Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống. Liên hệ với đời sống thực tiễn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.66 KB, 22 trang )

`

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận của nhóm 1A
Đề tài:Quan điểm Hồ Chí Minh về văn
hóa đời sống. Liên hệ với đời sống thực tiễn
hiện nay.

Giáo viên hướng dẫn: thầy Thái Ngọc Tăng

1


`

MỤC LỤC
PHẦN 1.MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
1.1 Đặt vấn đề.......................................................................................................................................1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................................................2
PHẦN 2.NHỮNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA.....................................................2
2.1Khái niệm.........................................................................................................................................2
2.2 Quan điểm của Hồ Minh về các vấn đề chung của văn hóa......................................................4
2.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống ...................................................................7
PHẦN 3.LIÊN HỆ THỰC TIỄN ...........................................................................................................9
3.1 Những thành tựu và hạn chế về đời sống văn hóa hiện nay.....................................................9
3.2 Nguyên nhân những thành tựu và hạn chế về đời sống văn hóa hiện nay
3.3 Biện pháp nâng cao đời sống văn hóa


PHẦN 4.KẾT LUẬN

2


`

3


`

Phần 1.Mở đầu
1.1Đặt vấn đề
Trong Mục đọc sách ở phần cuối tác phẩm Nhật ký trong tù được viết
trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm từ 29-8-1942 đến
10-9-1943 tại Quảng Tây (Trung Quốc), lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: "Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Như vậy, Hồ Chí Minh xác định văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất,
tinh thần và phương thức sử dụng chúng do loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Và xây dựng và phát triển
văn hóa dân tộc là phát triển tất cả các mặt của đời sống: từ kinh tế, chính trị, xã
hội, đạo đức, tâm lý tư tưởng... theo hướng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Một khi văn hóa ở trong chính trị, trong kinh tế cũng có nghĩa là phát triển
kinh tế, chính trị phải có văn hóa ở trong đó, kinh tế - chính trị có tính văn hóa,

tính nhân văn. Đây rõ ràng là một tư tưởng có tính thời sự rất cao. Trong thời đại
ngày nay, phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nhân văn hóa - vì sự tiến bộ của
con người đang được coi là xu hướng tất yếu vì sự phát triển bền vững của nhân
loại. Vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, Chu tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
coi trọng việc xây dựng và phát triển nền văn hóa mới.
Trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa, lối sống và việc xây dựng, phát triển nền văn hóa, lối sống xã hội mới xã
hội chủ nghĩa, Đảng ta đã luôn đặt việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, lối sống
có văn hóa trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là mục tiêu
hàng đầu.
Như vậy, thực chất của sự nghiệp xây dựng lối sống dân tộc, hiện đại ở
nước ta là xác định sự lựa chọn của các cá nhân theo định hướng dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đó là quá trình nhân đạo hóa
toàn bộ đời sống xã hội mà mỗi cá nhân sẽ gia tăng tính tự chủ, tự giác, sức
mạnh bên trong hướng tới các quá trình hoàn thiện của xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Trong bối cảnh mới, việc xây dựng lối sống mới đòi hỏi mỗi người, mỗi
gia đình, mỗi cộng đồng phải quán triệt sâu sắc tư tưởng lối sống Hồ Chí Minh,
4

1


`

vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn đa dạng, phong phú. Sự phát triển đất
nước trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đòi hỏi
chúng ta phải xây dựng nhiều cái mới, trong đó có nền đạo đức mới, lối sống
mới và con người mới. Để có được sự phát triển đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu
của giai đoạn cách mạng mới, việc triển khai tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng văn hóa lối sống trong
toàn Đảng, toàn xã hội là việc làm lâu dài và cấp thiết.
Vậy việc xây dựng lối sống mới đã và đang được và toàn dân ta thực hiện
như thế nào?

1.2Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sẽ làm rõ các vấn đề sau:
-Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Chí Minh
-Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
-Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống
-Thành tựu và hạn chế về văn hóa với đời sống thực tiễn hiện nay
-Nguyên nhân những thành tựu và hạn chế của đời sống văn hóa hiện nay
-Biện pháp nâng cao đời sống văn hóa nhân dân ta.

Phần 2.Những quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa:
2.1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Chí Minh:
a) Định nghĩa văn hóa:
* Định nghĩa văn hóa:
- Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
- Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào
việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội.
- Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa.

