Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng từ thực tiễn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ KHẮC TUẤN

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA
KHUNG HÌNH PHẠT ĐƯỢC ÁP DỤNG TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ KHẮC TUẤN

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA
KHUNG HÌNH PHẠT ĐƯỢC ÁP DỤNG TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, năm 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn
là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Khắc Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
DƯỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA KHUNG HÌNH PHẠT ĐƯỢC ÁP DỤNG ....8
1.1. Khái niệm quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
được áp dụng ...........................................................................................................8
1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
được áp dụng .........................................................................................................16
1.3. Khái quát so sánh quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng của một số nước trên thế giới (Liên bang Nga,
Trung Quốc, Liên bang Đức) ................................................................................17
Tiểu kết Chương 1 ...................................................................................................21
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA KHUNG HÌNH PHẠT VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..............................................................................23
2.1. Khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng .......................................23
2.2. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về quyết định hình phạt dưới mức thấp

nhất của khung hình phạt được áp dụng ...............................................................29
2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng tại Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố
Hồ Chí Minh .........................................................................................................48
Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................................53
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC THẤP
NHẤT CỦA KHUNG HÌNH PHẠT ĐƯỢC ÁP DỤNG .....................................54
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt ..............................................................................................54


3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng ...............................................57
Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLHS năm 2015:

Bộ luật Hình sự năm 2015
(Sửa đổi, bổ sung năm 2017)


HTND

Hội thẩm nhân dân

QĐHP:

Quyết định hình phạt

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTGN

Tình tiết giảm nhẹ

TTTN

Tình tiết tăng nặng


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của
TAND huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017
Bảng 2.2: Tổng hợp các hình phạt áp dụng của TAND huyện Bình Chánh,

thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017
Bảng 2.3: Tổng hợp số liệu về áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng của TAND huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2013 đến năm 2017


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với
người phạm tội tương tứng với tội danh cụ thể quy định tại BLHS năm 2015. Về
nguyên tắc khi QĐHP, Tòa án chỉ được phép lựa chọn loại và mức hình phạt đã
được quy định cụ thể tại khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Bởi lẽ,
khi xây dựng luật, nhà làm luật đã cân nhắc đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của những trường hợp phạm tội khác nhau để phân ra thành những tội, loại
tội phạm khác nhau và các khung hình phạt khác nhau. BLHS nước ta không quy
định các khung hình phạt cứng (nghĩa là chỉ có một mức hình phạt cố định để áp
dụng cho từng tội phạm), mà trong mỗi khung hình phạt có định mức hình phạt tối
thiểu và tối đa. Điều này cho phép Tòa án có thể có điều kiện lựa chọn loại và mức
hình phạt phù hợp với từng trường hợp phạm tội cụ thể.
Hình phạt được quy định trong mỗi khung hình phạt là sự phản ánh tính chất
và mức độ nguy hiểm của tội phạm được quy định trong phạm vi khung hình phạt
(khoản) tương ứng với tội danh nhất định. Tuy nhiên, việc cân nhắc tính chất, mức
độ nguy hiểm của tội phạm để quy định khung hình phạt đối với nhà làm luật bao
giờ cũng mang tính khái quát tương đối. Nhà làm luật không thể có điều kiện để dự
trù hết tất cả các trường hợp phạm tội khác nhau để quy định những hình phạt tương
ứng đối với từng trường hợp phạm tội có thể xảy ra trên thực tế. Bởi vậy, để tăng
khả năng lựa chọn của Tòa án khi QĐHP đối với những trường hợp phạm tội cụ thể
khác nhau, nhất là khả năng lựa chọn hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật áp
dụng đối với người phạm tội, pháp luật hình sự Việt Nam cũng như nhiều quốc gia
trên thế giới còn mở rộng trường hợp cho phép Tòa án có khả năng lựa chọn mức

độ và loại hình phạt tương ứng với cùng một hành vi nhưng ở những trường hợp
khác nhau, đây là trường hợp QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
áp dụng quy định của BLHS. Cụ thể, trong trường hợp này, Tòa án có thể áp dụng
mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định
hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

