Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.01 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN THÀNH

THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. BÙI MINH THANH

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các tài
liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, chính xác, có nguồn gốc rõ
ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018



TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ ...................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, ý nghĩa của thi hành án hình sự ................ 7
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về thi hành án hình sự ....................... 15
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH PHÚ THỌ .................................................................................. 30
2.1. Thực trạng các chủ thể thi hành án hình sự tại tỉnh Phú Thọ .................. 30
2.2. Thực trạng thi hành án phạt tù ................................................................. 33
2.3. Thực trạng thi hành án tử hình và các án phạt khác ................................ 37
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN
HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ ........................................... 50
3.1.Yêu cầu thi hành đúng án hình sự ............................................................. 50
3.2. Quan điểm chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình
sự trong thời gian tới ....................................................................................... 51
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án hình sự tại tỉnh Phú Thọ........ 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCA

:


Bộ Công an

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng Hình sự

BQP

:

Bộ Quốc phòng

TANDTC

:

Tòa án Nhân dân Tối cao

VKSNDTC :

Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bản đồ hành chính tỉnh Phú Thọ.
Bảng 2.1. Thống kê tình hình thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
từ năm 2013 – 2017.

Bảng 2.2. Thống kê đội ngũ cán bộ thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ gia đoạn 2013-2017.
Bảng 2.3. Kết quả thực hiện công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2013 – 2017.


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự là một bộ phận không thể tách rời trong biện pháp phòng
chống tội phạm. Việc thi hành án hình sự vừa trực tiếp tác động đến nhận thức và
hành vi của người phạm tội, vừa tác động đến ý thức tôn trọng pháp luật của mọi
công dân. Điều đó cho thấy vai trò của thi hành án hình sự trong việc đấu tranh, đẩy
lùi tình trạng phạm tội và tái phạm tội trong xã hội.
Là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, thi hành án hình sự nhằm
đưa một bản án, một quyết định của Tòa án ra thi hành trên thực tế. Thi hành án
hình sự được thực hiện sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, là một
cách để thực thi công lý, công bằng cho xã hội. Mục đích của giai đoạn này là buộc
người bị kết án phải chấp hành bản án một cách nghiêm chỉnh, cảm hóa tư tưởng,
giáo dục người bị kết án trở thành một công dân tốt. Nếu mục đích của thi hành án
không đạt được thì mọi bản án, mọi quyết định của Tòa án sẽ trở nên vô nghĩa. Nếu
như một bản án, một quyết định của Tòa án không được thi hành nghiêm chỉnh thì
an ninh - trật tự xã hội sẽ bị xâm hại, quyền lực Nhà nước sẽ bị giảm sút. Chính vì
vậy, việc đảm bảo hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu tất
yếu trong hoạt động quản lý Nhà nước.
Với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra những
chủ trương, định hướng nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cụ thể như Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 [13] hay như Nghị
quyết số 49 –NQ/TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 [14]. Sau hơn 10 năm thực hiện, hệ thống tư pháp Việt Nam đã có nhiều tiến
bộ rõ rệt, ngày một hoàn thiện hơn, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế một
cách sâu rộng.
Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh Trung du miền núi phía Bắc của Việt Nam, có vị
trí địa lý nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng Sông Hồng
và Tây Bắc, là cửa ngõ nối liền thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận với các tỉnh miền

1


núi, biên giới Tây Bắc; có hệ thống giao thông đa dạng với 06 tuyến quốc lộ, trong
đó có tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai và 01 tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai
thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa với các tỉnh, nhất là các tỉnh biên giới,
như: Lào Cai, Lạng Sơn. Những điều kiện thuận lợi trên đã góp phần thúc đẩy kinh
tế - xã hội của tỉnh ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày được nâng cao, đời
sống nhân dân dần được cải thiện; tình hình an ninh, chính trị ổn định, trật tự an
toàn xã hội có những bước chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, Phú Thọ là tỉnh miền
núi với 210 xã, thị trấn miền núi, 7 xã vùng cao và 50 xã đặc biệt khó khăn về kinh
tế, nhiều nơi trình độ dân trí vẫn còn thấp...đây cũng là điều kiện thuận lợi để các ổ
nhóm tội phạm hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn ngày một tinh
vi, xảo quyệt; các loại tội phạm như giết người do nguyên nhân xã hội, cướp, cướp
giật tài sản, trộm cắp, tội phạm trong lứa tuổi thanh, thiếu niên, tội phạm ma túy,
kinh tế, chức vụ, tham nhũng… có chiều hướng gia tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Trong thời gian qua, lực lượng
Công an tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các sở, ban , ngành, đoàn thể địa phương và
sự nỗ lực cố gắng của lực lượng thi hành án hình sự Công an tỉnh đã khắc phục khó
khăn, thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công
tác thi hành án hình sự, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh. Luật thi
hành án hình sự 2010 được ban hành đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong
công tác thi hành án hình sự, giống như một kim chỉ nam trong việc áp dụng thực

