỏi độc
giả phải có trình độ nhất định và biết về công nghệ thông tin. Do đó, những người

13


trẻ tuổi sinh sống và làm việc tại các thành phố lớn sẽ đáp ứng được tiêu chí này
nhiều hơn so với những người trẻ ở khu vực khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận:
- Nền tảng lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí, truyền thông.
- Lý luận báo chí, lý luận truyền thông.

5.2. Phương pháp cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phân tích thông tin từ nguồn tài
liệu sẵn có (bao gồm các cuốn sách, tài liệu tham khảo; sử dụng các nguồn tài liệu
do tòa soạn báo cung cấp. Vận dụng để khái quát hóa và lý thuyết hóa các vấn đề
đơn lẻ khảo sát được.
- Phương pháp phân tích nội dung văn bản trong nghiên cứu báo chí – truyền
thông: Luận văn xem xét có hệ thống các tài liệu dưới dạng văn bản viết như: các
quy định, Nghị định, Thông tư, kế hoạch, báo cáo… để lấy thông tin và số liệu cho
quá trình viết luận văn. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích nội dung tin, bài trên
các báo điện tử khảo sát: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh
niên Online. Dựa vào kết quả thu được, tác giả đã tiến hành phân tích, đánh giá,
tổng kết những kết quả nghiên cứu, từ đó đưa ra những luận cứ, luận điểm giúp
hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo tòa soạn, phóng
viên chuyên phụ trách chuyên mục dành cho giới trẻ của một số báo điện tử, chuyên
gia văn hóa, học sinh THPT về thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối
sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp định lượng: Thông qua việc lập bảng hỏi và khảo sát đối tượng
là giới trẻ về việc đọc báo điện tử hàng ngày, về cách thức tiếp cận và xử lý thông
tin của giới trẻ trên báo điện tử. Từ đó, đề tài xác định được phương hướng giải
quyết các vấn đề nghiên cứu.
5.3. Khung phân tích luận văn
Từ những phương pháp nghiên cứu như trên, tác giả luận văn đã tự xây dựng
cho mình một khung phân tích luận văn theo mô hình như sau:

14


Theo khung phân tích này, báo điện tử đóng vai trò là nơi tạo ra thông tin
(nguồn) về các lĩnh vực trong cuộc sống. Những thông tin này tiếp cận với giới trẻ

thông qua các PTTT đại chúng, giới trẻ cũng tiếp cận thông tin trên báo điện tử dưới
nhiều hình thức khác nhau và cũng xử lý thông tin theo cách riêng của mình. Những
thông tin trên báo điện tử, gián tiếp hoặc trực tiếp tác động đến nhận thức của giới
trẻ. Chính những nhận thức này là yếu tố tạo nên lối sống cho giới trẻ, được thể hiện
qua: Cách thức tiếp nhận thông tin, cách thức thể hiện bản thân, cách thức học tập
và làm việc, cách thức giải trí và thói quen sinh hoạt hàng ngày.
Khung phân tích luận văn là cái nhìn tổng quan nhất về sự ảnh hưởng của báo
điện tử đối với lối sống của giới trẻ. Khung phân tích này sẽ được diễn giải chi tiết
trong các chương của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài

15


Đề tài làm rõ những khái niệm và vấn đề lý luận liên quan đến việc sự ảnh
hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Đồng thời,
đề tài cũng góp phần đưa ra những giải pháp, cách thức cụ thể nhằm nâng cao sự
ảnh hưởng tích cực của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về mặt thực tiễn, luận văn đem đến cái nhìn sơ lược về thực trạng ảnh hưởng
của báo điện tử bao gồm cả ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Từ đó, những người làm
báo điện tử, đặc biệt là những phóng viên, BTV chuyên về những chuyên mục dành
cho giới trẻ sẽ thấy được ưu và nhược điểm của những thông tin khi đưa lên báo.
Luận văn cũng đưa ra những giải pháp cụ thể trong việc truyền tải, tiếp nhận và
quản lý thông tin trên báo điện tử nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Ngoài ra, luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ cho sinh viên báo chí, đặc
biệt là sinh viên chuyên ngành báo điện tử; phóng viên, BTV báo điện tử và những
người quan tâm tới lĩnh vực này. Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ hữu ích đối với

những cơ quan báo điện tử muốn tham khảo về sự ảnh hưởng của thông tin trên báo
điện tử tới công chúng của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục thì luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về báo điện tử ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ
Việt Nam hiện nay
Chương 3: Xu hướng phát triển và giải pháp phát huy vai trò tích cực của báo
điện tử trong việc xây dựng lối sống của giới trẻ hiện nay