1


QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng quy định tại
BLHS có vai trò hết sức quan trọng là phương tiện để tạo ra sự công bằng xã hội và
thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người thực hiện
hành vi phạm tội, bên cạnh đó, còn bảo đảm hình phạt được áp dụng tương xứng
với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội. Tuy nhiên,
nếu lạm dụng quy định này để QĐHP quá nhẹ, không nghiêm khắc sẽ làm giảm tính
uy nghiêm của hình phạt, từ đó, hình phạt được áp dụng không tương xứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội dẫn đến mục đích của hình phạt không đạt
được. Đây là điều các nhà làm luật không mong muốn.
Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung ngày 20/6/2017), có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/01/2018. So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 có rất nhiều nội
dung mới, đồng thời, đã khắc phục được những thiếu sót của BLHS năm 1999. Và
quy định về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng tiếp tục
được kế thừa và quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015. So với BLHS năm 1999 thì
BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể và mở rộng hơn các trường hợp cho phép Tòa
án QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, tạo thuận lợi cho người áp dụng
pháp luật trong việc QĐHP. Tuy nhiên, nhìn chung qua nghiên cứu, đánh giá và từ
thực tiễn công tác, Tác giả nhận thấy quy định này vẫn có một số bất cập cần được
nghiên cứu.
Trên thực tế, hiện nay việc QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

được áp dụng còn nhiều vướng mắc và sai sót, điều này xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó, có những nguyên nhân chủ quan từ phía người áp dụng
pháp luật do không nghiên cứu toàn diện các quy định của pháp luật hình sự, tuy
nhiên phần lớn các vướng mắc, bất cập xuất phát từ nguyên nhân khách quan là do
những quy định của BLHS năm 2015 về vấn đề này còn chưa rõ ràng, chưa được
hướng dẫn cụ thể, dẫn đến người áp dụng pháp luật mà chủ yếu là Tòa án còn tỏ ra
lúng túng khi vận dụng các quy định này trong quá trình giải quyết vụ án.

2


Do đó, việc nghiên cứu quy định về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng trên phương diện lý luận là rất cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự để đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử
của ngành Tòa án trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu này
không thể chỉ dừng lại ở phạm vi lý luận mà cần có sự mở rộng nghiên cứu trên
phạm vi thực tiễn, bởi việc đối chiếu giữa lý luận với thực tiễn xét xử của Ngành
Tòa án sẽ cho chúng ta những dẫn chứng sinh động về hoạt động QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng của Tòa án, từ đó có những nhìn nhận,
đánh giá toàn diện, khách quan hơn. Nếu làm được điều này sẽ góp phần nâng cao
chất lượng quyết định và áp dụng hình phạt, đáp ứng mục tiêu nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của công tác xét xử các vụ án hình sự.
Đó cũng chính là lý do mà Tác giả quyết định chọn Đề tài “QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng từ thực tiễn huyện Bình Chánh, thành
phố Hồ Chí Minh” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Theo đó, Đề tài cũng gắn liền
với thực tiễn công tác của Tác giả tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do có nhiều cách hiểu và những vướng mắc như tác giả đã phân tích ở trên
nên quy định về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

được nhiều tác giả uy tín trong lĩnh vực hình sự nghiên cứu và đề cập đến trong
nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác nhau, như: “Một số ý kiến về áp dụng
Điều 38 Khoản 3 Bộ luật Hình sự” của tác giả Trần Văn Độ năm 1989; “Vấn đề
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự” của tác giả Dương
Tuyết Miên; “Căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lê Tường Vi năm 2007; “Tìm hiểu về hình
phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của Thạc sĩ Đinh Văn
Quế. Bên cạnh đó, có bài viết “Các Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
luật hình sự Việt Nam” của Tiến sĩ Trần Thị Quang Vinh và luận văn: “Quyết định

