Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

QUAN điểm của các NHÀ KINH điển CHỦ NGHĨA mác về tôn GIÁO ý NGHĨA của nó TRONG THỜI đại NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.72 KB, 103 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN

VIỆN TRIẾT HỌC

TRẦN THỊ THUÝ NGỌC

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN CHỦ NGHĨA
MÁC VỀ TÔN GIÁO. Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG
THỜI ĐẠI NGÀY NAY.

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2009


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN

VIỆN TRIẾT HỌC

TRẦN THỊ THUÝ NGỌC

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN CHỦ NGHĨA


MÁC VỀ TÔN GIÁO. Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG
THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 6 022 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Lan Hiền

HÀ NỘI – 2009


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

9

Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN CHỦ NGHĨA MÁC
VỀ TÔN GIÁO

9


1.1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về tôn giáo

9

1.2. Những luận điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về tôn giáo
1.2.1. Tôn giáo là sự tự ý thức đã bị tha hoá của con người

30
30

1.2.2. giải phóng con người khỏi sự tha hoá của tôn giáo

43

1.2.3. tôn giáo tự tiêu vong

49

1.2.4.Quan điểm của V.I.Lênin về thái độ của các Đảng cộng
sản và công nhân đối với tôn giáo
Chương 2:

54

Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TÔN GIÁO CỦA

C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
VÀ THỰC TIỄN TÔN GIÁO TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY


2.1. Ý nghĩa phương pháp luận và nhận thức luận khi vận
dụng quan điểm của các nhà kinh điển về tôn giáo hiện nay
2.1.1 Ý nghĩa phương pháp luận
2.1.2. Ý nghĩa nhận thức luận
2.2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam
trong công tác tôn giáo hiện nay
2.2.1. Tình hình và đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
2.2.2. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
chính sách đối với tôn giáo
2.2.3. Một số kiến nghị
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

63

63
63
65

71

71

89
87
92
95



Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ thế kỷ XVII trở đi, ở phương Tây xuất hiện nhiều nhà triết
gia như Descartes, Kant, Hegel, Huserl, Keerkegaard, Heidegger, đặc biệt là
Nietzsche muốn xây dựng một kỷ nguyên mới cho triết học con người, kỷ
nguyên của chủ nghĩa nhân bản triệt để, chống lại ý niệm về thiên chúa, về
linh hồn bất tử, về thế giới sau khi chết, coi đó là những ý tưởng hạn hẹp đầy
tiên kiến của hệ thống siêu hình học, hệ thống thần học trước đấy. Và tuyên
bố thượng đế đã chết.
Song, nhiều kỷ nguyên đã qua sau lời tuyên bố thượng đến đã chết, tôn
giáo không chết cái chết tự nhiên của nó mà thậm chí còn phát triển hơn, phức
tạp hơn, khiến các học giả tốn không biết bao nhiêu giấy mực để bàn luận
tranh cãi tôn giáo là gì? Nó có vai trò gì trong đời sống xã hội khiến nó có thể
trường tồn đến như vậy?
Các nhà triết học phương Tây hiện đại cũng trở lại nghiên cứu tôn giáo,
họ không thoả mãn với các quan điểm truyền thống về tôn giáo, đặc biệt quan
điểm của họ về tôn giáo dường như đối lập lại các quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về tôn giáo. Họ không xem tôn giáo là một hình thái của ý thức
xã hội, không xem tôn giáo là loại tư biện về những gì thoát ra khỏi tư duy
khoa học… mà xem tôn giáo là tồn tại xã hội, là hiện thực. Và dự báo, thế kỷ
XXI là thế kỷ của tôn giáo và của sự xung đột giữa các nền văn hoá - tôn
giáo. Từ đó, họ cho rằng, nhiều quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác
không còn đúng trong thời đại ngày nay, đặc biệt là dự báo của các nhà kinh
điển về một xã hội tương lai có thể xoá bỏ được tôn giáo.
Trong tình hình như vậy, việc tìm hiểu một cách đầy đủ và hệ thống các
quan điểm của C.Mác, Ph.ăngghen, V.I.Lênin về tôn giáo là một việc làm cần