5


`


- Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã
hội của con người.
- Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong
các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như
trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
* Định nghĩa văn hóa theo Hồ Chí Minh: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái
niệm văn hoá được hiểu theo cả ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp
- Theo nghĩa rộng văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài
người sáng tạo ra. “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
- Theo nghĩa hẹp, văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến
trúc thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8- 1945).
- Theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người
được đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thông, thể hiện ỏ việc Hồ Chí Minh
yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...
- Đặc biệt, năm 1943 Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Trong định nghĩa này. Hồ
Chí Minh cho chúng ta hiểu được:
+ Văn hóa là những sáng tạo và phát minh của con người.
+ Nguồn gốc của văn hóa là lẽ sinh tồn của con người.
+ Văn hóa là mục đích và động lực của cuộc sống, nhằm thích ứng những nhu

cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
+ Cấu trúc của văn hóa: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn
giáo, văn học - nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở
và các phương thức sử dụng.
+ Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt (ứng xử, giao tiếp).

6


`

b) Quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới: Hồ Chí Minh đưa ra Năm điểm
lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ vai
trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay sau
khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một
nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã
hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát
triển đất nước

2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn
hóa:
a) Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội:
- Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám Hồ Chí Minh đã đưa ra quan
điểm này. Ở đây, Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã
hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã bội và các vấn đề này có quan
hệ với nhau rất mật thiết. Cho nên trong công cuộc xây dựng đất nước, cả bốn
vấn đề này phải được coi trọng như nhau.
+ Trong quan hệ với chính trị xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, chính trị, xã hội có
được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở
đường cho văn hóa phát triển. Để văn hóa phát triển tự do, phải làm cách mạng
chính trị trước, ở Việt Nam, tiến hành cách mạng chính trị thực chất là tiến hành
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị,
giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển.
+ Trong quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ
tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Từ đó Người đưa ra luận điểm:
“Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây
dựng và phát triển văn hóa”.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là kinh tế phải đi trước một bước. Người viết:
"Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa”.

7


`

- Hai là, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn
như một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người nói:
"Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công
cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân
dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình,

thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
+ Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hóa phải tham gia
thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Quan điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới ở
Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, quan điểm “ Văn hóa cũng là một mặt trận”, ''Kháng chiến
hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến"... mà Người đưa ra đã tạo nên một phong
trào văn hóa văn nghệ sôi động chưa từng thấy. Chính điều này đã đem lại sức
mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh thắng: cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
● Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng
phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi. Ngày
nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị
văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
b) Quan điểm về tính chất của nền văn hóa:
Nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn bao
hàm ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng.
- Tính dân tộc của nền văn hóa được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái
niệm, như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu bản
chất rất đặc trưng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với văn
hóa của dân tộc khác. Tính dân tộc của nền văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ
biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn
phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử
mới của đất nước.
- Tính khoa học của nền văn hóa mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với
trào lưu tiến hóa của thời đại. Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh
chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết
học mácxít đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan, phải

biết gạn đục khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại.
8


`

- Tính đại chúng của nền văn hóa được thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải phục
vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên.
c) Quan điểm về chức năng của văn hóa:
Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa
có ba chức năng chủ yếu sau đây:
- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
+ Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của
con người.
+ Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc cao
đẹp.
+ Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp
hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi con người.
+ Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, văn hóa phải đặc biệt quan tâm đến
những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người
và cả dân tộc.
+ Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc.
Đối với nhân dân Việt Nam đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Một khi lý tưởng này phai nhạt thì không thể nói đến thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng.
+ Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu
con người yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư tật
xấu, sự sa đọa..

- Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
+ Dân trí. là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức của người dân.
+ Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu biết các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như: kinh tế, chính trị, lịch sử, khoa học —
kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Vấn đề nâng cao dân trí thực sự chỉ có
thể thực hiện sau khi chính trị đã được giải phóng, toàn bộ chính quyền đã về tay
nhân dân.
+Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có thể
có những điểm chung và riêng. Song, tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn
hóa, góp phần cùng Đảng "biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn
hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Đó cùng là mục tiêu "dân giàu, nước
9


`

mạnh, dân chủ công bằng, văn minh" mà Đảng ta đã vạch ra trong công cuộc đổi
mới.
- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống đẹp, lành mạnh;
hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
+ Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói quen
của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng.
+ Phẩm chất và phong cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người
thường có nhiều phẩm chất, trong đó có phẩm chất chung và phẩm chất riêng,
tùy theo nghề nghiệp, vị trí công tác.
+Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm
việc, lối ứng xử trong đời sống.
+ Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những

phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu dưỡng:
● Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo
đức - chính trị. Bởi vì, nếu không có những phẩm chất này thì họ không thể
hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lý tưởng thành
hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Văn hóa
giúp con người hình thành những phẩm chất phong cách và lối sống tốt đẹp,
lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hòng, cái
tiến bộ với cải lạc hậu, bảo thủ.
+ Với ý nghĩa đó Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu
vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng,
lười biếng, phù hoa xa xỉ văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.

