Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Marketing hiện đại là gì, ứng dung phân tích nhu cầu sử dụng sản phẩm ô tô trên thị trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.79 KB, 14 trang )

MARKETING HIỆN ĐẠI LÀ GÌ, ỨNG DUNG PHÂN TÍCH
NHU CẦU SỬ DỤNG SẢN PHẨM Ô TÔ TRÊN THỊ
TRƯỜNG HIỆN NAY
1. Marketing
1.1 Marketing là gì
Có nhiều cách định nghĩa Marketing khác nhau. Marketing là quá trình tổ
chức lực lượng bán hàng nhằm bán được những hàng hóa do công ty sản xuất
ra. Marketing là quá trình quảng cáo và bán hàng. Marketing là quá trình tìm
hiểu và thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Hay Marketing là làm thị trường,
nghiên cứu thị trường để thỏa mãn nó.
Chúng ta cũng có thể hiểu rằng Marketing là các cơ chế kinh tế và xã hội
mà các tổ chức và cá nhân sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của
mình thông qua quy trình trao đổi sản phẩm trên thị trường.

Theo Philip Kotler thì marketing được hiểu như sau: Marketing là một
quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được
những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi
những sản phẩm có giá trị với những người khác.

1


Khái niêm này của marketing dựa trên những khái niệm cốt lõi: nhu cầu,
mong muốn và yêu cầu, sản phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng, trao đổi, giao
dịch và các mối quan hệ, thị trường, marketing và những người làm marketing.
1.2 Bản chất của Marketing trong thế kỷ 21
Tư duy marketing bắt đầu từ những nhu cầu và mong muốn thực tế của
con người. Người ta cần thức ăn, không khí, nước, quần áo và nơi ở để nương
thân. Ngoài ra người ta còn rất ham muốn được nghỉ ngơi, học hành và các dịch
vụ khác. Họ cũng có sự ưa chuộng những mẫu mã và nhãn hiệu cụ thể của
những hàng hoá dịch vụ cơ bản. Những điểm khác biệt nêu trên đã làm sáng tỏ


những ý kiến phê bình thường thấy của những người lên án marketing là
“những người làm marketing tạo ra nhu cầu” hay “những người làm marketing
dụ dỗ mọi người mua những thứ mà họ không mong muốn”. Những người làm
marketing không tạo ra nhu cầu, nhu cầu đã tồn tại trước khi có những người
làm marketing.
Cùng với những yếu tố ảnh hưởng khác trong xã hội, những người làm
marketing có tác động đến những mong muốn. Tuy nhiên những người làm
marketing không tạo ra nhu cầu về địa vị xã hội. Họ tác động đến yêu cầu bằng
cách làm ra sản phẩm thích hợp, hấp dẫn, vừa túi tiền và dễ kiếm cho những
người tiêu dùng mục tiêu.
Việc con người có những nhu cầu và mong muốn và có thể gắn cho các
sản phẩm một giá trị vẫn chưa nói lên hết được ý nghĩa của marketing.
Markerting xuất hiện khi người ta quyết định thoả mãn những nhu cầu và mong
muốn thông qua trao đổi. Trao đổi là một trong bốn cách để người ta có được
các sản phẩm.
Marketing phát sinh từ phương thức kiếm sản phẩm. Trao đổi là hành
động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người nào đó bằng cách đưa
cho người đó những thứ gì đó. Trao đổi là một khái niệm quyết định, tạo nền
móng cho marketing.

2


Theo ý nghĩa chung nhất thì người làm marketing đang tìm cách tạo cho
được hành vi phản ứng từ phía bên kia. Một công ty kinh doanh thì muốn phản
ứng đó là hành vi mua hang, một ứng viên chính trị thì muốn phản ứng đó là
hành vi bỏ phiếu, nhà thờ thì muốn phản ứng đó là hành vi theo đạo, nhóm hoạt
động xã hội thì muốn phản ứng đó là hành vi chấp nhận ý tưởng của mình.
Marketing


bao

gồm

những

hoạt

động được tiến hành nhằm tạo ra những phản ứng mong muốn đối với một đối
tượng từ phía công chúng mục tiêu.