3

thiết, trước hết là để khẳng định những luận điểm về tôn giáo của các ông là
sự vận dụng một cách khoa học những nguyên lý của triết học duy vật biện
chứng trong việc lý giải nguồn gốc, bản chất của tôn giáo. Thứ đến, sau khi
nghiên cứu đầy đủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác về tôn giáo, những
người mác xít cần phải phát triển, bổ sung và hoàn thiện nó trong điều kiện
hiện nay – khi tôn giáo và thời đại đã có nhiều thay đổi mà sinh thời C.Mác
và Ph.ăngghen chưa thể dự đoán được.
Tôn giáo và công tác tôn giáo luôn là một vấn đề lớn của bất kỳ một dân
tộc nào có sự hiện hữu của nó, nhất là hiện nay, tôn giáo, tín ngưỡng đang có
xu hướng diễn biến phức tạp. Song, để có một chính sách đúng đối với tôn giáo
cần phải có lý luận đúng. Lý luận đúng là lý luận phải gắn liền với thực tiễn, đi
sát với thực tiễn và luôn cập nhật với những diễn biến, biến đổi của thực tiễn.
Do vậy, các thế hệ mác xít kế tiếp sự nghiệp của C.Mác, Ph.ăngghen, V.I.Lênin
trước hết cần phải nắm chắc lý luận của chủ nghĩa Mác về tôn giáo, bổ sung
những “cơ sở lịch sử cụ thể” cho lý luận ấy và vận dụng lý luận đó một cách
linh hoạt trong hoàn cảnh thực tế của đất nước mình.
Với những lý do trên, chúng tôi thấy việc nghiên cứu quan điểm của
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về tôn giáo là một việc làm cần thiết. Do đó,
chúng tôi chọn đề tài “Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
về tôn giáo. Ý nghĩa của nó trong thời đại hiện nay” làm đề tài cho luận văn
thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu tôn giáo, nhất là nghiên cứu các quan điểm của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về tôn giáo cũng như sự vận dụng của Đảng ta
được rất nhiều tác giả, tác phẩm, các công trình bàn bạc, nghiên cứu một cách
nghiêm túc.



Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
4

Trước hết, cuốc sách C.Mác – Ph.Ăngghen về vấn đề tôn giáo của
Nguyễn Đức Đạt (chủ biên) nhà xuất bản khoa học xã hội, xuất bản năm
1999; trong tác phẩm này tác giả đã tuyển chọn những ý kiến của C.Mác và
Ph.Ăngghen về tôn giáo; sưu tập và trích lục những tác phẩm và những đoạn
văn viết về tôn giáo trong C.Mác – Ph.Ăngghen toàn tập. Những ý kiến của
hai ông về tôn giáo vừa có tính nguyên tắc, đúng đắn, vừa mang tính chất sắc
bén với những luận điểm và hành vi phản cách mạng, phản khoa học.
Tiếp đến, cuốn sách Mác, Ăngghen, Lênin, bàn về tôn giáo và chủ
nghĩa vô thần sách tham khảo của nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất bản
năm 2001. Cuốn sách được dịch từ bản tiếng Trung Quốc. Cuốn sách tập hợp
những tác phẩm và những ý kiến chủ yếu của Mác, Ăngghen, Lênin và một số
ý kiến của Xtalin về vấn đề lý luận tôn giáo; chính sách đối với tôn giáo, chủ
nghĩa vô thần và chủ nghĩa duy vật, quan hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có trích một số luận điểm có tính chất nền
tảng: Bản chất và nguyên nhân tồn tại của tôn giáo, ảnh hưởng xã hội và mất
đi của tôn giáo, lý luận chủ nghĩa duy vật mác xít và chủ nghĩa vô thần, thái
độ và chính sách của Đảng vô sản đối với tôn giáo.
Năm 2005, tập thể tác giả TS. Đỗ Minh Hợp, TS.Nguyễn Anh Tuấn,
TS.Nguyễn Thanh, Th.S Lê Hải Thanh xuất bản cuốn sách Tôn giáo lý luận
xưa và nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, trong chương II của
phần thứ nhất tập trung nghiên cứu các tiêu đề lịch sử triết học của tôn giáo
học, trình bày quan điểm các nhà triết học tiền bối trong lĩnh vực tôn giáo.
Cuốn sách Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin Hồ Chí
minh về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng cộng sản của TS.Hồ Trọng Hoài,
TS.Nguyễn Thị Nga, xuất bản năm 2006 đã trình bày những quan điểm cơ

bản của các nhà kinh điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh về tôn giáo
và sự vận dụng sáng tạo những tư tưởng cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh về
lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


5

Tác phẩm kinh điển: Nghiên cứu về tôn giáo được trình bày trong
C.Mác – Ph.Ăngghen toàn tập, các tập 1, 2, 3, 20, 21, 23, 42.. và trong
V.I.Lênin toàn tập, các tập 11, 12, 17, 29, 37, 38…
Liên quan điến chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, có rất
nhiều tác giả và các công trình khoa học nghiên cứu GS.Đặng Nghiêm Vạn,
năm 2001 với cuốn Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam do
Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản, có phần bàn về đặc trưng tôn giáo Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay và phần nói về chính sách tôn giáo (phần 6).
Năm 2002 có công trình cấp nhà nước của Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh nghiên cứu về tình hình tôn giáo ở nước ta để phục vụ cho công
tác quản lý Tổng quan Đề tài cấp Nhà nước – Tình hình và xu hướng tôn giáo
ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý và lãnh đạo.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng và xu hướng biến động của tôn giáo trên thế
giới và Việt Nam, công trình đã đưa ra phương hướng và kiến nghị nhằm
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với
tôn giáo trong thời kỳ hiện nay. Năm 2005, Đỗ Quang Hưng viết cuốn sách
Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb Chính
trị quốc gia. Cuốn sách này đã nêu rõ những ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với quá trình phát triển tư duy lý luận của
Đảng ta về tôn giáo và chỉ ra những nội dung cơ bản của vấn đề lý luận và
thực tiễn trong công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1920 cho
đến nay.
Một số bài trong các Tạp chí, Tập san: Tôn giáo, thuốc phiện của nhân

dân và sự phản kháng chống lại khốn cùng thực tại – Các quan điểm của Mác
và Lênin – Sergio Vuscovic Roto (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2, 2000);
Karl Marx và Friedrich Engels với vấn đề xã hội học tôn giáo – Jean Paul
Willaime (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, 2002); Quan điểm của C.Mác