2.3.Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa đời sống
*Văn hoá đời sống.
Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới và viết tác phẩm
Đời sống mới để hướng dẫn thực hiện trong xã hội.
Khái niệm "Đời sống mới” mà Hồ Chí Minh đưa ra bao hàm cả đạo đức mới, lối
sống mới và nếp sống mới.Ba nội dung này có quan hệ mật thiết, trong đó đạo
đức mới giữ vai trò chủ yếu vì chỉ có thể dựa trên một nền đạo đức mớ, thì mới
xây dựng được lối sống mới và nếp sống mới.
 Đạo đức mới:Để xây dựng được đời sống mới trước hết phải xây dựng
đạo đức mới. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ
Chí Minh đã đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân
10


`

bằng cách thực hiện :Cần, kiệm, liêm, chính”.Sau này, Người luôn khẳng

định via trò quan trọng của cần, kiệm, liêm. Chính.
 Lối sống mới là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng lối sống
mới, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải: “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ
thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Đó là 5 cách phải sửa đổi không chỉ
với mỗi người mà còn cho cả tập thể, cộng đồng.
Xây dựng lối sống mới không hoàn toàn phụ thuộc vào phương tiện sống
nhiều hay ít, giản đơn hay sang trọng mức sống cao hay thấp mà là ở chất
văn hoá của lối sống. Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng cách sống khiêm
tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết
quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh
lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè đồng chí thì cởi mở chân tình, ân
cần tế nhị, giàu lòng yêu thương quý mến con người, trân trọng con
người; đối với mình thì chặt chẽ đối với người thì khoan dung, độ lượng.
Làm việc thì quần chúng, tập thể, dân chủ khoa học.
 Nếp sống mới. Quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành nền nếp,
thói quen, ổn định ở mỗi người, thành phong tục tập quán của tập thể hay
cả cộng đồng, trong khu vực hay cả nước, thường gọi là nếp sống mới hay
nếp sống văn hoá.
Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa, mà còn phải phát
triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập
quán cũ lạc hậu. Việc sửa đổi những thói quen, phong tục tập quán không còn
phù hợp, loại bỏ những cái xấu, xây dựng những cái tốt là công việc rất khó
khăn, phức tạp. Hồ Chí Minh đã khuyến cáo: “Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà
lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu mà quen, người ta cho là thường”. Vì vậy,
phải nâng cao nhận thức, phải phấn đấu kiên trì mới có thể xây dựng được
những thói quen, phong tục tập quán mới, thực hiện đời sống mới.
Hồ Chí Minh cho rằng: “ Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không
phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không

xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải
phát triển thêm.. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”
Như vậy, phải xây dựng được những thuần phong mỹ tục mới, đồng thời đấu
tranh khắc phục rất nhiều vấn đề, thông qua việc rà soát, đánh giá để xây, để
chống cho đúng, qua việc làm gương và nêu gương. Bắt đầu từ từng người, từng
gia đình thì mới có thể xây dựng được đời sống mới ở tập thể, các đơn vị, ở làng
xã, phố phường cho đến cả nước. Có như thế mới xây dựng được nếp sống có
11


`

văn hoá, xây dựng được đời sống mới thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã
hội.

Phần 3.Liên hệ quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa với đời
sống thực tiễn hiện nay
3.1.Thành tựu và hạn chế
a)Những thành tựu
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận về văn hóa như vậy, công cuộc đổi mới văn
hóa trên thực tiễn đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng
đóng góp vào sự nghiệp đổi mới chung của đất nước. Có thể khái quát những
thành tựu bước đầu đạt được trong thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa
trong gần 30 năm đổi mới vừa qua như sau:
Một là, nhận thức về vai trò của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong xã hội đã được nâng lên. Nhân tố văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội
đã được coi trọng. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã
có tác động sâu rộng và góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Bước
đầu khai thác văn hóa như nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế xã hội, giảm
bớt những tiêu cực và tệ nạn xã hội do mặt trái của cơ chế thị trường tạo nên.