tiễn thi hành. Tuy nhiên, qua hoạt động thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ thời gian qua vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót cũng như các khó khăn,
vướng mắc trong quá trình triển khai.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh
Phú Thọ” để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng
hình sự - mã số: 8.38.01.04.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thi hành án hình sự liên quan trực tiếp đến trật tự, an toàn xã hội, an ninh
quốc gia đã và đang được nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Luật thi hành án hình sự

2


2010 ra đời đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình cải cách tư pháp. Cho đến
nay, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, chuyên đề, tạp chí nghiên cứu về thi
hành án hình sự như:
- Sách chuyên khảo “Luật thi hành án hình sự” của GS.TS. Võ Khánh Vinh
và PGS.TS. Cao Thị Oanh [39].
- Sách chuyên khảo “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề
lý luận và thực tiễn” của GS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng.
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án hình sự”, Vũ Trọng Hách [17].
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thi hành án hình sự từ thực tiễn tại huyện Củ
Chi, thành phố Hồ Chí Minh”, Phan Hùng Vương [40].
- “Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay”,
Vũ Trọng Hách, tạp chí Nhà nước pháp luật số 05/2002 [16].
- “Một số dạng vi phạm phổ biến trong công tác thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ”, Bùi Lê Sính, tạp chí Kiểm sát số 02/2017 [37].
- “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn thi hành luật thi hành án hình sự 2010”,
Vũ Huy Thuận, tạp chí Kiểm sát tháng 05/2017 [38].

- “Hoạt động thi hành án hình sự hiện nay - Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện”, Trương Hòa Bình, tạp chí khoa học pháp lý số 06/2002 [4].
Các công trình nghiên cứu trên hầu như mới chỉ nghiên cứu một cách chung
từ góc độ lý luận chứ chưa đi sâu vào thực tiễn thi hành án hình sự ở một địa bàn cụ
thể, chính vì vậy rất khó có thể đánh giá một cách chuẩn xác về thực tiễn thi hành
án hình sự hiện nay. Chính vì vậy, kết hợp từ việc nghiên cứu về mặt lý luận và qua
khảo sát thực tiễn tại một địa phương cụ thể, tác giả nghiên cứu được một cách sâu
về công tác thi hành án hình sự, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành
án hình sự, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần bổ sung hệ thống lý luận về thi hành án hình sự ở nước ta hiện
nay; đánh giá thực trạng công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong

3


thời gian vừa qua. Chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và khó khăn, vướng mắc;
nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót và khó khăn, vướng mắc đó. Dự báo
tình hình và đưa ra phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Về lý luận: Phân tích khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự; trình tự, thủ
tục, quyền và nghĩa vụ của cơ quan thi hành án hình sự trong thi hành án phạt tù, thi
hành án treo và cải tạo không giam giữ; chủ thể và quan hệ phối hợp giữa cơ quan
thi hành án hình sự với cơ quan được giao một số nhiệm vụ có liên quan đến thi
hành án hình sự.
+ Về thực tiễn: Đánh giá thực trạng công tác thi hành án hình sự trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ, chỉ ra những ưu điểm, kết quả đạt được; những hạn chế, thiếu sót
cũng như thuận lợi, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế thiếu

sót và khó khăn vướng mắc đó trong công tác thi hành án hình sự; trên cơ sở đó đưa
ra những giải pháp nâng cao chất lượng công tác thi hành án hình sự trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn thi hành án hình sự
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong công tác thi
hành án hình sự, tập trung các vấn đề về thi hành án phạt tù, thi hành án treo và cải
tạo không giam giữ.
+ Về chủ thể: Chủ thể nghiên cứu ở đây là cơ quan thi hành án hình sự, tập
trung vào công tác thi hành án hình sự của lực lượng Công an nhân dân bao gồm:
Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện.
+ Về thời gian: Tác giả nghiên cứu, thu thập số liệu, tài liệu thực tiễn trong
khoảng thời gian 07 năm (từ năm 2011 đến 2017).