16


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ BÁO ĐIỆN TỬ Ở
VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm công cụ liên quan đến luận văn
1.1.1. Khái niệm báo điện tử
Báo điện tử là một loại hình báo chí ra đời muộn hơn báo in, phát thanh và
truyền hình. Trước đây, khi một sự kiện xảy ra thì “phát thanh đưa tin, truyền hình
minh họa, báo in phân tích và giải thích”. Nhưng giờ đây, báo điện tử có thể đảm
đương nhiệm vụ của cả phát thanh, truyền hình lẫn báo in một cách dễ dàng. Bản
thân nó mang trong mình sức mạnh của PTTT đại chúng truyền thống, cùng kết hợp
với mạng internet nên có nhiều ưu điểm vượt trội, trở thành kênh truyền thông vô
cùng hiệu quả, đặt các PTTT đại chúng vào cuộc đua quyết liệt.
Báo điện tử có ưu thế ở khả năng tương tác qua lại giữa tờ báo và công chúng,
giữa công chúng với công chúng, tạo điều kiện thuận lợi thiết lập các diễn đàn báo
chí; báo điện tử còn có ưu thế về khả năng đa phương tiện, tính thời sự, khả năng
lưu giữ, tìm kiếm và truy xuất thông tin nhanh chóng, dễ dàng.
Sự ra đời và phát triển của internet đã tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển

của báo điện tử. Được ra đời vào những năm 90 của thế kỷ XX, từ tờ điện tử đầu
tiên là Chicago Tribune ra đời vào tháng 5/1992 báo điện tử đã có sự phát triển một
cách chóng mặt khi chỉ 8 năm sau đó (đầu năm 2000) trên thế giới đã thống kê được
con số lên tới 8.474 tờ báo điện tử. Bắt đầu từ năm 2000 trở đi, các hãng thông tấn
lớn trên thế giới như: AFP, Reuter… các đài truyền hình như: CNN, NBC… các tờ
báo như New York Times, Washington Post... đều có tờ báo điện tử của mình và coi
đó là phương tiện để phát triển thêm công chúng báo chí.
Tại Việt Nam, chỉ một tháng sau khi Việt Nam nối mạng internet, ngày
31/12/1997, tạp chí Quê hương có địa chỉ: đã trở thành tờ
báo điện tử đầu tiên ở nước ta. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh dấu
sự ra đời của báo điện tử tại Việt Nam, từ đó đến nay, số lượng báo điện tử tại nước
ta đã có sự phát triển mạnh mẽ.
Trên thế giới và ở Việt Nam đang tồn tại rất nhiều cách gọi khác nhau đối với
loại hình báo chí này: Báo điện tử (Electronic Journal), báo trực tuyến (Online

17


Newspaper), báo mạng (Cyber Newspaper), báo chí internet (Internet Newspaper)
và báo mạng điện tử.
Báo điện tử là khái niệm thông dụng nhất hiện nay, nó gắn liền với tên gọi của
nhiều tờ báo điện tử thuộc cơ quan báo in như: Quê Hương điện tử, Nhân Dân điện
tử, Lao Động điện tử... Ngay trong các văn bản pháp quy của Nhà nước cũng sử
dụng thuật ngữ “báo điện tử”.
Trong nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 của Chính phủ về Quản lý
và cung cấp dịch vụ internet, ở Điều 12 có ghi: Dịch vụ thông tin trên internet là
một loại hình dịch vụ ứng dụng internet, bao gồm dịch vụ phát hành báo chí (báo in,
báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên internet và dịch vụ cung cấp
các loại hình điện tử khác trên internet.
Trong Điều 3, Chương 1 của Luật số 12/1999/QH10 ngày 12/06/1999 về Sửa

đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/12/1989 cũng có ghi thuật ngữ “báo điện tử
(được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài” để chỉ loại hình báo chí này.
Báo điện tử là loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức một trang web
và phát hành dựa trên nền tảng internet. Báo điện tử được xuất bản bởi tòa soạn điện
tử, còn người đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng... có kết
nối internet. Khác với báo in, tin tức trên báo điện tử được cập nhật thường xuyên,
tin ngắn và thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Nó cũng khác so với trang thông tin
điện tử về tần suất cập nhật. Báo điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp
cận tin tức nhanh chóng không phụ thuộc vào không gian và thời gian, sự phát triển
của báo điện tử đã làm thay đổi thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc
phát triển báo giấy truyền thống.
Trong phạm vi giới hạn của đề tài cũng như khả năng của tác giả, luận văn sử
dụng khái niệm báo điện tử được dẫn theo khái niệm của TS. Nguyễn Thị Trường
Giang (Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản): “Báo điện tử là một loại hình
báo chí được xây dựng dưới hình thức của một trang web và phát hành trên mạng
internet” [7, tr. 53].

18


1.1.2. Khái niệm giới trẻ
Giới trẻ Việt Nam hiện nay đã và đang nhận được sự quan tâm của toàn xã hội.
Họ là những người sẽ kế cận và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lịch sử
dân tộc đã chứng minh, ở bất cứ thời đại nào, giới trẻ - thanh niên cũng là lực lượng
“đứng mũi chịu sào” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Do có những nét đặc thù về tâm sinh lý nên giới trẻ được coi là lực lượng nhạy
cảm và năng động trong xã hội hiện đại. Tuổi trẻ chính là giai đoạn đẹp nhất của
cuộc đời với mong muốn được cống hiến, sáng tạo nhưng cũng là lúc dễ bị lôi kéo

và cám dỗ nhất.
“Giới trẻ” là cụm từ không hề mới mẻ và xa lạ. Tùy thuộc vào lĩnh vực
nghiên cứu mà có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau về giới trẻ.
Về phương diện sinh học: Người trẻ là người nằm trong lứa độ trẻ, từ thiếu
niên (dưới 15 tuổi) đến tuổi bầu cử (trên 18 tuổi). Giới trẻ là một cộng đồng gồm
những người trẻ.
Về phương diện văn hóa, xã hội: Giới trẻ là những người mà nhận thức không
còn ấu trĩ con trẻ nữa nhưng cũng chưa đủ chín muồi của một người trưởng thành,
chín muồi về mọi phương diện. Người trẻ là người đang trong phát triển, hoàn thiện
để có một nhận thức viên mãn và tương thích với đại đa số trong cộng đồng.
Trong Từ điển Di sản Hoa Kỳ và Bách khoa toàn thư Britannica cũng đã đưa
ra định nghĩa, người trẻ là người nằm trong độ tuổi chuyển giao phát triển sinh lý và
tâm lý, thể chất và tinh thần, tiến trình diễn ra giữa thời kỳ thiếu niên và người
trưởng thành (người lớn). Quá trình chuyển giao này liên quan đến thay đổi về
phương diện sinh học (ví dụ như dậy thì), xã hội và tâm lý, trong đó những thay đổi
về sinh lý và tâm lý thường dễ nhận thấy hơn.
Từ điển Oxford lại giải thích, thời điểm kết thúc độ tuổi “trẻ” và bắt đầu trở
thành “người lớn” được quy ước ở mỗi nước một khác thậm chí khác nhau ở ngay
trong một quốc gia, căn cứ vào các quyền công dân và quyền con người. Cách xác
định một người còn “trẻ” hay “trưởng thành” thông qua việc xác định đủ tuổi cho
một quyền gì đó cụ thể chẳng hạn như có chứng minh thư nhân dân, có bằng lái xe,
có quyền quan hệ tình dục, nhập ngũ, bầu cử, hay lập gia đình.

19


Theo UNESCO (phương diện văn hoá - xã hội), “người trẻ” nên được hiểu là
những người thuộc giai đoạn chuyển giao từ sự phụ thuộc của trẻ em đến sự độc lập
của người lớn và nhận thức về sự tương thuộc (phụ thuộc lẫn nhau) giữa các thành
viên trong một cộng đồng. Người trẻ hay tuổi trẻ là một phạm trù tương đối, linh