Vấn đề xây dựng và phát triển con người đã đạt được một số thành tựu quan
trọng. Chỉ số phát triển con người đã tăng đáng kể.
Hai là, giá trị di sản văn hóa dân tộc được coi trọng. Nhiều di sản văn hóa Việt
Nam đã được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa đại diện của nhân loại. Công
tác sưu tầm, bảo quản, tôn tạo, tu bổ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân
tộc đã đạt nhiều thành tựu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa đa
dạng của nhân dân.
Ba là, tính tích cực, chủ động trong sáng tạo, bảo quản, truyền bá và thưởng thức
các giá trị văn hóa, nghệ thuật của nhân dân đã được nâng cao. Lĩnh vực văn học
- nghệ thuật; thông tin đại chúng đã có bước tiến đáng kể trong việc đáp ứng nhu
cầu tinh thần của nhân dân. Quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ, quyền tiếp
cận thông tin, quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân được khẳng định. Chính
sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa có tác động tích cực trong việc huy động
các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa.
Bốn là, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ đã có bước phát triển đáng kể.
Trình độ học vấn, kỹ thuật công nghệ của nhân dân, nhất là giới trẻ đã được
nâng lên góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
12


`

tài, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
Năm là, công tác nghiên cứu lý luận về văn hóa và phát triển đã được coi trọng.
Nhiều chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước và cấp bộ về
văn hóa, con người và nguồn nhân lực được Nhà nước quan tâm đầu tư. Công
tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa, văn học - nghệ thuật được
chú trọng. Những thành tựu nghiên cứu lý luận về văn hóa, văn học - nghệ thuật
đã góp phần tích cực vào việc cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng

đường lối, chủ trương, chính sách phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước.
Sáu là, giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế được mở
rộng, từng bước phát triển theo chiều sâu, mang tính ổn định, bền vững, góp
phần giới thiệu, quảng bá, tôn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Các hoạt động văn hóa đối ngoại và thông tin đối ngoại có bước phát
triển mới, nhất là các chương trình phát thanh và truyền hình Việt Nam ở nước
ngoài, tổ chức các tuần lễ văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, tuần lễ văn hóa nước
ngoài tại Việt Nam; giao lưu hợp tác trong biểu diễn nghệ thuật, trong lĩnh vực
điện ảnh, sân khấu, thể thao được tăng cường…
Bảy là, quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tạo hành lang pháp lý cũng như
tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các hoạt động văn hóa của cộng đồng. Nhà nước
đã sửa đổi và ban hành mới các luật và pháp lệnh để điều chỉnh các hoạt động
văn hóa như Luật Báo chí, Luật Di sản văn hóa dân tộc, Luật Quảng cáo, Luật
Xuất bản… Ngoài hệ thống luật và các chính sách văn hóa, Chính phủ đã ban
hành hàng loạt các chiến lược, bao gồm: Chiến lược phát triển văn hóa đến năm
2020 (ban hành năm 2009); Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam
đến năm 2020 (ban hành năm 2010); Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm
2020 (ban hành năm 2011); Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, định hướng đến năm 2030 (ban hành năm 2012)…
Hệ thống thiết chế văn hóa từ trung ương, tỉnh, thành phố đến thôn, bản, làng,
xã, phố, phường được quan tâm quy hoạch lại, đầu tư nâng cấp và xây mới, đáp
ứng nhu cầu hoạt động văn hóa của các tầng lớp nhân dân. Nhà nước đã tăng
cường đầu tư ngân sách và các nguồn lực khác cho hoạt động văn hóa (bảo đảm
mức 1,8% ngân sách chi cho ngành văn hóa).
Tám là, đổi mới trong công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa. Có thể nói trong
những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã bám sát vào thực tiễn đổi
13



`

mới của đất nước, kịp thời đề ra những chủ trương, những giải pháp đúng đắn để
giải phóng sức sáng tạo của nhân dân, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho nhân
dân tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc. Những quan
điểm mới, nhận thức mới của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa kịp thời, trở
thành động lực thúc đẩy văn hóa phát triển. Phương thức lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước cũng từng bước đổi mới để thích nghi với điều kiện lãnh
đạo và quản lý văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế, thực hành dân chủ rộng rãi và bảo đảm quyền văn
hóa của người dân.
Có thể nói những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa gần 30 năm đổi mới
vừa qua đã được khẳng định và rất đáng tự hào. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
nhận thức rõ rằng sự phát triển về văn hóa trong gần 30 năm đổi mới vừa qua
chưa tương xứng với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đề ra, chưa tương xứng với
tiềm năng và nguồn lực vốn có của dân tộc. Chất lượng hoạt động văn hóa còn
hạn chế. Tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống trong xã hội diễn ra phức tạp.
Công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa còn chậm đổi mới. Các nguồn lực đầu tư
cho phát triển văn hóa còn hạn chế. Văn hóa chưa thực sự trở thành nguồn lực
nội sinh để phát triển bền vững đất nước. Vì vậy, đứng trước yêu cầu và nhiệm
vụ của thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, phát
huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, phấn đấu xây dựng thành công nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực sự là
sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
b)Những hạn chế
1. Sa sút về tư tưởng, đạo đức, lối sống; đáng chú ý là sự sa sút trong cán bộ,