Để đảm bảo các cuộc trao đổi diễn ra trôi chảy, người làm marketing phải
phân tích xem mỗi bên dự kiến sẽ cho và nhận cái gì. Những tình huống trao đổi
giản đơn có thể biểu diễn bằng một hồ sơ trong đó có hai người tham gia cùng
những thứ mong muốn và lời mời chào lưu thông giữa họ.
Đến đây ta đã thấy bản chất của marketing giao dịch. Maketing giao dịch
là một bộ phận ý tưởng lớn hơn là marketing quan hệ. Những người làm
marketing khôn ngoan đều cố gắng xây dựng những quan hệ lâu dài, đáng tin
cậy, cùng có lợi với những khách hàng lớn, những người phân phối, đại lý và
những người cung ứng. Việc này được thực hiện bằng cách hứa hẹn và luôn
đảm bảo chất lượng cao, dịch vụ chu đáo và giá cả phải chăng cho phía bên kia.
Nhiệm vụ đó cũng được thực hiện bằng cách xây dựng những mối quan hệ ràng
buộc chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật và xã hội với các bên đối tác. Marketing quan
3


hệ sẽ làm giảm được chi phí và thời gian giao dịch và trong những trường hợp
tốt đẹp nhất giao dịch sẽ làm chuyển từ chỗ phải thương lượng từng lần sang
chỗ trở thành công việc thường lệ.


Kết quả cuối cùng của marketing quan hệ là hình thành được một tài sản
độc đáo của công ty, gọi là mạng lưới marketing bao gồm công ty và những
người cung ứng, những người phân phối và khách hàng của mình mà công ty đã
xây dựng được những mối quan hệ vững chắc, tin cậy trong kinh doanh.
Marketing ngày càng có xu hướng chuyển từ chỗ cố gắng tăng tối đa lợi nhuận
trong từng vụ giao dịch sang chỗ tăng tối đa những mối quan hệ đôi bên cùng có
lợi với các đối tác. Nguyên tắc làm việc là phải xây dựng được những mối quan
hệ tốt rồi tự khắc các vụ giao dịch sẽ có lợi.
2. Phân tích sản phẩm xe ô tô
2.1 Phân tích nhu cầu sử dụng ô tô
Trong buổi hội thảo Chính sách công nghiệp ôtô diễn ra sáng nay tại TP
HCM, Thứ trưởng Công nghiệp Đỗ Hữu Hào khẳng định, thị trường tới đây sẽ
rất triển vọng. Hiện tại mức sử dụng ôtô ở Việt Nam mới chỉ là 5,3 chiếc/1.000
người và dự đoán 2 năm tới cần thêm 83.000 ôtô các loại.
Theo ông Hào, có 4 lợi thế chứng tỏ triển vọng của thị trường ôtô Việt
Nam. Đầu tiên là chính sách khuyến khích sử dụng phương tiện giao thông công
4


cộng của Chính phủ. Tiếp đó, lượng ôtô được sử dụng so với dân số hiện nay
quá thấp; nhu cầu sử dụng xe chuyên dụng giá thấp tăng nhanh và nhu cầu vận
chuyển hàng hóa lớn. Vì vậy, ông Hào cho rằng, mặc dù cơ sở hạ tầng yếu kém,
thu nhập bình quân đầu người thấp nhưng chắc chắn nhu cầu sử dụng ôtô của
Việt Nam từ nay đến 2010 sẽ tăng rất mạnh.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Công nghiệp Nguyễn Xuân Chuẩn lại băn khoăn,
số lượng các công ty liên doanh trong lĩnh vực ôtô như hiện nay là quá nhiều.
Tỷ lệ quá trình nội địa hóa diễn ra chậm trong khi nhà cung cấp linh, phụ kiện
quá ít hoặc mới chỉ cung cấp những chi tiết không quan trọng của ôtô. Trong khi
đó, thời gian để thực hiện nội địa hóa không còn nhiều nếu như Việt Nam gia

nhập WTO trong năm 2005. Chính sách bảo hộ qua thuế của Nhà nước chưa
khuyến khích việc nội địa hoá, sản xuất ôtô trong nước. Hiện tại có rất nhiều
liên doanh không thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết nội địa hóa theo dự án
khi xin giấy phép đầu tư.
Ông Chuẩn nói: "Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chúng ta đã
không đúng khi yêu cầu các doanh nghiệp có vốn FDI đầu tư vào Việt Nam phải
nội địa hoá theo % chứ không theo chi tiết, bộ phận. Chính vì vậy mà tỷ lệ nội
địa hóa hiện nay của các liên doanh rất lắt nhắt". Ông khẳng định, tới đây sẽ có
5