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
6

– Ph.Ăngghen về lao động bị tha hoá và sự tha hoá của tôn giáo – Trương
Hải Cường (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6, 2001); Quan niệm của
Hêraclít về linh hồn, Thượng đế và thái độ của ông đối với tôn giáo –
PGS.TS. Đặng Hữu Toàn (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, 2002); Lutvích
Phoiơbắc bàn về tôn giáo – Th.s. Nguyễn Hoài Sanh (Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, số 3, 2000); Ph.Ăngghen về tôn giáo. Những di sản quý giá –
PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, 2004); Quá
trình đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và việc hoàn thiện chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới – Th.s. Trần Thanh
Giang (Tạp chí Triết học, số 9, 2008); VI.Lênin bảo vệ và phát triển tư tưởng
của C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo – TS. Lê Đại Nghĩa (Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 2, 2002); Từ quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác xem xét
vấn đề tôn giáo ở nước ta – TS. Ngô Hữu Thảo (Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 4, 2004); Tôn giáo Việt Nam – GS. G.Condominas (Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 2, 2003).
Tập chuyên khảo giáo trình Triết học Mác-Lênin dùng cho học sinh,
sinh viên chuyên Triết của các trường Đại học, Cao đẳng đã trình bày các
quan điểm về tôn giáo của các nhà kinh điển với tính chất là giáo trình giảng
dạy Bộ môn Chủ nghĩa Vô thần Khoa học. Do vậy, ít nhiều cũng đã đưa thêm
vào đó những quan điểm mang tính chủ quan của những người Mác-xít muốn
phủ nhận hoàn toàn tôn giáo, đã biến các quan điểm về tôn giáo của các nhà

kinh điển thành một thứ giáo điều cứng nhắc, cực đoan. Nhiều luận điểm
không được hiểu đúng hoặc không được đặt trong văn mạch và hoàn cảnh của
nó khiến cho việc nhận thức về tôn giáo trong điều kiện mới hiện nay trở nên
khó khăn.
Các công trình nghiên cứu về tôn giáo như: tôn giáo – một hình thái ý
thức xã hội của Nguyễn Hoài Sanh, năm 1999. Hay Chính sách của Đảng,


7

Nhà nước Việt Nam về tôn giáo hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
luận văn thạc sỹ của Đào Duy Tùng, năm 2006.
Do có xuất phát điểm khác nhau nhưng chưa có luận án nào tìm hiểu
một cách hệ thống các vấn đề tôn giáo mà C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã
đề cập và liên hệ với thực trạng tôn giáo hiện nay trên thế giới cũng như ở
Việt Nam.
Trong trình độ cho phép với năng lực và trình độ, chúng tôi cố gắng
hoàn thành bản luận văn của mình cho sự đóng góp nhỏ bổ sung vào các công
trình đi trước nghiên cứu về tôn giáo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Tôn giáo là một đề tài rộng lớn và là đối tượng của nhiều học giả quan
tâm. Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác về tôn giáo trên cơ sở kế thừa, phê phán các quan điểm trước Mác
khi đề cập, nghiên cứu về tôn giáo. Diễn biến tôn giáo ngày nay quá phức tạp,
có nhiều thay đổi so với thời đại của các nhà kinh điển. Trên cơ sở đó vận
dụng quan điểm của các nhà kinh điển về tôn giáo trong hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiễn hiện nay, đồng thời liên hệ với tình hình tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
Làm rõ quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn

giáo trên cơ sở đó, chỉ ra và luận giải ý nghĩa của những quan điểm này trong
thời đại ngày nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa các quan điểm trước Mác về tôn giáo, nêu lên
được bối cảnh lịch sử để hình thành các quan điểm tôn giáo.
Thứ hai, phân tích làm rõ các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về tôn giáo.


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
8

Thứ ba, nêu lên ý nghĩa và sự vận dụng của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác trong hoạt động nhận thức và thực tiễn tôn giáo trong điều kiện hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn: dựa trên những nguyên lý triết học mác xít
khi nghiên cứu về tôn giáo.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: kết hợp lôgíc và lịch sử; phân
tích và tổng hợp.
Kết hợp nghiên cứu văn bản với nghiên cứu thực tế lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần trình bày một cách có hệ thống những quan điểm
của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về tôn giáo. Từ đó nêu nên ý nghĩa, giá
trị của những quan điểm khoa học về tôn giáo, đồng thời mạnh dạn chỉ ra
những điểm còn hạn chế trong lý thuyết về tôn giáo của các ông trong điều
kiện hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn
đề triết học tôn giáo và làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy về chuyên
ngành tôn giáo học.