đảng viên;
2. Thiếu những công trình văn học, nghệ thuật có sức mạnh tư tưởng và thẩm
mỹ cao;
3. Sản phẩm văn hóa độc hại lan tràn. Hủ tục mê tín, dị đoan phát triển;
4. Trình độ thông tin còn thấp;
5. Giao lưu văn hóa còn rất hạn hẹp;
6. Đổi mới về thể chế còn chậm. Việc tăng cường quản lý Nhà nước chưa theo
kịp yêu cầu. Đầu tư ngân sách thấp. Xuất hiện sự thiếu hụt cán bộ văn hóa chủ
chốt.
Giải trình thêm một số vấn đề yếu kém:
14


`

1. Khuyết điểm quan trọng nhất là chậm hoàn chỉnh lý luận về văn hóa.
- Nội hàm khái niệm văn hóa mà chúng ta duy trì nhiều năm nay quá hẹp. Phạm
trù tư tưởng, đạo đức, lối sống bị đặt ra ngoài văn hóa. Ví dụ tinh thần cộng
đồng, ý thức tập thể, ý thức tôn trọng lợi ích chung là một phẩm chất quan trọng
nhưng nhiều năm bị xem nhẹ trong tuyên truyền, giáo dục. Điều đáng nói là
không biến những giá trị đạo đức đó thành những nguyên tắc, giá trị văn hóa của
hàng triệu người, vì vậy sự xói mòn của các nguyên tắc tinh thần đó là điều khó
tránh khỏi.
- Thiếu lý luận nên xử lý đời sống văn hóa, văn học nghệ thuật hết sức khó khăn
phức tạp. Một sự kiện văn hóa có thể cắt nghĩa theo nhiều cách khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau, làm cho định hướng trong văn hóa rất khó khăn.
Khoa học về văn hóa mới dừng lại ở phạm vi các bộ phận: văn học, mỹ thuật,
âm nhạc, điện ảnh… trong khi đó lại chậm hình thành văn hóa học, như một thứ
triết học của các lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa. Sự chậm trễ, không ổn định của
khoa học và lý luận về văn hóa đã ảnh hưởng không ít đến triển khai thực tiễn

nhiệm vụ văn hóa.
Chậm về lý luận, chậm về tháo gỡ chính sách, trong nhiều trường hợp ta chưa
thực sự giải phóng năng lực sáng tạo văn hóa vốn là năng lực lớn của một dân
tộc có truyền thống văn hóa.
2. Do những hoàn cảnh và điều kiện nhất định, mối quan hệ đến đời sống tinh
thần bên trong con người đã bị giảm sút, chưa có phương thức hợp lý để điều
chỉnh, từ đó tư tưởng, đạo đức, lối sống sa sút.
Cơ chế thị trường quy định người ta muốn tìm kiém lợi ích phải căn cứ vào sự
hình thành giá trị, giá cả tự nhiên, khách quan ngoài xã hội, chứ không phải từ
mong muốn chủ quan, vì vậy con người rất dễ chạy theo lợi ích từ bên ngoài, coi
nhẹ sự kiểm soát bản thân. Các quá trình dân chủ cũng tăng thêm tính chủ động
cá nhân, giảm đi sự ràng buộc của tập thể, của tổ chức, nhưng tính chủ động cá
nhân nhiều khi lại là sự buông lỏng cá nhân, làm cá nhân đi vào suy thoái. Sự
thay đổi lối sống đã ảnh hưởng sâu xa đến con người, vừa đem lại cho con người
những sức mạnh nhất định, nhưng đồng thời rất dễ đưa tới những suy thoái đạo
đức nếu chúng ta không tìm được những phương thức mới để hướng dẫn, bảo vệ
con người. Khuyết điểm của chúng ta là chậm nhận ra và thấu hiểu sâu sắc biến
động này để xử lý thật hiệu quả.
3. Một khuyết điểm trong khi chỉ đạo văn hóa vừa qua là chưa hình thành được
cuộc vận động văn hóa, một mặt trận văn hóa rộng rãi. Văn hóa là toàn bộ đời
sống tinh thần của con người rất toàn vẹn, nhưng khi xử lý văn hóa thì hết sức
phân tán, mạnh ai nấy làm, thiếu một vai trò tổ chức, tập hợp thống nhất. Nghị
quyết hay, người tổ chức giỏi, thậm chí có người không tiếc tiền đầu tư cho văn
hóa, nhưng một khi văn hóa chưa thành phong trào quần chúng rộng rãi, không
có tính xã hội cao, thì những giá trị văn hóa khó bén rễ trong cuộc sống. Các
15