chính sách rõ ràng với các doanh nghiệp này, từ đó xóa bỏ cản trở cho các liên
doanh thực sự có tiềm năng về tài chính, uy tín, công nghệ cũng như triển vọng
có điều kiện tồn tại và làm ăn lâu dài ở Việt Nam.
Bộ Công nghiệp khẳng định, hướng phát triển ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam sẽ là tập trung sản xuất các loại xe phổ thông, xe chuyên dụng theo
nhu cầu thực tế hiện nay, ưu tiên sản xuất phụ tùng ôtô, khuyến khích các ngành
công nghiệp phụ trợ phát triển. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ được giao các dự
án sản xuất động cơ ôtô thuộc chương trình cơ khí trọng điểm. Trước mắt sẽ
không phát triển thêm doanh nghiệp sản xuất xe cao cấp bởi giá của loại xe này
quá cao so với thu nhập bình quân của người dân Việt Nam.
2.2 Hành vi tiêu dùng xe ô tô
Số liệu bán hàng từ Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA)
cho biết, trong tháng 6/2007 lượng xe bán ra của các thành viên đạt 6.083 xe các
loại, tăng 510 xe so với tháng 5/2007.
Doanh nghiệp có lượng xe bán ra tăng mạnh nhất là công ty Toyota Việt
Nam. Tháng 6/2007 bán được 1.774 xe, tăng 283 xe so với tháng 5/2007
(1.536). Tất cảc các mẫu xe của Toyota Việt Nam đều có lượng bán ra tăng.
Mẫu Innova tháng 6/2007 bán được 1.034 xe, tăng 166 xe so với tháng 5/2007.
Tiếp đến là Vios có lượng bán ra đạt 259 xe tăng 52 xe so với tháng 5/2007,

Camry 2.4 bán được 159 xe, tăng 29 xe so với tháng 5/2007.
Tiếp đến là công ty Vidamco (GM-Daewoo) bán được 602 xe các loại,
tăng 32 xe so với tháng 5/2007, nhưng điều đáng ngạc nhiên là mẫu xe Captiva
đang bán rất chạy, nhưng không hiểu vì lý do gì mà số lượng giao cho khách
hàng giảm mạnh, chỉ có 237 trong khi tháng 5/2007 là 404 xe.
Vinastar (Mitsubishi) bán được 426 xe trong đó mẫu Grandis tăng đột
biến, từ 54 xe tháng 5 lên 122 xe tháng 6/2007. Ford Việt Nam cũng có lượng
bán ra tăng, tháng 6 bán được 431 xe trong khi tháng 5 là 314 xe. Mẫu xe
Everest 2007 bán khá chạy với 145 xe cho các dòng 4x2 (116 xe) và 4x4 (29

6


xe). Mẫu Transit bán được 170 xe dẫn đầu trong dòng xe thương mại 16 chỗ.
Honda Việt Nam bán được 333 xe, tăng 47 xe so với tháng 5/2006.
Trong lĩnh vực xe tải thì Công ty Trường Hải bán được 956 xe, tăng 26 xe
so với tháng 5/2007, còn Nhà máy ô tô Xuân Kiên (Vinaxuki) bán được 608 xe
tăng 4 xe so với tháng 5/2007.
Bên cạnh những doanh nghiệp có lượng xe bán ra tăng thì ngược lại cũng
có nhiều doanh nghiệp có lượng bán xe giảm. Công ty Mercedes Việt Nam có
lượng xe bán ra giảm, từ 221 xe trong tháng 5 xuống còn 193 xe tháng 6/2007.
Mẫu xe thương mại 16 chỗ Sprinter của doanh nghiệp này thường dẫn đầu trong
dòng xe thương mại 16 chỗ nay cũng phải "nhường ngôi" cho Ford Transit,
tháng 5 bán được 186 xe thì tháng 6 còn 158 xe.
VMC (Vietnam Motor Coporation) cũng có lượng bán ra giảm từ 84 xe
trong tháng 5 còn 65 xe trong tháng 6/2007. Mẫu xe giá rẻ Lifan 502 của doanh
nghiệp này tháng trước còn bán được 16 xe thì tháng 6/2007 còn 7 xe, Kia
Carnival cũng giảm từ 28 xe tháng 5 xuống còn 17 xe trong tháng 6/2007.