3


hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng” năm 2017 của tác giả Phạm Thanh Thủy.
Các bài viết này cũng đã bước đầu nghiên cứu đến nội dung QĐHP dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, trong đó chỉ ra được các điều
kiện cũng như là giới hạn của QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
áp dụng. Tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu là các bài viết ngắn, chưa
phân tích chuyên sâu về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng. Đồng thời, các luận án, luận văn nêu trên chủ yếu phân tích QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng trong bối cảnh BLHS năm 1999 và có
đề cập sơ qua về quy định này trong BLHS năm 2015. Đồng thời, chưa phân tích
được những khó khăn, vướng mắc của quy định QĐHP dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng theo BLHS năm 2015.
Trên trang wed kiemsat.vn ngày 12/3/2018 có đăng bài: “Điểm mới về
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt” của tác giả Dương Văn HưngTAQS Khu vực 1 Quân chủng Hải Quân. Bài viết này đã phân tích quy định QĐHP
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng ở góc độ lý luận, những
điểm mới của quy định này so với Điều 47 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, chưa phân
tích chuyên sâu về điều kiện áp dụng và giới hạn hình phạt về quy định này.

Mặt khác, BLHS năm 2015 vừa có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018,
đến nay chưa có Nghị định nào hướng dẫn BLHS năm 2015, do đó, các công trình
nghiên cứu về vấn đề QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
trong BLHS năm 2015 có thể có nhưng chưa nhiều, đồng thời, trong bối cảnh
BLHS năm 2015 vừa có hiệu lực thi hành chắc chắn sẽ có nhiều vướng mắc, bất cập
mới phát sinh trong việc áp dụng pháp luật trên thực tiễn. Do đó, nội dung này cần
tiếp tục được mở rộng nghiên cứu ở nhiều mức độ khác nhau, trong đó, có kế thừa
các các công trình nghiên cứu nêu trên về điều kiện và giới hạn của QĐHP dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu toàn diện có hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn
quy định về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, đồng
thời phân tích chuyên sâu quy định này kèm theo đánh giá thực tiễn áp dụng quy
định này tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
năm 2013-2017; chỉ ra một số vướng mắt, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp
dụng pháp luật của Tòa án, từ đó đề xuất những yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nêu trên, Luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu sau:
- Làm rõ những nội dung về mặt pháp lý cơ bản của quy định về QĐHP dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định của BLHS năm
2015 và một số nước trên thế giới. Trong đó, có đề cập đến lịch sử hình thành quy
định này theo quy định của pháp luật.
- Phân tích những quy định của BLHS về QĐHP dưới mức thấp nhất của

khung hình phạt được áp dụng.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định về QĐHP dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn năm 2013-2017; Phân tích các thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn
xét xử và nguyên nhân của chúng để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy
định của BLHS (bao gồm việc ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng) và các giải
pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật, chủ yếu là BLHS 2015 về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và
thực tiễn áp dụng.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật (chủ yếu là
BLHS 2015) về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và thực tiễn áp
dụng của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng từ năm 2013 đến 2017
và kể từ ngày 01/01/2018 đến tháng 6/2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài của tác giả sử dụng phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước về chính sách hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của luật học như

so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp, lịch sử, tổng kết kinh nghiệm, xã hội học...
Tùy thuộc vào khách thể và đối tượng nghiên cứu trong từng chương, mục của Đề
tài, sẽ có phương pháp nghiên cứu phù hợp. Tuy nhiên, để đạt được mục đích
nghiên cứu, tác giả kết hợp chặt chẽ các phương pháp này trong quá trình nghiên
cứu toàn bộ nội dung Luận văn, tất nhiên có xác định phương pháp chủ đạo trong
nghiên cứu từng chương, mục cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Phân tích lý luận về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng trên cơ sở phân tích, đánh giá từ thực tiễn áp dụng quy định này tại Tòa án
nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh để đề xuất những yêu cầu và
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng. Đây là cơ sở quan trọng để nghiên cứu và hoàn thiện quy định
này. Hơn nữa góp phần nhận thức đúng căn cứ QĐHP dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng trong thực tiễn.