4


+ Về địa bàn: Công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác- Lênin;
phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh; Những quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm và thi hành
án hình sự ở nước ta.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Tác giả sẽ sử dụng tổng hợp các

phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: Điều tra khảo sát, phân tích, tổng hợp thống
kê; nghiên cứu điển hình, trao đổi khoa học; phương pháp chuyên gia, phỏng vấn,
phương pháp tổng kết... Tuy nhiên tập trung vào các phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp điều tra khảo sát, thống kê hình sự: Sử dụng phương pháp này
tác giả thực hiện 3 bước tiếp nối nhau, đó là: thu thập số liệu thống kê; hệ thống hóa
và tổng hợp các số liệu thống kê; phân tích số liệu thống kê theo các tiêu chí đánh
giá của tội phạm học về mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đối với đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình, đối chiếu so sánh: Sử dụng phương
pháp này, tác giả thực hiện 2 bước tiếp nối nhau; bước 1 là: lựa chọn điển hình để
nghiên cứu; bước 2 là: phân tích, tổng hợp trực tiếp các điển hình; so sánh rút ra các
kết luận phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài đã hệ thống lại toàn bộ lý luận về hoạt động của lực
lượng Công an trong hoạt động thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ. Đồng
thời đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm hoạt động của lực lượng
Công an tỉnh Phú Thọ trong thi hành án hình sự.
Kết quả nghiên cứu có thể khai thác, sử dụng trong quá trình nghiên cứu
giảng dạy, học tập ở các nhà trường và Viện nghiên cứu về pháp luật.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài xuất phát từ những yêu cầu của
thực tiễn và tập trung giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Do vậy, kết quả nghiên

5


cứu đề tài có tác dụng góp phần giúp địa phương chỉ đạo thực tiễn, nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành án hình sự trên địa bàn cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Phú Thọ
nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành án hình sự.
Chương 2: Thực trạng thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, ý nghĩa của thi hành án hình sự
1.1.1. Khái niệm về thi hành án hình sự
Trước hết, để làm rõ khái niệm thi hành án hình sự, cần tìm hiểu thi hành án
là gì? Thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được tiến hành theo thủ tục trình tự pháp luật quy định, nhằm thực hiện các bản án
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án. Thi hành án, xuất phát từ thuật ngữ
gốc là “Thi hành”.
Từ điển Hán - Việt của tác giả Đào Duy Anh, thì “thi hành” là: “Đem cái việc
đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả"[1, tr.791] . Như vậy thi hành án có thể
được hiểu là đem bản án của Tòa án ra thi hành trên thực tế cho có hiệu quả; còn thi
hành án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án về hình sự đã có hiệu
lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Điều này có ý nghĩa chỉ các bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực và đang có hiệu lực mới được đem thi hành. Đó là các bản
án, quyết định hình sự đã được qui định tại Điều 255 Bộ luật tố tụng Hình sự năm
2003 nhưng chưa quá thời hiệu thi hành bản án theo qui định tại Điều 55 Bộ luật
Hình sự năm 1999 trước đây; nay được quy định tại Điều 255 Bộ luật Tố tụng Hình
sự năm 2015 về việc đưa vụ án ra xét xử theo Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017). Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; những bản án và quyết định của
Tòa án cấp phúc thấm; những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái

thẩm. Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cũng có quy định tương tự là: “Bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành bao gồm bản án
hoặc phần bản án của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình
tự phúc thẩm; bản án của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái
thấm của Toà án” [33].
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, những bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không có nghĩa là được thi hành ngay mà còn

7


phải thông qua một thủ tục hành chính, đó là việc Chánh án Tòa án đã xét xử sơ
thẩm vụ án hoặc được ủy quyền phải ra một văn bản quyết định thi hành án thì mới
được thi hành. Qui định này cho thấy, việc thi hành án hình sự không chỉ phụ thuộc
vào pháp luật tố tụng hình sự mà còn phụ thuộc vào các quy định hành chính, thông
qua thủ tục hành chính. Thi hành bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật là một hoạt động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực, từ việc
thi hành các hình phạt chính như cảnh cảo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có
thời hạn, chung thân, tử hình đến các hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số
quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính);
các biện pháp tư pháp như tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa
bệnh; các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng [40]. Xung quanh bản
chất pháp lý của thi hành án hình sự đã có một số quan điểm khác nhau, thậm chí
trái ngược nhau của các học giả trong và ngoài nước như: “Thi hành án hình sự là
một giai đoạn đặc biệt của tố tụng hình sự", bởi vì nó được qui định trong pháp luật
tố tụng hình sự hoặc chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự và của các
ngành luật khác. Ngoài ra, còn có một quan điển nữa mà đại diện là GS.TS Đào Trí