`


sinh hoạt văn hóa sớm nở tối tàn, nhiều lực rất tốn kém, làm nguội lạnh nhiệt
tình không ít những người hoạt động văn hóa.
Con đường duy nhất là phải đẩy tới một cuộc vận động văn hóa rộng rãi, với
một phương án hoạt động toàn diện, sự phối hợp đầy đủ, những biện pháp thực
tế, có hiệu quả, một công tác tổ chức kiên trì, lấy nhân dân, cơ sở làm gốc thì
mới hy vọng hình thành nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

3.2.Nguyên nhân những thành tựu và hạn chế của đời sống văn
hóa hiện nay.
a)Nguyên nhân thành tựu
Sau hai mươi năm đổi mới và hội nhập, văn hoá Việt Nam đã có những
biến đổi sâu sắc theo hướng nâng cao, trở nên phong phú hơn, cởi mở hơn. Đó là
kết quả đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước. Điều này rất phù hợp với xu
thế chung của thế giới ngày nay là giao lưu và hội nhập. Làm được như vậy
trước hết là vì chúng ta đã đổi mới tư duy. Trong đời sống văn hoá, đổi mới tư
duy được thể hiện trên tất cả các mặt.
- Đổi mới văn hoá về khía cạnh chính trị - pháp lý
Trong đời sống văn hoá, đổi mới tư duy được thể hiện quan trọng nhất là ở khía
cạnh chính trị - pháp lý. Vì thế, nói đến đổi mới trong đời sống văn hoá trước hết
là nói tới đổi mới về đường lối, chủ trương, chính sách. Kể từ thời mở cửa,
chúng ta phải ghi nhận một cột mốc quan trọng về mặt đổi mới đường lối văn
hoá Việt Nam. Đó là việc Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ra Nghị
quyết Trung ương 5 “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”, ban hành 16 - 7 - 1998. từ ngày đổi mới đến nay, đời
sống văn hoá của người dân Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới, trở
nên đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Một điều đổi mới quan trọng trong tư
duy là Đảng đã công nhận khía cạnh quyền lợi cá nhân trong quyền tự do văn
hoá. Trong các đức tính của con người Việt Nam, Đảng chủ trương xây dựng
con người có đức tính lao động chăm chỉ “vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập
thể và xã hội” (Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII). Đó là một điều rất mới, bởi

lẽ trước đây chúng ta vẫn hô hào hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích tập thể.
Điều này ngày nay cũng có nghĩa là sáng tạo văn hoá không chỉ vì lợi ích tinh
thần, mà nó còn có thể đem lại lợi ích vật chất - kinh tế.
-Tiếp thu các giá trị văn hoá của thế giới để làm giàu cho văn hoá Việt Nam
Nhờ chính sách mở cửa, ngày nay người dân Việt Nam đã được tiếp xúc với
nhiều loại hình nghệ thuật mới. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã vạch rõ:
Bảo vệ bản sắc dân tộc không có nghĩa là đóng cửa khép kín, tách biệt với bên
16


`

ngoài. Mà “Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế,
tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác” .
Đại hội X của Đảng cũng chỉ rõ: phải “kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hoá
đồi truỵ độc hại.” Từ đó, mọi loại hình văn hoá của các dân tộc đều được chúng
ta mở cửa đón nhận. Truyền hình và mạng internet là những công cụ đắc lực phổ
biến phim nước ngoài, đặc biệt là phim phương Tây.Trong lĩnh vực nhiếp ảnh
cũng có sự đổi mới đáng kể. Trong suốt thời gian diễn ra hai cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, ngành nhiếp ảnh Việt Nam đã hoàn toàn dành sự nghiệp
phục vụ cho các nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Mọi quan niệm và chức
năng nghệ thuật của nhiếp ảnh đều được dùng để phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Cho đến thời kỳ đổi mới, nhiếp ảnh mới bắt đầu được thể hiện đầy đủ các chức
năng của nó. Chức năng thẩm mỹ và giải trí được quan tâm. Ở đây nữa, tự do
văn hoá được thể hiện rõ ràng. Âm nhạc hiện đại thế giới cũng thâm nhập vào
Việt Nam một cách ồ ạt chẳng kém gì phim ảnh. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX,
nhạc rock, pop, hip - hop (trong nhạc hip - hop thì thịnh hành nhất là nhạc rap)
của nước ngoài được giới trẻ tự do tiếp nhận, được giới thiệu hàng ngày trên
sóng phát thanh và truyền hình, được biểu diễn tại các kỳ liên hoan âm nhạc,các