6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Điểm mới quan trọng nhất của luận văn là phân tích những điểm chưa rõ
ràng và có nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau của quy định QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng từ đó đưa ra giải pháp phù hợp nhất
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
Luận văn cũng có thể là tài liệu nghiên cứu đối với những người quan tâm
đến quy định QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung

hình phạt được áp dụng;
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự về QĐHP dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành
phố Hồ Chí Minh;
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC
THẤP NHẤT CỦA KHUNG HÌNH PHẠT ĐƯỢC ÁP DỤNG
1.1. Khái niệm quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng
1.1.1. Bản chất của quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là một dạng
của QĐHP. Do đó, QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng sẽ
mang một số đặc điểm chung của QĐHP như: Cùng là hoạt động áp dụng pháp luật
trong thực tiễn của Hội đồng xét xử; Việc áp dụng phải căn cứ vào tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các TTTN, giảm nhẹ
TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Bên cạnh những đặc điểm
chung này, QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt còn mang một số những
đặc điểm riêng, còn được gọi là bản chất của riêng của quy định này.
Pháp luật hình sự hiện hành không có quy định về khái niệm QĐHP và
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
Theo Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Tuyết Miên “Quyết định hình phạt là
hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác
định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương ứng với tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt động
quyết định hình phạt có thể là miễn TNHS hoặc có thể là miễn hình phạt (trong
trường hợp này hoạt động quyết định hình phạt chấm dứt tại đây) hoặc nếu Tòa án
quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phạt bao gồm việc xác
định khung hình phạt và việc xác định hình phạt cụ thể trong phạm vi luật cho phép
đối với bị cáo” [23, tr. 4].
Về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, hiện nay
có rất nhiều quan điểm của nhiều tác giả khác nhau, cụ thể:

8


Theo Ths. Đinh Văn Quế tại bài tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình
phạt trong Bộ luật Hình sự Việt Nam thì: “QĐHP dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt là trường hợp Tòa án có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn”[24, tr. 220].
Theo Giáo trình luật Hình sự (Phần chung) của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội thì QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy
định tức là áp dụng hình phạt đó với mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều
luật quy định đối với tội phạm bị xét xử, còn chuyển sang một hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn nghĩa là thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật về tội
phạm bị xét xử bằng một loại hình phạt khác nhẹ hơn không được quy định trong
điều luật [40, tr. 332].
Tuy nhiên, các khái niệm này chưa phân tích các tiêu chí đánh giá khách
quan các quy định của pháp luật, chưa nêu ra được các điều kiện áp dụng QĐHP
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo BLHS năm 2015. Hơn
nữa, các khái niệm này được hình thành từ nền tảng BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, hiện nay đã thay thế bởi BLHS năm 2015.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy QĐHP dưới mức thấp nhất của khung

hình phạt được áp dụng có một số đặc điểm như sau:
- QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là một dạng
của QĐHP sau khi định tội danh và xác định khung hình phạt mà người phạm tội bị
xét xử.
- Là hoạt động chỉ do Tòa án (Hội đồng xét xử) thực hiện khi QĐHP bằng
cách đưa ra mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội bằng bản án của Tòa án.
- Chỉ áp dụng khi có các điều kiện quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015.
- QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng phải trong
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của Điều luật (trừ trường hợp đồng phạm lần đầu
với vai trò giúp sức không đáng kể) hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn.

9


- Thể hiện chính sách nhân đạo, cá thể hóa trong quyết định hình phạt...
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu bản chất của việc QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng như sau: “QĐHP dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt được áp dụng là chế định đặc biệt trong QĐHP thể hiện chính
sách nhân đạo, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, nhằm đạt được mục
đích hình phạt do Tòa án (Hội đồng xét xử) thực hiện dựa trên cơ sở những điều
kiện luật định và tùy trường hợp quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn”.
1.1.2. Mục đích của quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy
định trong BLHS năm 2015, do Tòa án áp dụng đối với người hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp
nhân thương mại đó (Điều 30 BLHS năm 2015).

Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội
mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn
ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp
luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm (Điều 31 BLHS năm 2015).
BLHS năm 2015 không có quy định mục đích của QĐHP dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt được áp dụng. Tuy nhiên, theo tác giả mục đích của
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cũng chính là mục
đích của hình phạt thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Cụ thể, mục đích của
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng không chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp
luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Ngoài ra, QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là
một trong những nội dung để thực hiện nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 BLHS

10


năm 2015 như thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước ta đối với người phạm tội;
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội trong vụ án có đồng phạm
để tạo ra sự công bằng trong việc QĐHP.
1.1.3. Điều kiện quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là trường hợp
đặc biệt của QĐHP. Tùy trường hợp, khi áp dụng quy định này thì Tòa án có thể
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của Điều luật hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng không chính xác sẽ dẫn đến hình phạt áp dụng cho người phạm

tội quá nhẹ không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho cho xã hội
của tội phạm, nhân thân người phạm tội, từ đó, ảnh hưởng đến mục đích của hình
phạt được áp dụng. Do đó, để đảm bảo áp dụng quy định này thống nhất trong thực
tiễn và tránh tình trạng Tòa án áp dụng tùy tiện khi xét xử thì cần phải hiểu đúng
quy định của pháp luật về điều kiện áp dụng chế định này.
Điều 54 BLHS năm 2015 quy định về QĐHP dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng như sau: “1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này; 2. Tòa án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt
buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm
tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng
kể; 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2
Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là
khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể QĐHP dưới mức thấp nhất của khung

11


hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc
giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”.
Như vậy, khi có một trong các điều kiện sau đây thì Tòa án có thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng:
- Có ít nhất hai TTGN quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015;
- Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có
vai trò không đáng kể;
- Điều kiện quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
1.1.3.1. Có ít nhất hai TTGN quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm

2015
Điều 51 BLHS nước ta quy định hai loại tình tiết giảm nhẹ TNHS: tình tiết
giảm nhẹ do luật định (khoản 1) và TTGN do Toà án xem xét quyết định trong các
trường hợp cụ thể nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án (khoản 2).
Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định các tình tiết TTGN TNHS từ
điểm a đến điểm x. Nhìn chung, mỗi điểm của điều luật quy định một TTGN;
nhưng cũng có những điểm còn có quan điểm khác nhau trong lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng. Đó là:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm
(điểm a).
Quy định này kế thừa BLHS năm 1999, tuy nhiên, có thay dấu phẩy sau mỗi
TTGN bằng từ “hoặc”. Do đó, làm phát sinh vấn đề đây là một hay hai TTGN được
quy định tại một điểm. Chúng tôi cho rằng, đây là hai mức độ khác nhau của một
tình tiết: 1/ người phạm tội đã ngăn chặn không cho hành vi phạm tội gây tác hại.
Nếu có tình tiết này thì sẽ không có tình tiết sau. 2/ làm giảm bớt tác hại của tội
phạm. Trong trường hợp này mặc dù người phạm tội không ngăn chặn được hoàn
toàn, nhưng đã có hành vi làm giảm một phần tác hại. Cho nên, hai hành vi này
không thể đồng thời tồn tại trên thực tế; nên người làm luật sử dụng từ hoặc. Việc
thay thế bằng từ “hoặc” trong BLHS 2015 hoàn toàn mang tính ngôn ngữ, không

12


mang bản chất pháp lý. Nên đây được xem là một TTGN TNHS, vì nó thể hiện sự
tích cực của người phạm tội đối với hành vi phạm tội của mình nhằm giảm bớt hậu
quả thiệt hại thực tế có thể xảy ra.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục
hậu quả (điểm b).
Quy định này được hiểu là người phạm tội tự nguyện thực hiện việc sửa
chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. Đây là ba hành vi có cùng một ý