Các doanh nghiệp ô tô cho biết năng lực vận tải là nguyên nhân quan

trọng khiến họ giao xe cho khách hàng chậm. Hiện nay các doanh nghiệp ô tô
đều tăng sản lượng nhưng để vận chuyển xe từ nhà máy đi các địa phương đang
gặp khó khăn vì số xe rơ moóc của các doanh nghiệp vận tải chỉ có hạn. Một số
7


doanh nghiệp đã chuyển hình thức vận tải từ Bắc vào Nam bằng tàu biển, nhưng
thực tế vận tải biển cũng thiếu năng lực, nhiều mặt hàng như phân bón, than đá
cũng gặp khó khăn khi khả năng của các đội tàu có hạn.
3. Viral Marketing
3.1 Viral Marketing là gì
Viral marketing là gì? Nó được định nghĩa dựa trên nguyên tắc lan truyền
thông tin, cũng tương tự như cách thức virus lan truyền từ người này sang người
khác với tốc độ cấp số nhân.

Giống như cách thức lan truyền của một con virus. Hình thức quảng cáo
này bắt đầu từ giả thuyết một khách hàng luôn kể cho người khác nghe về sản
phẩm hoặc dich vụ của bạn mà khách hàng cảm thấy hài lòng khi sử dụng. Viral
Marketing mô tả chiến thuật khuyến khích một cá nhân nào đó lan truyền một
nội dung tiếp thị, quảng cáo đến những người khác, tạo ra một tiềm năng phát
triển theo hàm mũ sự lan truyền và ảnh hưởng của một thông điệp như những
con vi rút.
8


3.2 Bản chất của Viral Marketing
Viral Marketing là một hình thức Marketing áp dụng trên một cộng đồng
xã hội đang hiện hữu nhằm mục đích tạo nhận biết cho khách hàng hoặc đạt
được một mục tiêu trong kinh doanh nào đó.
Với phương pháp này nhà tiếp thị sẽ tạo được một hiện tượng trong xã

hội bằng cách khuyến khích các đối tượng truyền tải thông điệp một cách "tự
nguyện". Thông điệp chuyển tải có thể là một Video clip, câu chuyện vui, Flash
game, ebook, software, hình ảnh hay đơn giản là một đoạn text. Cho đến nay thì
chưa có ai tổng kết có bao nhiêu loại hình Viral Marketing.
Các chiến dịch như vậy đã lợi dụng vào sự nhân rộng nhanh chóng để
làm bùng nổ một thông điệp đến hàng ngàn, hàng triệu lần.
Nhưng để tạo ra một chiến dịch Viral Marketing có hiệu quả thì thật sự
không dễ chút nào, bạn cần phải làm cho “virus” của mình là duy nhất, lôi cuốn,
nó phải mang tính cá nhân và được truyền đi bằng sự cộng tác “đôi bên cùng có
lợi”…
Marketing virus và quảng cáo virus là những thuật ngữ nhằm ám chỉ các
kĩ thuật marketing sử dụng những mạng xã hội sẵn có để tác động và làm tăng
cường sự nhận biết nhãn hiệu của công chúng, thông quá các quá trình tự nhân
bản của virus, tương tự như quá trình tự nhân bản của virus máy tính.
Biện pháp Marketing này có thể là lời truyền miệng hoặc được trợ giúp
bởi các ảnh hưởng của mạng Internet. Marketing virus là hiện tượng marketing
tạo điều kiện và khuyến khích mọi người truyền đi thông điệp marketing của
chính công ty một cách tự nguyện và vô tình.

9


Chia sẻ thông tin là nhu cầu không thể thiếu của con người, họ chia sẻ với
nhau đủ loại thông tin, từ những thông tin liên quan đến công việc, giải trí, hay
về gia đình. Do đó nếu một thông tin, gây ra sự chú ý cho một người và nếu
người đó cảm thấy muốn chia sẻ thông tin thì ngay lập tức họ sẽ nghĩ đến những
mối quan hệ gần gũi của mình như đồng nghiệp, bạn bè, gia đình… Cứ như thế,
tùy thuộc vào mức độ gây ấn tương của thông tin mà thông tin đó được truyền
đi một cách nhanh chóng hoặc không được truyền đi. Giả sử thông tin được mọi
người quan tâm thì việc bùng nổ thông tin sẽ diễn ra một cách nhanh chóng. Ví