hoạt hơn là chiếu theo độ tuổi cố định. UNESCO không có một độ tuổi cố định để
xác định “giới trẻ” mà tuỳ vào bối cảnh, lĩnh vực và phạm vi.
Trong khi Hiến chương Thanh niên châu Phi (AYC) cho rằng “người trẻ” là
những người thuộc độ tuổi từ 15 đến 35 thì Liên Hợp Quốc (UN) xác định “giới trẻ”
là những người thuộc độ tuổi từ 15 - 24. Tất cả các báo cáo, thống kê của Liên Hợp
Quốc đều căn cứ vào định nghĩa này, chẳng hạn như sách trắng của Liên Hợp Quốc
về dân số, giáo dục, việc làm và y tế.
Theo điều I, Luật Thanh niên quy định: Thanh niên là công dân Việt Nam đủ
mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi [32, tr. 1].
Theo từ điển tiếng Việt “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng
thành” [29, tr. 1029]. Khái niệm này bao hàm: Thanh niên là người có độ tuổi còn trẻ
và độ tuổi đó đang trưởng thành. Khái niệm này hoàn toàn được hiểu theo lứa tuổi.
Trong cuốn sách Quản lý Nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới,
đồng chí Vũ Trọng Kim đã đưa ra khái niệm thanh niên như sau: “Thanh niên là
một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù bao gồm những người trong một độ tuổi nhất
định, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong
mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, có vai trò lớn trong hiện tại và giữ vai trò quyết định
sự phát triển trong tương lai của xã hội” [30, tr. 14].
Từ những khái niệm trên, trong phạm vi khả năng của mình, tác giả luận văn
đưa ra khái niệm về giới trẻ như sau: Giới trẻ là những người ở độ tuổi từ 16 – 30
tuổi, có những đặc điểm tâm sinh lý khác biệt, có tâm tư, nguyện vọng và hoài bão
theo lứa tuổi và theo giới tính. Giới trẻ Việt Nam có mặt trên khắp đất nước, trong các
giai cấp và tầng lớp xã hội, thuộc các ngành nghề khác nhau như: học sinh – sinh
viên, lực lượng vũ trang, công nhân, nông dân, văn nghệ sĩ… Giới trẻ Việt Nam là
những người có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội và đất nước.

20


Với đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ

Việt Nam hiện nay”, trong khả năng giới hạn của mình, tác giả luận văn muốn đề cập
tới “giới trẻ” là những bạn trẻ công dân Việt Nam, có độ tuổi từ 16 – 28 tuổi.
Vậy giới trẻ có đặc điểm tâm sinh lý và thể chất như thế nào?
Trong cuốn “PR – công cụ phát triển của báo chí” (Nxb Trẻ), PGS. TS Đỗ
Thị Thu Hằng đã nhận định: “Ở độ tuổi này cho phép thanh niên có thể đảm nhận
được mọi công việc trong hoạt động học tập, lao động và giao tiếp xã hội... Tuy
nhiên, với độ tuổi trên dưới 20, do sự hưng phấn cường độ cao của hệ thần kinh
cộng với sức mạnh thể chất đang trên đà phát triển nên thanh niên độ tuổi này còn
có biểu hiện hưng phấn nhiều hơn ức chế, dẫn đến đặc điểm tâm lý sôi nổi, nhiệt
tình nhưng có pha chút bồng bột, dễ bắt chước, dễ kích động và dễ ngộ nhận...
Nhân cách của thanh niên đang trong giai đoạn hoàn thiện và định hình, rõ
nét nhất là hệ thống thái độ và định hướng giá trị, từ đó hình thành thế giới quan,
nhân sinh quan, niềm tin và lý tưởng. Tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân
của thanh niên có bước chuyển biến mới. So với tuổi thiếu niên, nhận thức chính trị
- xã hội của thanh niên, sự định hình và hoàn thiện các thuộc tính nhân cách diễn
ra với tốc độ nhanh, cường độ mạnh, cùng với sự tác động của cảm xúc có phân
cực rõ ràng. Khả năng chịu sự tác động của bên ngoài một cách nhanh nhạy, có
thẩm định và tự điều chỉnh, khả năng thích ứng xã hội cao, nếu có hướng dẫn
đúng” [14, tr. 209].
Với những đặc điểm tâm sinh lý đang trong giai đoạn hình và phát triển, giới
trẻ đang đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức. Bởi vậy, việc chăm lo giáo dục
đạo đức, tư tưởng và lối sống cho giới trẻ là vô cùng cấp thiết, cần được chú trọng
quan tâm. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc: “Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ trở thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”, bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
1.1.3. Khái niệm lối sống
Lối sống (đạo đức và chuẩn giá trị xã hội) là những yếu tố cơ bản trong đời
sống xã hội của mỗi con người và mỗi nền văn hóa. Chúng gắn liền với các cơ sở


21


×