nghĩa là hạn chế hậu quả của tội phạm đã xảy ra. Cho nên người phạm tội thực hiện
một, hai hay cả ba hành vi đều là một TTGN TNHS.
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (điểm h).
Cũng như quy định tại điểm a, đây là hai ý loại trừ nhau, không đồng thời tồn
tại trong một trường hợp phạm tội. Cho nên, chỉ cần có một tình tiết thì đã là TTGN
TNHS. Không thể coi đây là hai tình tiết giảm nhẹ.
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm i)
Đây là hai yếu tố cần và đủ của một tình tiết. Người phạm tội lần đầu chỉ
trong trường hợp ít nghiêm trọng mới được coi là một TTGN TNHS.
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải
Thành khẩn khai báo được hiểu là người phạm tội trong quá trình tố tụng
(điều tra, truy tố, xét xử) đã khai đầy đủ và đúng sự thật những gì liên quan đến
hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Việc người phạm tội thành khẩn khai báo giúp
cho quá trình tố tụng được nhanh chóng, đúng người, đúng tội.
Ăn năn hối cải là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội thể
hiện sự hối hận, cắn rứt, dày vò lương tâm về hành vi phạm tội của mình nên chứng
minh cho việc mình muốn sửa chữa, cải tạo thành người có ích cho xã hội, bù đắp
những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.
Tuy nhiên có được xem “ người phạm tội thành khẩn khai báo” và “người
phạm tội ăn năn hối cải” là hai TTGN TNHS hay không. Quan điểm của tác giả,
“thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai trường hợp khác nhau, có trường
hợp thành khẩn khai báo nhưng không ăn năn hối cải hoặc ngược lại không thành

13


khẩn khai báo nhưng ăn năn hối cải. Những trường hợp như vậy vẫn phải xem đó là
các TTGN TNHS, vì xét cho cùng hai tình tiết này đều thể hiện sự tích cực từ người
phạm tội đối với người tiến hành tố tụng hoặc đối với xã hội. TAND tối cao cần ban
hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định này để thực tiễn áp dụng pháp luật cho

thống nhất. Thực tế áp dụng cho thấy đã có rất nhiều Tòa án xem đây là hai TTGN
TNHS khác nhau.
1.1.3.2. Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm
nhưng có vai trò không đáng kể
Đây là quy định mới được bổ sung trong BLHS 2015 về chế định này. Việc
áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS cần chú ý mấy điểm sau:
- Để áp dụng khoản này cần thiết phải có đủ 3 điều kiện: 1/ Chỉ áp dụng đối
với người giúp sức trong vụ án đồng phạm; 2/ Vai trò đồng phạm trong vụ án
không đáng kể; 3/ Người phạm tội lần đầu;
- Việc áp dụng khoản này của điều luật không cần có nhiều TTGN. Bởi vì,
khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS là hai khoản độc lập với các điều kiện áp dụng độc
lập. Cho nên các điều kiện quy định tại khoản 1 không bắt buộc phải có ở khoản 2;
- Mức hình phạt được quyết định không nhất thiết ở khung liền kề nhẹ hơn
của điều luật; mà có thể ở tất cả các khung nhẹ hơn; thậm chí có thể chuyển sang
một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 3
Điều 54 BLHS.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ
hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng
phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Đây là quy định mới của BLHS 2015 so với
BLHS năm 1999. Việc quy định này thể hiện trình độ lập pháp của nước ta đã phát
triển thêm một bậc khi cá thể hóa hình phạt. Việc cá thể hóa hình phạt thể hiện ở
chỗ việc QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với
người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng vai trò
không đáng kể.