8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết và 9 tiểu tiết


9

NỘI DUNG
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN
CHỦ NGHĨA MÁC VỀ TÔN GIÁO
1.1 Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về tôn giáo
Tôn giáo vốn là đối tượng nghiên cứu của triết học trong suốt quá trình
tồn tại và phát triển. Mức độ nghiên cứu vấn đề tôn giáo ở các thời đại hay
các nhà triết học là khác nhau. Ngay từ thời cổ đại, tôn giáo đã được các nhà
triết học quan tâm nghiên cứu.
Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm trong
triết học thời kỳ cổ đại trước hết là cuộc đấu tranh của khoa học chống tôn
giáo, phê phán tư tưởng thần học thần bí nhằm bảo vệ những quan điểm của
khoa học tự nhiên. Vì thế, trong luận văn này, chúng tôi sẽ điểm qua những tư
tưởng về tôn giáo của các nhà triết học trước C.Mác, xem đó là tiền đề cho sự
hình thành những quan điểm duy vật về tôn giáo của C.Mác và Ph.Ăngghen
sau này.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học Hy Lạp như Anaximen (khoảng
588 - 525 TCN), Hêraclít (khoảng 544 - 478 TCN), Đêmôcrít ( khoảng 460370 TCN) đã coi một dạng vật chất cụ thể như không khí, lửa, nguyên tử là
nguồn gốc và bản chất chung của mọi vật, thần thánh cũng chỉ là sản phẩm
được sinh ra từ một bản nguyên vật chất, cũng có nguồn gốc vật chất. Hay
Kxênôphan (khoảng 570 - 478 TCN) là người đầu tiên có quan điểm đúng
đắn rằng: Không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà tôn giáo và các vị
thần là kết quả sáng tạo của con người. Chính con người đã sáng tạo ra các vị
thần theo sự tưởng tượng của mình. Vì thế, mỗi dân tộc lại có những quan

niệm khác nhau về các vị thần linh, về thượng đế phụ thuộc vào phong tục,


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
10

tập quán, lối sống của họ. Những vị thần của Hy Lạp cổ đại chẳng qua cũng
chỉ là sự nhân cách hoá những thuộc tính của con người, thần Dớt là sự nhân
cách của mặt trời, thần Atêna là sự nhân cách của lý tính con người. Do đó,
trên thực tế chẳng có Thượng đế cũng như vị thần linh nào cả, những hình ảnh
của chúng chẳng qua là do trí tưởng tượng của con người tạo ra.
Luycơrêtiúyt (99 - 55 TCN) là nhà tư tưởng xuất sắc thời La Mã cổ đại,
Ông kế thừa và phát triển học thuyết nguyên tử luận của Đêmôcrít. Trong tập
thơ Bàn về bản chất của sự vật, ông đã lên án tôn giáo vì cho rằng chính tôn
giáo đã đưa con người vào cảnh khổ sở cực độ, làm u ám trí óc của con người
và đẩy họ vào những hành động vô luân lý hoặc tội ác. Vì thế, tôn giáo là thứ
nô dịch và hạ thấp con người.
Luycơrêtiúyt cũng cho rằng nguồn gốc sinh ra tôn giáo là do lòng sợ chết
của con người và sự dốt nát khi đứng trước những lực lượng khủng khiếp của
tự nhiên, là sự sai lầm khi giải thích những giấc mơ và là sự thiếu hiểu biết về
nguyên nhân tự nhiên của vạn vật. Thần thánh chính là do trí tưởng tượng của
con người đẻ ra.
Trong tập thơ thứ năm của mình, Luycơrêtiúyt cũng cho rằng bản chất
của thần thánh là một cái gì đó mà cả cảm tính và lý tính của chúng ta hoàn
toàn không hiểu được và điều đó không có một quan hệ nào với thực tại. Giải
phóng nhân loại khỏi niềm tin vào thần thánh là điểm trung tâm trong quan
điểm của ông. Mục đích của đời sống là hạnh phúc đạt được trọng sự thanh
tịnh, bằng sự bình thản về tinh thần. Muốn có được điều đó, con người phải
thoát khỏi sự lo âu và sợ hãi. Nhiều nhà triết học sau này đã đánh giá
Luycơrêtiúyt là một nhà triết học vô thần xuất sắc thời Hy Lạp cổ đại.

Đầu thế kỷ XV, chế độ phong kiến ở Tây Âu với nền sản xuất nhỏ và các
đạo luật hà khắc trung cổ bước vào thời kỳ tan rã và bước sang thời kỳ Phục
hưng. Trong thời Trung cổ giai cấp phong kiến và các giáo hội nắm quyền