cuộc thi, các sàn diễn, phòng trà...Các hoạt động thể thao cũng nhanh chóng hội
nhập với thế giới. Chúng ta bắt đầu tham gia các kỳ đại hội thể thao khu vực và
thế giới. Các cúp quốc tế bóng đá, bóng chuyền, taekwondo, v.v... liên tục được
tổ chức tại Việt Nam. Đặc biệt là chúng ta đã tổ chức thành công rực rỡ một kỳ
Thể thao Đông Nam Á: Sea Games 22 năm 2003, với việc lần đầu tiên Việt Nam
đứng thứ nhất toàn đoàn. Đây là những thành tựu rất mới mà chỉ có đổi mới và
hội nhập mới tạo ra được. Văn học - nghệ thuật Việt Nam, cả sáng tác lẫn lý luận
- phê bình, đã thoát ra khỏi những quy định giáo điều để hội nhập với thế giới.
Các phương pháp sáng tác và phương pháp nghiên cứu mới đã được tiếp thu. Bộ
mặt văn học - nghệ thuật Việt Nam trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn.
Các hiện tượng khác của văn hoá nước ngoài cũng rất dễ dàng được Việt Nam
đón nhận trong thời kỳ mở cửa này, ví dụ những lễ hội nước ngoài như lễ
Valentin, lễ Noel, lễ Phục sinh,... Đây là những lễ hội đang được công chúng hân
hoan tiếp nhận. Ở đây có vai trò của quá trình toàn cầu hoá kinh tế như là vật
truyền dẫn để phổ biến những hiện tượng văn hoá phương Tây. Vì thế chúng ta
hiểu tại sao trong thời đại hội nhập này, những hiện tượng văn hoá phương Tây
lại có sức lan toả mạnh hơn so với các hiện tượng văn hoá phương Đông.
-Biến đổi trong quan niệm sống và trong lối sống của con người Việt Nam
Sự biến đổi trong quan niệm sống của người Việt Nam ngày nay được thể hiện
trước hết ở sự biến đổi trong mục đích sống. Trước đây người dân nước ta được
khuyên là phải sống vì cộng đồng, sống cho cái ta. Khi cần thiết phải biết hy
17


`

sinh cái tôi cho cái tập thể. Nhưng ngày nay người ta bắt đầu được sống cho cái
tôi, thậm chí trong một số trường hợp người ta còn sống cho cái tôi nhiều hơn là
cho cái ta.
- Phục hồi và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống

Nói đến đổi mới, người ta thường thấy nó thể hiện rõ nhất ở khía cạnh tiếp thu
cái mới bên ngoài. Nhưng trên thực tế, đổi mới trong việc kế thừa các giá trị
truyền thống luôn có một ý nghĩa quan trọng cho việc xây dựng một nền văn hoá
mới. Bởi lẽ, xây dựng một công trình mới sẽ ít tốn kém hơn nhiều nếu nó được
dựa trên những cơ sở có sẵn. Đảng đã khẳng định: “Di sản văn hoá là tài sản vô
giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo
những giá trị mới và giao lưu văn hoá” . Vì thế, phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống luôn là nhiệm vụ hàng đầu của toàn xã hội.
-Đổi mới trong tự do sáng tác và những giới hạn của nó
Về thực chất, tự do diễn đạt chính là một trong những quyền cơ bản quan trọng
nhất của con người. Và vì tự do sáng tác cũng nằm trong quyền tự do diễn đạt,
cho nên tự do sáng tác cũng là một trong những quyền quan trọng nhất của con
người.
Quyền tự do này đã được Đảng đặt thành đường lối ngay từ những ngày
đầu đổi mới. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII 1998 đã tuyên bố “Khuyến
khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác” , và cũng
từ đó cho đến Nghị quyết 23 - NQ/TW gần đây nhất, Đảng không hề nhắc đến
phương pháp hiện thực XHCN nữa, mà chỉ kiên trì nhắc lại: “Tiếp tục đổi mới,
tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ
thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể
nghiệm,...”. Trọng tâm nhấn mạnh của Đảng là “Văn học, nghệ thuật Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế
phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ”.
Như thế, bằng việc khẳng định quyền tự do sáng tác, Đảng đã đi đúng
hướng trong việc tôn trọng và đảm bảo quyền con người cho xã hội nước ta. Có
thể nói, trong lịch sử văn hoá Việt Nam, chúng ta chưa bao giờ có được tự do
sáng tác như bây giờ.
b)Nguyên nhân của các hạn chế
Tiếp thu văn hoá thế giới là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà

nước ta. Nhưng tiếp thu phải dựa trên cơ sở và điều kiện kinh tế - xã hội - văn
hoá của Việt Nam, phải tiếp thu những gì phù hợp với nước ta và nhất là những
18