dụ: có tin đồn là Ngân hàng nhà nước Việt Nam sắp đổi tiền, nếu thông tin này
được phát ra từ một nhân viên có uy tín trong ngân hàng, ngay lập tức nó sẽ
được lan truyền nhanh chóng cho tất cả mọi người, từ cán bộ công chức, tới
những người bán hàng rong…
Để đảm bảo thông điệp marketing sẽ được mọi người truyền đi, nó phải
có những yếu tố khiến người nhận được nó không thể không gửi cho những
người khác. Những thông điệp mang tính hài hước, gây cười, gây sốc, hoặc đề
cập đến những vấn đề tế nhị trong xã hội như tình dục, sự phân biệt đối sử .v.v.
thường rất hay gây được sự chú ý, và là đề tài bàn tán của nhiều người. Hoặc
như trường hợp của Hotmail là chính bản thân sản phẩm.
Do đặc điểm của thông điệp marketing có tính lây lan cao kết hợp với sự
phát triển của công nghệ thông tin, như mạng internet, mạng truyền thông di
động nơi mà cho phép thông tin cùng lúc có thể được gửi cho hàng trăm, hàng
nghìn người. Tạo điều kiện cho tốc độ lan truyền thông điệp marketing tăng lên
theo hàm số mũ và nhanh chóng tạo ra sựu bùng nổ thông tin.
10


3.3 Ứng dụng Viral Marketing vào sản phẩm xe ô tô
3.3.1 Tìm hiểu nhu cầu của khách hàng
Khi tìm hiểu nhu cầu sử dụng xe ô tô của khách hàng. Điều này thì hầu
như không cần nõ lực lắm. Thật đơn giản đó là khi khách viếng thăm trang web
của bạn đăng ký nhận thông tin qua e-mail, hãy thêm dòng này vào "lời cảm ơn"
hoặc tin nhắn xác nhận : "Vui lòng dành một chút thời gian lúc này để giới thiệu
về bạn và cho tôi biết trở ngại lớn nhất của bạn. Bằng cách đó, chúng tôi có thể
chuyển thông tin thích hợp với nhu cầu của bạn". Bạn sẽ bất ngờ vì giá trị của
những thông tin mà họ cung cấp. Đừng bỏ qua cơ hội bắt đầu cuộc đối thoại hai
chiều rất quan trọng mà sẽ biến đổi họ từ người đọc qua thành người mua,
những người mua đã hài lòng và sẽ kể cho bạn bè của họ về bạn. Đây cũng
chính là cách đơn giản nhất thay cho việc thiết kế phiếu điều tra nhu cầu thị

trường xe ô tô của bạn.
3.3.2 Tham gia triển lãm xe ô tô
11


Tham gia triển lãm xe ô tô sẽ là cầu nối để người tiêu dùng biết đến sản
phẩm xe ô tô của bạn. Đừng bỏ lỡ quan cơ hội này. Các mẫu xe mới cùng với
các tính năng của nó, các ưu điểm nổi bật và hình ảnh về kiểu dáng xe sẽ được
giới báo trí săn đón và bản tin về nó sẽ được đưa lên các trang báo trong ngày
hôm sau.
Để tăng thêm hiệu quả truyền bá thông tin, khi tham gia triển lãm, cần
thuê những giới nghệ sĩ nổi tiếng, các dàn người mẫu để tăng độ sang trọng, lịch
sự cũng như thu hút sự chú ý của đông đảo người theo dõi.

3.3.3 Phát tán các Clip quảng cáo xe hay để gây hiệu ứng
Để đạt được hiệu quả cao và tránh cảm giác đang xem quảng cáo, người
thực hiện chiến dịch phải xây dựng nội dung thật tự nhiên, hài hước, chứa đựng
những điều ngạc nhiên, thú vị khiến người xem thích thú đến mức muốn gửi
ngay cho bạn bè. Những chiến dịch này có thể gây ra nhiều phản ứng trái chiều
với đủ những khen - chê, thán phục - nghi ngờ nhưng vẫn đạt được mục đích
ban đầu: càng nhiều người biết đến thương hiệu càng tốt.

12


MỤC LỤC
1. Marketing.........................................................................................................2
1.1 Marketing là gì...............................................................................................2
1.2 Bản chất của Marketing trong thế kỷ 21........................................................2
2. Phân tích sản phẩm xe ô tô..............................................................................5

13


2.1 Phân tích nhu cầu sử dụng ô tô......................................................................5
2.2 Hành vi tiêu dùng xe ô tô...............................................................................6
3. Viral Marketing................................................................................................8
3.1 Viral Marketing là gì......................................................................................8
3.2 Bản chất của Viral Marketing........................................................................8
3.3 Ứng dụng Viral Marketing vào sản phẩm xe ô tô.........................................11
3.3.1 Tìm hiểu nhu cầu của khách hàng.............................................................11
3.3.2 Tham gia triển lãm xe ô tô.........................................................................11
3.3.3 Phát tán các Clip quảng cáo xe hay để gây hiệu ứng...............................12

14



×