11

thống trị, tôn giáo chính là kẻ thù của con người, kẻ thù của khoa học và là
lực lượng kìm hãm sự phát triển của tri thức con người trong suốt mấy trăm
năm. Tuy nhiên, sự thống trị của tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo cũng có
ảnh hưởng to lớn với sự phát triển của triết học thời Phục hưng. Dưới lớp vỏ
thần học, nhiều nhà tư tưởng như Nicôlai Kuzan, Lépnít đã xây dựng nhiều
quan niệm triết học tích cực. Mặc dù dưới hình thức hư ảo, thần bí nhưng
những quan niệm tôn giáo đã đề cao giá trị và sức mạnh của con người trong
nhận thức và cải tạo thế giới. Tuy nhiên, các quan niệm thần học và tôn giáo
nhìn chung vẫn là một trở ngại lớn đối với sự phát triển của triết học và khoa
học thời Phục hưng và Cận đại. Vì thế, xu hướng chung của triết học và khoa
học thời kỳ này là đấu tranh chống lại những quan điểm tôn giáo và thần học
thần bí, dần thoát khỏi ảnh hưởng của nhà thờ và giáo hội.
Trong thời kỳ phục hưng, tôn giáo là đối tượng trực tiếp và chủ yếu của
sự phê phán. Phê phán tôn giáo cũng chính là phê phán các thế lực đang kìm
hãm sự phát triển của tư tưởng nhân loại. Đấu tranh xoá bỏ tôn giáo là để giải
phóng nhân loại khỏi sự thống trị trực tiếp của nhà thờ, đưa con người trở lại
vị trí trung tâm, giải phóng con người và khoa học khỏi ảnh hưởng của tôn
giáo. Khi đó, giai cấp tư sản đang lên đã phát triển hệ tư tưởng của mình và
lập ra một nền văn hoá mới. Vì thế, giai cấp tư sản với tư cách là đại diện cho
lực lượng xã hội tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng phong kiến,
chống các thế lực nhà thờ và tôn giáo đã tìm cách giải phóng tư tưởng loài
người khỏi sự thống trị của Cơ đốc giáo, dọn đường cho khoa học phát triển.
Có thể kể ra một số đại biểu tiêu biểu như Lêôna Đơvanhxi, Tômát Morơ,

Nicôla Côpecních… Họ là những người đã có công lớn trong việc đưa ra
những tư tưởng về đấu tranh chống tôn giáo, đề cao tri thức và con người.
Bản thân họ cũng chính là những người đã hi sinh hết mình cho khoa học và
sự tiến bộ của nhân loại.


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
12

Trên cơ sở khắc phục chủ nghĩa kinh viện và thần học thời trung cổ, triết
học duy vật thời phục hưng được bắt đầu phục hồi và phát triển ở ý, với
những tên tuổi của các nhà triết học như Pietơrô Pômpônatxi (1462 - 1524),
Nicôlai Côpécních (1473 - 1543), Gioócđanô Brunô (1548 -1600), Galilêô
Galilê (1564 - 1542), Lêôna Đơvanhxi ( 1452 - 1519)…Họ được coi là những
nhà triết học duy vật, đấu tranh chống lại Giáo hội và lý thuyết thần học của
nó, coi đó là công cụ do những kẻ lập pháp bịa đặt ra để kìm kẹp dân chúng.
Họ đều xem, tôn giáo, thần thánh là kết quả của sự lừa dối của giới tu sĩ và sự
tưởng tượng sai lầm của con người. Theo họ, mọi hiện tượng tự nhiên đều
phục tùng quy luật khách quan, chân lý không bao giờ thuộc về tôn giáo mà
thuộc về khoa học, những “thầy tướng”, “thầy phù thuỷ” chỉ là những kẻ
đứng trên đỉnh của sự ngu dốt.
Quan niệm về cái gọi là “chân lý hai mặt” của Galilêô Galilê khi nhận
định về tôn giáo có phần mềm dẻo hơn, theo ông, giới tự nhiên và kinh thánh
như “hai cuốn sách” không liên quan với nhau. Kinh thánh dạy cho con người
nhiều điều hay lẽ phải trong cuộc sống thông thường, còn khoa học giúp con
người khám phá ra những quy luật của giới tự nhiên. Trong lĩnh vực khoa
học, kinh thánh không có tác dụng gì cả. Từ đó ông cho rằng tôn giáo và khoa
học là hai lĩnh vực cần thiết trong cuộc sống của con người. Vì vậy các nhà
thông thái cần phải biết khai thác những mặt hợp lý trong các luận điểm của
kinh thánh vì nói chung, về nguyên tắc kinh thánh không có gì sai mà sau này

chính những người diễn giải nó đã bóp méo và mắc phải nhiều sai lầm.
Có thể nói, trong thời kỳ này, các nhà tư tưởng thời phục hưng với tư
tưởng đấu tranh chống tôn giáo, chống chủ nghĩa kinh viện luôn gắn với tri
thức khoa học, đặc biệt là tư tưởng chống tôn giáo đã tạo ra một bước ngoặt
quan trọng trong lịch sử tư tưởng nhân loại, mở ra một thời kỳ phát triển mới
cho triết học và khoa học. Trên cơ sở đó, các nhà triết học đã đề cao tư tưởng
giải phóng con người - một quan điểm tiến bộ mang đậm tính nhân văn.