`

gì có khả năng vận dụng vào nước ta. Có một quy luật phổ biến là một đất nước
sau một thời gian đóng cửa lâu dài, khi được mở cửa sẽ rất dễ bị rơi vào một
trạng thái cực đoan khác: tiếp thu xô bồ và không phân biệt. Việt Nam hiện nay
cũng có phần rơi vào tình trạng như vậy. Nhìn vào đời sống văn hoá Việt Nam,
ngoài những thành tựu tiếp thu tích cực có khả năng phục vụ cho sự nghiệp hiện
đại hoá đất nước, chúng ta còn có cảm giác như tư duy của chúng ta có phần nào
bị lệ thuộc vào lối tư duy của phương Tây. Đó là một lối tư duy bắt chước một
cách phi lôgíc. Từ đó dẫn đến những hiện tượng lạm dụng trong việc tiếp thu.
Chúng ta lạm dụng trong việc sử dụng tiếng Anh; lạm dụng trong việc tiếp thu
các khái niệm và lý thuyết văn học - nghệ thuật; lạm dụng trong các chương
trình giải trí và quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng (đặc biệt
là trên truyền hình và truyền thanh); lạm dụng sách thương mại; lạm dụng yếu tố
nhục dục trong văn học, phim ảnh, âm nhạc, và kể cả sân khấu .

3.3.Biện pháp nâng cao đời sống văn hóa nhân dân ta.
- Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và vận dụng có
hiệu quả Nghị quyết số 33 -NQ/TW của Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".
- Hai là, tổ chức thực hiện tốt phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa", trọng tâm là xây dựng gia đình văn hóa; thôn, bản, tổ dân phố văn hóa;
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa, tạo nên sự phát triển cả về bề
rộng lẫn chiều sâu của phong trào này ở cơ sở; thực hiện tốt Chương trình mục

tiêu quốc gia về văn hóa, gắn với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới.
- Ba là, tiếp tục đầu tư xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa thông tin ở
cơ sở; khai thác và phát huy có hiệu quả các thiết chế văn hóa để phục vụ nhu
cầu hưởng thụ văn hóa của cộng đồng dân cư.
- Bốn là, quan tâm, chú trọng công tác đào tạo, tập huấn và xây dựng đội ngũ
cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, nhiệt tình, tâm huyết, đáp ứng nhu cầu công
việc.
- Năm là, tăng cường vai trò tự quản của cộng đồng dân cư; phát huy vai trò của
các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước, hỗ trợ phát triển văn hóa,
khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia vào xây dựng và phát triển văn hóa cơ
sở. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp
hướng về cơ sở, nâng cao chất lượng phong trào quần chúng hoạt động văn hóa,
nghệ thuật.
19


`

- Sáu là, nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc ở các cấp trong việc phối hợp lãnh đạo, tổ chức,
vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, biểu dương, khen
thưởng kịp thời những tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến, khắc phục những
mặt yếu kém trong các hoạt động và phong trào liên quan đến công tác xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở.

Phần 4.Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa đã dựa trên sự nhận thức về tầm quan
trọng của văn hóa trong công cuộc dựng nước và giữ nước để đưa ra những định

hướng đúng đắn về các hoạt động giáo dục, văn nghệ, cũng như đời sống con
người.
Giữa mọi xu thế hội nhập như ngày nay, khi mà các nền văn hóa của nhiều nước
đang có xu hướng hòa trộn vào nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa của
nhiều nước đã khẳng định sự cần thiết của mình trong việc lưu giữ các giá trị
văn hóa nước nhà cũng như tiếp thu cái tốt đẹp của nền văn hóa khác “ hòa lẫn
chứ không hào tan”.
Trong xu thế đối thoại giữa các nền văn hóa trên thế giới hiện nay ta nhận thấy
rằng:” Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa sẽ mãi là ánh sáng soi đường cho dân
tộc ta trong quá trình xây dựng “ nền tảng tinh thần của xã hội”.

20


`

NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....

…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
21


`
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………………………....

22



×