Úc và GS.TS Đỗ Ngọc Quang cũng như của nhiều nhà khoa học luật cho rằng “thi
hành án hình sự là một lĩnh vực hành chính - tư pháp độc lập”, ngành luật thi hành
án hình sự điều chỉnh [18]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này của GS.TS Đào
Trí Úc và GS.TS Đỗ Ngọc Quang, bởi lẽ thi hành án hình sự về bản chất và nội
dung khác với hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự là quá trình làm
rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự, xác định chân lý để áp dụng việc định đoạt
hình phạt hay không áp dụng hình phạt trong các bản án hay quyết định của Tòa án.
Thực chất hoạt động tố tụng hình sự là chứng minh chân lý để áp dụng công lý và
phải tuân theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự. Cũng cần
phải bổ sung thêm rằng: Ngành luật thi hành án hình sự thực chất là pháp luật hành

8


chính - tư pháp. Thực chất của hoạt động thi hành án hình sự là việc tổ chức thi
hành các hình phạt, biện pháp tư pháp được qui định trong các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là việc thực thi công lý trên cơ sở chân lý
đã được hoạt động tố tụng hình sự chứng minh. Như vậy, nguyên tắc trình tự, thủ
tục thi hành án hình sự khác với nguyên tắc trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Hoạt
động thi hành án hình sự mặc dù có quan hệ chặt chẽ với pháp luật hình sự, pháp
luật tố tụng hình sự nhưng thuộc phạm trù chấp hành do pháp luật hành chính điều
chỉnh, cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Nội dung thi hành án hình sự rất
rộng, bao gồm: thủ tục, chế độ, tổ chức thi hành án, áp dụng các biện pháp hành
chính, giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội và thực hiện chế độ chính sách đối với người
bị kết án [40]. Các quan hệ xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp
hành hình phạt như: Việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành,
tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thi hành án; Luật Thi hành án
hình sự năm 2010 ngoài những quy định trên còn qui định về quyền và nghĩa vụ của
người chấp hành án; nghĩa vụ của cơ quan nhà nước hữu quan... do pháp luật hành
chính - tư pháp, hay nói cách khác, do pháp luật thi hành án hình sự điều chỉnh. Từ

những vấn đề nêu trên có thể hiểu:
Thi hành án hình sự là hoạt động thực hiện bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật của các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án theo một
trình tự thủ tục do pháp luật quy định, thể hiện qua việc quản lý, tổ chức các biện
pháp tác động đối với người bị kết án hình sự buộc họ phải thi hành đầy đủ, nghiêm
chỉnh những nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật đã quy định cụ thể đối với hình phạt mà
họ bị Tòa án tuyên, nhằm mục đích quản lý, giáo dục, cải tạo họ thành người lương
thiện có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc xã hội chủ
nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới [40].
1.1.2. Đặc điểm về thi hành án hình sự
Thời điểm hoạt động thi hành án, được diễn ra ngay sau khi bản án quyết
định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể nói không có kết quả của
hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, thi hành án

9


lại không phải là giai đoạn tố tụng (cuối cùng); bản án và quyết định của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật không phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi
hành án; thi hành án đòi hỏi những nguyên tắc, thủ tục và cách thức hoạt động
riêng. Ví dụ, để có thể tiến hành các hoạt động thi hành án thì phải có quyết định thi
hành án và phải dựa trên những quy định cụ thể về thi hành án...
Thi hành án là dạng hoạt động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến
hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các các bản án và quyết
định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, ở đây tính chất chấp hành trong
thi hành án có những nét riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó chủ yếu do cơ quan tư
pháp (theo nghĩa rộng) hay đối tượng phải thi hành án tiến hành; thứ hai, cơ sở để tiến
hành các hoạt động thi hành án bao gồm các quy định của pháp luật (được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết định của toà án (văn bản áp
dụng pháp luật) đã có hiệu lực pháp luật; thứ ba, mục đích cuối cùng của hoạt động

thi hành án là bảo đảm cho các nội dung của các bản án, quyết định của toà án đã có
hiệu lực pháp luật được thực thi chứ không phải là ra các văn bản áp dụng pháp luật
hoặc các quyết định có tính điều hành, nét đặc trưng của cơ quan hành chính [39].
Thi hành án là dạng hoạt động có tính quản lí vì thi hành án luôn đòi hỏi
các yếu tố kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lí... nhằm tác động tới các đối
tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ
phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của toà án,
phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp
luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước và trở thành người
lương thiện (đối với những người bị kết án phạt tù). Ở đây, tính chất quản lí cũng có
đặc trưng riêng về chủ thể quản lí, đối tượng và khách thể quản lí; phạm vi và
phương pháp quản lý...
Thi hành án kết hợp giữa phương pháp thuyết phục, giáo dục và cưỡng chế,
mệnh lệnh bắt buộc. Trong thi hành án, phương pháp thuyết phục, giáo dục có ý
nghĩa quan trọng nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi hành có tính
chất đặc thù (trong thi hành án hình sự đó là phương pháp chủ yếu và có tính tiên