13

Từ sau thời kỳ phục hưng, tinh thần chống tôn giáo và tư tưởng giải
phóng con người khỏi sự thống trị của thần học đã trở thành ngọn cờ tiên
phong của các nhà triết học. Với việc kế thừa một cách xuất sắc những thành
tựu của thời kỳ phục hưng, các nhà duy vật Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII đã tạo
ra một bước chuyển biến mới đối với sự phê phán tôn giáo một cách toàn diện
bằng cách đề cao chủ nghĩa duy vật vô thần. Trong thời kỳ này đã nổi lên một
số đặc điểm sau:
Một là, Các nhà duy vật thời kỳ này không thừa nhận sự tồn tại của đấng
sáng thế, phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế và sự bất tử của linh hồn để đi
đến chứng minh rằng Thượng đế là một ý tưởng đầy mâu thuẫn và không thể
đứng vững.
Hai là, họ đã tấn công vào nhà thờ và Kitô giáo. Hônbách cho rằng nhà
thờ đã trở thành đồng minh của nhà nước phong kiến nhằm thống trị nhân dân
bằng lừa mị. Ông gọi đó là “nghệ thuật đầu độc nhân dân” hay “thuốc độc”.
Các nhà duy vật thời kỳ này đã phê phán sự thống trị của tôn giáo và nhà thờ,
họ đã quy trách nhiệm cho nhà thờ trong việc làm cho nhân dân say sưa trong
sùng tín mà quên đi những đau khổ hiện tại, hi vọng vào hạnh phúc bên kia
thế giới mà không băn khoăn về quyền lợi trong cuộc sống ở thế gian này.
Ba là, các nhà duy vật thời kỳ này còn chỉ ra những tác hại của tôn giáo.

Tôn giáo là nguyên nhân của mọi tệ nạn xã hội. Họ yêu cầu tách tôn giáo ra
khỏi nhà nước, tách thần học khỏi triết học và khoa học. Chẳng hạn, theo
R.Owen, tôn giáo đã biến con người thành những sinh vật khốn khổ và thụ
động nhất. Tôn giáo với chủ nghĩa khổ hạnh đã đi ngược lại với hạnh phúc
của nhân dân, những cuộc chiến tranh thần thánh đi ngược lại với hạnh phúc
của quốc gia, gây trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Bốn là, Các nhà duy vật Tây Âu thế kỷ XVII, VVIII đã chống lại tất cả
các hình thức và tính chất mê tín, giáo điều nhưng lại đề cao lý trí thuần tuý.


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
14

Vì thế nên đã có sự phân chia về mặt tư tưởng, một phần trong số họ trở thành
những nhà vô thần như Mesles, Hônbách, P. Bayle, La Mettrie, R. Owen; một
phần giữ nguyên quan điểm thần luận nhưng đã có đề cao tôn giáo trên cơ sở
của lý trí như Rowsseaw. Th. More, Voltaire, J. Loke…
Năm là, hầu hết các nhà triết học đều tìm cách giải thích tôn giáo như
một “sự lừa bịp”, “sự ngu dốt” hoặc nhẹ nhàng hơn là “sự nhầm lẫn”. Một vài
người trong số học đã bước đầu đưa ra lý giải về nguồn gốc lịch sử, xã hội và
tâm lý của tôn giáo. Pierre Bayle giải thích lòng mộ đạo và mê tín cuả con
người xuất phát từ nỗi sợ trước tương lai mà nỗi sợ đó lại được đám linh mục
và bọn thống trị lợi dụng để cai trị một cách dễ dàng hơn. Hônbách lại cho
rằng tâm lý say sưa, sự quên lãng của người dân là bị đầu độc bằng tôn giáo.
Henvituýt, người tiến xa nhất đã dùng khái niệm “sự phản ảnh hư ảo” để giải
thích nguồn gốc ra đời của tôn giáo cho khao khát hạnh phúc và động cơ ích
kỷ của con người. Tôn giáo cũng chính là kết quả của sự bất mãn của con
người trước những điều kiện sống kém may mắn.
Sáu là, một trong số những nhà triết học đã lớn tiếng ca ngợi chủ nghĩa
vô thần. La Mettrie cho rằng một xã hội gồm toàn những người vô thần là một

xã hội lý tưởng và ở đó con người được hạnh phúc, được giải phóng khỏi tôn
giáo. Hôn bách nhiệt liệt ca ngợi chủ nghĩa vô thần, chống lại mọi hình thức
của niềm tin tôn giáo. Theo P. Bayle, nếu một cộng đồng được sống theo
những nguyên tắc của Kitô giáo đề ra thì chắc chắn cộng đồng ấy sẽ tiêu
vong. Con người không tự hạ thấp mình bằng sự vô thần mà sẽ tự hạ thấp
mình bằng mê tín, bằng thờ cúng ngẫu tượng. Điều đó báo trước sự ra đời của
một xã hội vô thần.
Tômát Hôpxơ (1588 - 1679), Vônte (1694 - 1778), Điđrô (1713 - 1784),
Hônbách (1723 - 1751) là những đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật
Anh, Pháp thế kỷ XVII. Theo các ông, gốc rễ của tôn giáo là sự sợ hãi do ngu