14


Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã

phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết
thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS
nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội
lần đầu (Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ số 01/2017-GĐ-TANDTC). Theo đó,
những người đã từng phạm tội mà tiếp tục phạm tội thì lần phạm tội bị Tòa án đang
xét xử không thể coi là “phạm tội lần đầu”.
“Người giúp sức” là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm (khoản 3 Điều 17 BLHS năm 2015). “Đồng phạm” là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm (khoản 1 Điều 17 BLHS năm
2015). Riêng cụm từ “Có vai trò không đáng kể”, hiện nay chưa có văn bản nào
hướng dẫn cụ thể. Hành vi của người phạm tội trong trường hợp nào sẽ được xem là
có vai trò không đáng kể… Do đó, thực tiễn áp dụng sẽ lúng túng hoặc áp dụng quy
định này không thống nhất.
1.1.3.3. Điều kiện quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn
Theo quy định tại khoản 3 Điều 54 BHS năm 2015 thì khi QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, Tòa án có thể quyết định hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Tuy nhiên, để áp dụng quy định này, cần đảm bảo có đủ các
điều kiện sau:
- Bị cáo phải có đủ các điều kiện để QĐHP dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 54 BLHS năm
2015 nêu trên, có nghĩa là phải có ít nhất hai TTGN TNHS quy định tại khoản 1
Điều 51 BLHS năm 2015 hoặc điều kiện người phạm tội lần đầu là người giúp sức
trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Đây được xem là điều kiện
cần.
- Điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt bị cáo bị truy
tố, xét xử là khung hình phạt nhẹ nhất. Nếu điều luật bị cáo bị xét xử có nhiều

15



khung hình phạt hoặc khung hình phạt bị cáo bị xét xử không phải là khung hình
phạt nhẹ nhất thì sẽ thuộc trường hợp QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015.
1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng
1.2.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Việc quy định QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
trong BLHS năm 2015 có ý nghĩa chính trị- xã hội rất quan trọng vì đã tạo ra sự
công bằng xã hội trong lĩnh vực hình sự, thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta đối với tình hình tội phạm ở từng giai đoạn nhất định. Sự công bằng xã hội trong
lĩnh vực hình sự cho thấy tất cả mọi cá nhân, pháp nhân đều ngang nhau, bình đẳng
trước pháp luật và mọi hành vi vi phạm pháp luật thuộc đối tượng điều chỉnh của
pháp luật hình sự đều phải xử lý nghiêm. Bên cạnh đó việc quy định QĐHP dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt thể hiện cơ sở truy cứu TNHS giống nhau đối
với tất cả chủ thể phạm tội; Quy định hệ thống các tội phạm và hình phạt thống nhất
đối với tất cả các chủ thể phạm tội…
1.2.2. Ý nghĩa pháp lý hình sự
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng có nghĩa pháp
lý hình sự quan trọng, cụ thể: Là một trong những nội dung thể hiện chính sách
khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Bên cạnh đó, quy định
này có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt của luật
hình sự. Người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng nhất với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Ngoài ra, chế định QĐHP
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng còn là cơ sở quan trọng để
xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam phù hợp với quy định của pháp
luật hình sự thế giới, phù hợp với các điều ước mà Việt Nam là thành viên.
1.2.3. Ý nghĩa giáo dục cải tạo người phạm tội
Bên cạnh ý nghĩa về chính trị-xã hội, ý nghĩa về pháp lý hình sự, QĐHP dưới

mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng còn có ý nghĩa giáo dục, cải tạo

16


người phạm tội vì giáo dục, cải tạo người phạm tội là mục đích của hình phạt. Việc
QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng càng sát với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội càng có ý nghĩa giáo dục, cải
tạo người phạm tội. Họ sẽ sớm cải tạo và trở lại xã hội, xây dựng cuộc sống, khắc
phục lỗi lầm đã gây ra, đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Ngược lại, nếu QĐHP không phù hợp sẽ ảnh hưởng đến quá trình giáo dục, cải tạo
người phạm tội và ý thức tự nguyên chấp hành pháp luật của họ.
1.3. Khái quát so sánh quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt được áp dụng của một số nước trên thế giới (Liên
bang Nga, Trung Quốc, Liên bang Đức)
1.3.1. Những điểm tương đồng và khác biệt
Quy định QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là
một trong những nội dung thể hiện chính sách khoan hồng của một Nhà nước đối
với người thực hiện hành vi phạm tội nên được nhiều nước quy định, trong đó, có
Nước Liên bang Nga, Trung Quốc và Liên bang Đức.
BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được Quốc hội Trung Hoa thông qua
ngày 01/7/1997, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1990. Trong đó, quy định về
QĐHP nhẹ hơn khung hình phạt quy định được quy định tại Điều 63 của BLHS
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, cụ thể: “Khi có TTGN mà Bộ luật này quy định
được áp dụng một hình phạt giảm nhẹ thì phải QĐHP theo khung hình phạt nhẹ
hơn theo quy định. Trong trường hợp không có TTGN theo quy định của Bộ luật
này, nhưng căn cứ vào tình tiết đặc thù của vụ án, TAND tối cao có thể QĐHP nhẹ
hơn trong khung hình phạt”. Các điều kiện về TTGN là điều kiện để QĐHP theo
khung hình phạt nhẹ hơn quy định tại BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
chỉ có hai TTGN là “tự thú và “lập công” quy định tại Điều 67 và Điều 68. Cụ thể:

“Sau khi phạm tội mà tự nguyện đầu thú với công an và thật thà khai báo hành vi
phạm tội của bản thân thì gọi là tự thú. Đối với người phạm tội mà tự thú thì có thể
xử phạt nhẹ hơn hoặc áp dụng một khung hình phạt nhẹ hơn…” (Điều 67) và “Nếu
người phạm tội có biểu hiện lập công như vạch trần được hành vi phạm tội của

17


người khác qua kiểm tra thực tế thấy đúng hoặc cung cấp những manh mối quan
trọng để từ đó phá được vụ án khác thì có thể xử phạt nhẹ hơn hoặc áp dụng một
khung hình phạt nhẹ hơn,... Đối với người tự thú và lập công lớn, sau khi phạm tội
thì có thể áp dụng một khung hình phạt nhẹ hơn hoặc miễn hình phạt.” và (Điều
68). [12, tr. 60-63]
BLHS Liên Bang nga được thông qua ngày 24/5/1996, được Hội đồng Liên
bang phê chuẩn ngày 05/6/1996, bao gồm 360 Điều. Trong đó, quy định về QĐHP
nhẹ hơn quy định của Bộ luật được quy định tại Điều 64 Bộ luật này, cụ thể: “1.
Khi có các tình tiết loại trừ TNHS liên quan đến mục đích và động cơ phạm tội, vai
trò, hành vi của người tham gia trong thời điểm và sau khi phạm tội và các tình tiết
khác làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và khi
người phạm tội theo nhóm có hành động giúp đỡ tích cực việc khám phá tội phạm
thì hình phạt có thể được quyết định nhẹ hơn mức thấp nhất của khung hình phạt
được quy định tại điều luật tương ứng ở Phần riêng của Bộ luật này, hoặc Tòa án
có thể QĐHP nhẹ hơn hình phạt đã được Điều luật này quy định hoặc không
QĐHP bổ sung khi hình phạt này là bắt buộc…[42, tr. 86-87]
BLHS Liên bang Đức quy định về Các căn cứ giảm nhẹ luật định đặc biệt tại
Điều 49 như sau: “(1) Nếu có sự giảm nhẹ được quy định hoặc cho phép theo quy
định thì việc giảm nhẹ được thực hiện như sau: 1. Thay cho hình phạt tự do suốt đời
là hình phạt tự do không dưới 3 năm; 2. Đối với hình phạt tự do có thời hạn thì mức
cao nhất được quyết định chỉ có thể bằng ba phần tư của mức hình phạt cao nhất
được quy định. Đối với hình phạt tiền thì mức cao nhất của đơn vị ngày thu nhập

cũng như vậy; 3. Mức thấp nhất gia tăng của hình phạt tự do được giảm còn 2 năm
trong trường hợp mức thấp nhất là 10 hoặc 5 năm, còn 6 tháng trong trường hợp
mức thấp nhất là 3 năm hoặc 2 năm, còn 3 tháng trong trường hợp mức thấp nhất
là 1 năm, bằng mức thấp nhất mà luật quy định trong các trường hợp còn lại. (2)
Nếu tòa án được phép giảm nhẹ hình phạt theo đánh giá của mình trên cơ sở của
một luật khác được chỉ dẫn đến quy định này thì có thể giảm đến mức thấp nhất của

18


×