10


quyết). Điều này xuất phát từ tính chất của thi hành án như đã nêu ở trên. Ngay cả
trong trường hợp người phải thi hành án tự nguyện thực thi hành nghĩa vụ của mình
thì cũng là vì họ hiểu rằng toà án đã phán xét, sự thực đã được làm sáng tỏ (nghĩa là
trước đó họ đã không tự nguyện) và nếu không thi hành thì họ sẽ phải chịu các biện
pháp cưỡng chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Chủ thể tham gia thi hành án hình sự bao gồm nhiều cơ quan chức năng,
trên cơ sở quy định của pháp luật. Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành
án, nhất là trong việc tổ chức thi hành các bản án và quyết định của toà án có những
nội dung phức tạp. Thực tế đã cho thấy rõ, trong thi hành án vai trò của các cơ quan
tư pháp là rất quan trọng, nhất là các cơ quan thi hành án nhưng trong nhiều trường

hợp nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp với cơ quan hành
pháp và có sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng thì việc thi hành các bản án phức tạp
khó đạt được kết quả tốt.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động thi hành án hình sự
Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm đưa
một bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành trên thực tế. Đây là một công việc có
nhiều khó khăn, phức tạp nhằm thực thi công lý, đem lại công bằng cho xã hội, bảo
vệ an ninh quốc gia. Nếu mục đích của thi hành án hình sự không đạt được thì mọi
bản án, quyết định của Tòa án cũng chỉ nằm trên giấy tờ. Chính vì vậy, ý nghĩa của
hoạt động thi hành án hình sự được thể hiện qua mấy điểm sau:
Một là, bảo đảm bản án, quyết định Tòa án có lực được thi hành một cách
nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Từ đó có thể bảo đảm công lý, công bằng cho xã hội,
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
Hai là, ngoài tính trừng trị, thi hành án hình sự còn có ý nghĩa giáo dục, cải
tạo người bị kết án để họ không phạm tội mới và trở thành người có ích cho xã hội.
Ngoài ra, tạo mọi điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng, giảm thiểu tình trạng tái
phạm tội sau khi chấp hành án. Điều mang ý nghĩa hết sức quan trọng trong công
tác thi hành án hình sự, chính vì vậy cần thiết phải có sự vào cuộc của tất cả các sở,
ban, ngành địa phương, gia đình và toàn thể cộng đồng xã hội.

11


Ba là, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân để nhằm phòng ngừa tội
phạm, khuyến khích nhân dân tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Ngoài ra, hạn chế sự kì thị của người dân với những người chấp hành xong
án phạt trở về địa phương cư trú và làm việc.
1.1.4. Chủ thể và quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án hình sự với cơ
quan được giao một số nhiệm vụ có liên quan đến thi hành án hình sự

- Cơ quan quản lý thi hành án hình sự
Cơ quan quản lý thi hành án hình sự trong công an được quy định tại Điều
10, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 là cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc
Bộ Công an.
Trước đây, căn cứ Nghị định số 106/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Công an, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an là Tổng cục Cảnh
sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII).
Cơ cấu tổ chức của Tổng cục VIII gồm: Cục Tham mưu (C82); Cục Theo dõi
thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (C83); Cục Tạm giam, tạm giữ (C84); Cục
Quản lý phạm nhân, trại viên (C85); Cục Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng
(C86); Cục Hậu cần - Kỹ thuật (C87); Thanh tra Tổng cục (C88); Cục Chính trị
(C90); Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ (C91); Các Trại giam, cơ sở
giáo dục bắt buộc, Trường giáo dưỡng trực thuộc Tổng cục.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ
Công an được quy định tại Điều 11, Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
- Cơ quan thi hành án hình sự
Cơ quan thi hành án hình sự gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an, cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
(theo Khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2010).
+ Trại giam
+ Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh
+ Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện

12


Hiện nay tổ chức bộ máy Công an đã được tinh giản theo tinh thần Nghị quyết số
22-NQ/TW ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy.
Theo đó Thủ tướng Chính phủ cũng ra Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày 06/8/2018 quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an.
Công tác thi hành án được tập trung nhiệm vụ vào 2 Cục nghiệp vụ mới là:
+ Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dưỡng bắt buộc, trường giáo dưỡng
+ Cục Cảnh sát quản lý tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự tại cộng đồng.
Hiện nay 2 Cục này đang hoàn thiện tổ chức bộ máy cấp phòng. Tuy nhiên
về chức năng nhiệm vụ thi hành án vẫn được tiến hành cơ bản như trước đây [19].
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh
1. Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án
hình sự trên địa bàn cấp tỉnh:
a) Chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành án hình sự đối với trại
tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;
b) Tổng kết công tác thi hành án hình sự và thực hiện chế độ thống kê, báo
cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an.
2. Tiếp nhận quyết định thi hành án hình sự của Tòa án có thẩm quyền; hoàn
tất thủ tục, hồ sơ và danh sách người chấp hành án phạt tù để báo cáo, đề nghị cơ
quan, người có thẩm quyền quyết định.
3. Đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định tạm đình chỉ chấp
hành án phạt tù, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
4. Tổ chức thi hành án trục xuất; tham gia thi hành án tử hình; quản lý số
phạm nhân phục vụ việc tạm giam, tạm giữ theo quy định của Luật Thi hành án
hình sự năm 2010.
5. Ra quyết định truy nã và phối hợp tổ chức lực lượng truy bắt phạm nhân
bỏ trốn khỏi trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện,
người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người chấp hành án phạt trục
xuất bỏ trốn.
6. Quyết định trích xuất hoặc thực hiện lệnh trích xuất theo yêu cầu của cơ
quan, người có thẩm quyền.

13



7. Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt theo thẩm quyền.
8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án hình sự theo quy định của Luật Thi
hành án hình sự năm 2010.
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật Thi hành án
hình sự năm 2010 [33].
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
1. Giúp Trưởng Công an cấp huyện quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án
hình sự trên địa bàn cấp huyện:
a) Hướng dẫn nghiệp vụ công tác thi hành án hình sự theo thẩm quyền đối với
Ủy ban nhân dân cấp xã; chỉ đạo, kiểm tra Công an cấp xã trong việc giúp Uỷ ban nhân
dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ thi hành án hình sự theo quy định của Luật Thi hành án
hình sự năm 2010;
b) Thực hiện thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý thi hành
án hình sự thuộc Bộ Công an.
2. Tiếp nhận bản án, quyết định thi hành án, các tài liệu có liên quan, lập hồ
sơ thi hành án để chuyển giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã thi hành án phạt cải tạo
không giam giữ, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định, tước một số quyền công dân, quản chế và án treo theo quy định
của Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
3. Áp giải thi hành án đối với người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại,
được hoãn, tạm đình chỉ.
4. Trực tiếp quản lý số phạm nhân phục vụ tại nhà tạm giữ.
5. Tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án phạt tù đang ở nhà
tạm giữ và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh.
6. Lập hồ sơ và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh để đề
nghị cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa người
bị kết án phạt tù đang ở nhà tạm giữ, được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án đi chấp
hành án; đề nghị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định truy nã đối với người trốn thi
hành án phạt tù.


14


7. Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt theo thẩm quyền.
8. Quyết định trích xuất hoặc thực hiện lệnh trích xuất theo yêu cầu của cơ
quan, người có thẩm quyền.
9. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án hình sự theo quy định của Luật Thi
hành án hình sự năm 2010.
10. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật Thi hành án
hình sự 2010 [33].
- Cơ quan được giao một số nhiệm vụ liên quan đến thi hành án hình sự
a) Trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại
tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu;
b) Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã);
c) Đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương.
4. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết tổ
chức bộ máy của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự [33].
Nhiệm vụ, quyền hạn của những cơ quan trên được quy định cụ thể trong Luật
Thi hành án hình sự năm 2010.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về thi hành án hình sự
1.2.1. Thi hành án phạt tù
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 3, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy
định: “Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của
Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở
thành người có ích cho xã hội’’[33]. Có nghĩa là buộc một người bị kết án phải chấp
hành hình phạt trong trại giam. Những người này bị tước bỏ quyền tự do nhất định và
bị cách ly khỏi xã hội trong một thời gian theo quyết định của bản án đã được tuyên
để thực hiện mục đích của hình phạt đó là bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Ngoài
việc trừng trị người bị kết án, thi hành án phạt tù còn nhằm giáo dục người đó trở nên

có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Chính vì vậy, thi hành án phạt tù có
một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Có nghĩa là, việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để