15

dốt đẻ ra: “ Sự sợ hãi trước một lực lượng vô hình do trí tuệ bịa ra hay là
tưởng tượng ra căn cứ vào những điều bịa đặt mà nhà nước dung túng gọi là
tôn giáo. Cũng một quan điểm như vậy dựa trên những điều bịa đặt mà nhà
nước không dung túng mang tên là mê tín” [15, 345]. Tôn giáo và mê tín
không có gì khác nhau. Tuy nhiên, tôn giáo cần thiết cho nhà nước, là công cụ
để mọi người tuân theo các chuẩn mực của nhà nước nhưng nhà thờ phải phục
tùng nhà nước chứ không phải nhà nước phục tùng nhà thờ. Các ông đấu
tranh không phải chống lại niềm tin mà chống lại mê tín dị đoan, không phải
chống lại tôn giáo mà chống lại giáo hội.
Theo họ, không có linh hồn bất tử, cũng không có tư tưởng bẩm sinh.
Xuất phát tự quan niệm duy vật về thế giới, Hônbách đã nghiên cứu về nguồn
gốc và bản chất của tôn giáo, ông cho rằng nếu trong cuộc sống của con người
không có tai hoạ thì không bao giờ con người suy nghĩ đến thần linh. Do
trong cuộc đời con người thường xuyên phải chịu đau khổ vì thiên tai, địch
hoạ, bệnh tật. Điều đó làm con người luôn phải sợ hãi và cần đến thần linh.
Người nguyên thuỷ do chưa có kinh nghiệm và biết các quy luật tự nhiên nên

khi đứng trước các hiện tượng tự nhiên thần bí và kỳ lạ nên con người thường
sợ hãi và cần đến thần linh. Từ đó, tôn giáo ra đời.
Do chưa có quan điểm duy vật trong việc xem xét các vấn đề xã hội nên
các nhà khai sáng Pháp và triết học duy vật Anh khó có thể giải thích một
cách đúng đắn nguồn gốc phát sinh và phát triển của tôn giáo. Tuy nhiên, họ
đã vạch trần được vai trò phản động của tôn giáo bởi tôn giáo là công cụ của
giới quý tộc và thày tu để áp bức nhân dân. Vì thế, họ chủ trương cần phải
tiêu diệt và loại bỏ sự mê muội của tôn giáo ra khỏi đời sống của con người.
Con người sẽ thực sự hạnh phúc khi được giải phóng khỏi ý thức tôn giáo. Do
đó, Hônbách đã rất quyết liệt đòi giải phóng con người khỏi mọi hệ tư tưởng
thống trị trong đó hệ tư tưởng Thiên Chúa chiếm địa vị thống trị, ông chống


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
16

lại mọi hình thức của niềm tin tôn giáo và nhiệt tình ca ngợi chủ nghĩa vô
thần. Với Owen, giới linh mục và thiết chế nhà thờ là những thứ cản trở đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội vì những giá trị cần thiết như tình thương, tình
bằng hữu phải là kết quả của một nền giáo dục có lý trí. Còn P.Bâyle cực
đoan hơn khi ông kết luận: nếu một cộng đồng nào đó chỉ sống theo nguyên
tắc đề ra của Kitô giáo thì chắc chắn cộng đồng ấy sẽ bị tiêu vong. Ông cho
rằng, con người không tự hạ thấp mình bằng sự vô thần mà ngược lại, tự hạ
thấp mình bằng niềm tin tôn giáo và sự thờ cúng ngẫu tượng.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nước Đức vẫn là một nước lạc hậu về
kinh tế và chính trị so với nhiều nước phương Tây như Anh và Pháp. Đức vẫn
là một quốc gia phong kiến, giai cấp tư sản không có được các sức mạnh
chính trị như Pháp và sức mạnh kinh tế như Anh, nhưng những thành tựu của
triết học cổ điển Đức lại đánh dấu một bước phát triển lớn trong tư duy nhân
loại. Triết học cổ điển Đức đã vượt lên trên triết học Tây Âu thế kỷ XVII XVIII bằng việc đề cao vai trò tích cực của con người, coi con người là nền

tảng và xuất phát điểm của mọi vấn đề triết học nhất là những tư tưởng về
phép biện chứng trong đó người mở đầu là I.Cantơ và đỉnh cao là Hêghen.
Tuy nhiên, triết học cổ điển Đức lại lùi một bước trong sự phê phán tôn giáo
so với triết học Tây Âu trước đó. Tôn giáo với các nhà triết học cổ điển Đức
không còn là tôn giáo với những tín điều truyền thống thiêng liêng như trước
kia. Các khái niệm tôn giáo có phần mang màu sắc tư biện. Với I.Cantơ (1724
-1804), ý niệm Thượng đế là sự thống nhất tuyệt đối mọi hiện tượng. Với
Fíchtơ (1762 - 1814), ý niệm Thượng đế được hiểu như một trật tự đạo đức
toàn thế giới, mọi đức tin phản bác lại trật tự đạo đức này đều là đức tin sa
đoạ, đẩy con người đến tiêu vong. Hêghen (1770 - 1831) lại muốn hoà giải
triết học và thần học.