15


thực hiện trình tự, thủ tục theo luật định nhằm đưa những người bị kết án đi chấp
hành hình phạt tại trại giam và giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội.
Thứ hai, là hoạt động mang tính thủ tục pháp lý, tức là mọi hoạt động liên
quan đến thi hành án phạt tù đều phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục được
pháp luật quy định.
Thứ ba, thi hành án phạt tù là hoạt động mang tính định hướng. Ngoài mục
đích trừng trị người bị kết án, người chấp hành án phạt tù tại trại giam còn được học
tập, lao động nhằm giáo dục họ trở thành người tốt, ngăn chặn người đó phạm tội
mới và giúp đỡ họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi ra tù [38,tr.71].
- Trình tự, thủ tục thi hành án phạt tù
Để đưa một người bị kết án đến trại giam để thực hiện án phạt tù theo quy
định của pháp luật thì phải trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau, đầu tiên là việc ra
quyết định thi hành án sau đó là thi hành quyết định thi hành án, cuối cùng là đưa
người bị kết án đến nơi giam giữ để chấp hành án.
+ Trình tự thủ tục đưa bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành
Để đưa bản án phạt tù đã có hiệu lực ra thi hành, trước hết cần phải có quyết
định thi hành án phạt tù. Theo Điều 364, Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy rất
rõ về thẩm quyền ra quyết định thi hành bản án thuộc về Chánh án Tòa án đã xét xử
sơ thẩm vụ án đó hoặc Chánh án đó ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra
quyết định thi hành án phạt tù.
Về trình tự, tủ tục ra quyết định thi hành bản án là 07 ngày kể từ khi bản án,
quyết định sơ thẩm về án phạt tù có thời hạn có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày

nhận được bản án phạt tù của cấp phúc thẩm, quyết định của cấp giám đốc thẩm, tái
thẩm (Khoản 2, Điều 364, BLTTHS năm 2015) [36].
Theo Điều 21, Luật Thi hành án hình sự năm 2010, nội dung quyết định thi
hành án phạt tù phải ghi rõ họ tên, chức vụ người ra quyết định; bản án, quyết định
được thi hành; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án; họ tên,
ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị kết án; thời hạn chấp hành án phạt tù,
thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung. Trường hợp người bị kết án đang tại ngoại,
quyết định thi hành án phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được

16


quyết định, người bị kết án phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện nơi người đó cư trú, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người đó
làm việc.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án phạt tù
và hình phạt bổ sung, Tòa án đã ra quyết định phải gửi quyết định thi hành án cho
cá nhân, cơ quan sau đây:
a) Người chấp hành án;
b) Viện kiểm sát cùng cấp;
c) Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự
cấp quân khu;
d) Trại tạm giam nơi người phải chấp hành án đang bị tạm giam;
đ) Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành
án đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ hoặc đang tại ngoại;
e) Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở [33].
Sau khi Toà án ra quyết định thi hành án phạt tù, thì cơ quan thi hành án hình
sự có trách nhiệm thi hành quyết định đó. Theo Điều 22, Luật Thi hành án hình sự
năm 2010 quy định:
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang bị tạm giam thì trong thời hạn 03

ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, trại tạm giam thuộc
Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải tống đạt
quyết định thi hành án cho người bị kết án và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo,
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh hồ sơ, lập danh sách người
chấp hành án phạt tù để báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công
an. Trường hợp người bị kết án phạt tù đang bị tạm giam tại trại tạm giam thuộc Bộ
Công an thì trại tạm giam phải tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án,
hoàn chỉnh hồ sơ và báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoặc trại tạm giam thuộc Bộ Công an, cơ quan

17


quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa người chấp hành án
đi chấp hành án [33].
+ Trình tự, thủ tục đưa người bị kết án đến nơi chấp hành án phạt tù
Người bị kết án phạt tù được đưa đến trại giam của Bộ Công an, trại tạm giam
Công an tỉnh hoặc nhà tạm giữ. Cơ quan quản lý thi hành án, cơ quan thi hành án hình
sự có trách nhiệm hoàn chỉnh hồ sơ đưa người bị kết an đến nơi chấp hành án phạt tù.
Theo quy định tại Điều 25, Luật Thi hành án hình sự năm 2010, thì hồ sơ đưa
người bị kết án đến nơi chấp hành án phạt tù phải có đầy đủ giấy tờ sau:
a) Bản án đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm thì phải có bản án sơ thẩm kèm theo;
b) Quyết định thi hành án phạt tù;
c) Quyết định của cơ quan quản lý thi hành án hình sự đưa người chấp hành án
phạt tù đến trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;
d) Danh bản của người chấp hành án phạt tù;
đ) Bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ chứng minh quốc tịch đối với người chấp

hành án phạt tù là người nước ngoài;
e) Phiếu khám sức khoẻ và các tài liệu khác có liên quan đến sức khoẻ của
người chấp hành án phạt tù;
g) Bản nhận xét việc chấp hành nội quy, quy chế tạm giam đối với người
chấp hành án đang bị tạm giam;
h) Các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án phạt tù [33].
Sau khi hoàn thiện hồ sơ của người bị kết án, cơ quan có thẩm quyền chuyển
hồ sơ cho nơi tiếp nhận người chấp hành án đó là trại giam, trại tạm giam hoặc nhà
tạm giữ. Cơ quan tiếp nhận người bị kết án phải tiến hành đối chiếu hồ sơ, sau đó tổ
chức khám sức khỏe cho người bị kết án để lưu hồ sơ. Theo khoản 2, Điều 26, Luật
Thi hành án hình sự năm 2010 quy định việc phổ biến cho phạm nhân một số nội
dung sau:
Chỉ được đưa vào buồng giam những đồ dùng cần thiết; trường hợp có tư
trang chưa dùng đến, có tiền mặt thì phải gửi trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi

18


hành án hình sự Công an cấp huyện quản lý; trường hợp phạm nhân có nhu cầu
được chuyển số tiền, đồ dùng, tư trang cho thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp
và tự chịu chi phí thì trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện có trách nhiệm thực hiện việc chuyển hoặc giao trực tiếp cho người đó
tại nơi chấp hành án;
Không được sử dụng tiền mặt, giấy tờ có giá tại nơi chấp hành án. Việc
phạm nhân mua lương thực, thực phẩm và các hàng hóa khác để phục vụ đời sống,
sinh hoạt tại nơi chấp hành án được thực hiện bằng hình thức ký sổ;
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận người chấp hành án,
trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải thông
báo cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án, thân nhân của người chấp hành án phạt
tù biết và báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự [33].

Ngoài ra, trong Luật Thi hành án hình sự năm 2010 còn quy định rất chi tiết
về chế độ học tập, học nghề và được thông tin của phạm nhân; chế độ lao động của
phạm nhân…
- Trả tự do cho người chấp hành xong án phạt tù
Sau khi phạm nhân chấp hành xong án phạt tù thì cơ quan có thẩm quyền
phải có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù và trả tự do cho
phạm nhân được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Thông tư liên tịch 04/2013/TTLTBCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thực hiện trích xuất phạm nhân để
phục vụ điều tra, truy tố, xét xử. Cụ thể là:
Hai tháng trước khi phạm nhân được trích xuất hết thời hạn chấp hành án
phạt tù (bản án mà phạm nhân đang chấp hành), trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ
Công an hoặc cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án
hình sự cấp quân khu nơi giao phạm nhân trích xuất phải gửi thông báo ngày phạm
nhân chấp hành xong án phạt tù theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Thi hành án
hình sự năm 2010. Vào ngày cuối cùng của thời hạn chấp hành án phạt tù, trại
giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi giao phạm nhân được trích

19


xuất phải cấp giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù cho người được trích
xuất và thông báo cho cơ quan nhận người được trích xuất, cơ quan có liên quan.
Cơ quan nhận người được trích xuất có trách nhiệm trả tự do ngay cho người đó
theo quy định tại Điều 40 Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
Trường hợp đang trong thời hạn trích xuất phạm nhân phục vụ công tác điều
tra, truy tố, xét xử mà thời gian thi hành án đối với phạm nhân đang được trích xuất
sắp hết thì cơ quan nơi giao phạm nhận trích xuất phải thông báo bằng văn bản ngày
phạm nhân chấp hành xong hình phạt tù cho cơ quan nhận phạm nhân trích xuất
trong thời hạn hai tháng trước khi phạm nhân hết thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Cơ quan giao phạm nhân được trích xuất phải cấp giấy chứng nhận chấp

hành xong án phạt từ cho người được trích xuất vào giây cuối cùng của thời hạn
chấp hành án phạt tù. Đồng thời cơ quan nhận phạm nhân trích xuất phải ngay lập
tức trả tự do cho người đó.
Ngoài ra, Ủy ban nhân dân cấp xã phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền thường xuyên quan tâm, động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho người
được trả tự do về địa phương sinh sống; thực hiện đầy đủ chế độ về lương hưu, trợ
cấp xã hội, bảo hiểm thất nghiệp…
- Trình tự, thủ tục giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành án phạt tù
+ Thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
Đối với cấp tỉnh cơ quan có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án
phạt tù là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh. Cơ quan này có trách
nhiệm lập hồ sơ gửi Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi phạm nhân đang chấp hành án để
xem xét và ra quyết định. Theo Khoản 2, Điều 33, Luật Thi hành án hình sự năm
2010 thì hồ sơ gồm: Bản sao bản án; trường hợp xét giảm án từ lần hai thì bản sao
bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án; văn bản của cơ quan có thẩm
quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; kết quả xếp loại chấp hành án
phạt tù hàng tháng, quý, 06 tháng, năm; quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền về phạm nhân lập công; kết luật của bệnh viện đối với

20


×