17

I. Cantơ - người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức, là một trong
những nhà triết học vĩ đại nhất của triết học phương Tây trước Mác. Ông có
cách tiếp cận mới mẻ đối với nhiều vấn đề triết học, kể cả trong lĩnh vực
nghiên cứu tôn giáo. Ông là một trong số những nhà triết học đầu tiên đã tách
hẳn một bộ phận triết học, chỉ giành cho việc nghiên cứu tôn giáo góp phần
cho việc hình thành và phát triển triết học tôn giáo với tư cách là một lĩnh vực
của tôn giáo học. Cantơ đã giành nhiều tác phẩm chuyên sâu cho việc khảo
cứu tôn giáo, trước hết là tác phẩm “Tôn giáo chỉ trong khuôn khổ của lý
tính”. Ý niệm Thượng đế đối với ông vẫn là sự thống nhất tuyệt đối của mọi
hiện tượng và Thượng đế tuy không phải là đối tượng của nhận thức về mặt lý
thuyết nhưng là một đòi hỏi của lý trí thực tiễn và là hiện thực.
Trong tác phẩm “Tôn giáo chỉ trong khuôn khổ của lý tính”, Cantơ đã
xác định khái niệm tôn giáo. Ông đã khái quát và phát triển những tư tưởng
triết học về tôn giáo. Xuất phát từ chỗ cho rằng đạo đức không cần đến tôn
giáo mà nó được tự quy định mình nhờ lý tính thực tiễn thuần tuý. Nhưng đạo

đức lại nảy sinh quan niệm về mục đích, tối hậu của vạn vật. Điều này tạo ra
một thực tế khách quan để kết hợp tính hợp lý của tự do với tính hợp lý của tự
nhiên. Do đó, đạo đức tất yếu dẫn tới tôn giáo. Nếu đạo đức thừa nhận tính
thiêng liêng của quy tắc đạo đức là đối tượng của sự tôn trọng sâu sắc nhất thì
cấp độ tôn giáo lại quan niệm nguyên nhân tối cao, nguyên nhân hoàn thành
các quy tắc ấy là đối tượng của sự thờ cúng.
Cantơ phân biệt giữa niềm tin lịch sử mà ông gọi là “niềm tin giáo hội”
với niềm tin tôn giáo thuần tuý, niềm tin của lý tính thuần tuý, niềm tin đạo
đức. Niềm tin giáo hội mang tính cưỡng chế còn niềm tin đạo đức mang tính
tự do. Niềm tin lịch sử là “tự nó xơ cứng” tức tự nó không bao hàm một giá
trị đạo đức nào, còn niềm tin đạo đức luôn sống động và cuộc đấu tranh của
hai tôn giáo này thường xuyên diễn ra trong lịch sử. Do phù hợp với các hình


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
18

thức niềm tin khác nhau, tuỳ thuộc vào lối suy nghĩ, sự thờ cúng và các hình
thức ứng xử mà tôn giáo được biểu hiện thành các tôn giáo cụ thể khác nhau.
Theo Cantơ, nên nói là người này có niềm tin này hay niềm tin khác chứ
không nên khẳng định là họ tin theo tôn giáo này hay tôn giáo khác. Khái
niệm ý chí của Chúa là chỉ cho phép suy nghĩ một Chúa nên chỉ có một tôn
giáo như là tôn giáo đạo đức thuần tuý. Nếu chỉ có một tôn giáo chân thực thì
lại có những hình thức đức tin khác nhau.
Cantơ cũng đi sâu vào phân biệt tôn giáo thờ phụng Chúa với tôn giáo đạo
đức thuần tuý. Tôn giáo đạo đức thể hiện khát vọng thường xuyên về một lối
sống có đạo đức, về cái thiện, việc luôn hoàn thành nghĩa vụ đối với con người
chính là việc hoàn thành những lời răn của Chúa. Vì vốn có quan hệ với đạo
đức, đòi hỏi thường xuyên phụng sự Chúa tốt hơn theo một cách thức khác là
con người chỉ có thể tác động và ảnh hưởng đến sinh thể khác nhau trong thế

giới này, chứ không phải tới Chúa. Cantơ đề cao vai trò của Thiên Chúa giáo,
coi đó là tôn giáo chân chính, hoàn hảo trước hết là biến thể Tin lành giáo. Nó
là tôn giáo tự nhiên, bác học và mặc khải. Về niềm tin Thiên Chúa giáo, một
mặt như là niềm tin thuần tuý của lý tính được mỗi người lĩnh hội một cách tự
do, còn niềm tin mặc khải thể hiện là niềm tin được khuyên răn.
Cantơ đặt vấn đề về mối liên quan giữa thần học và tôn giáo. Ông phê
phán thần học duy lý. Ông chỉ ra rằng các luận cứ bản thể luận, vũ trụ luận và
thần học vật lý chứng minh cho sự tồn tại của Chúa là không đủ sức thuyết
phục. Theo ông, thần học đạo đức mới đem lại khái niệm về đấng sáng thế
duy nhất, là khái niệm hữu ích đối với thần học. Sự tin tưởng vào sự tồn tại
của Chúa không phải nhờ vào lý luận mà nhờ vào thực tiễn, bắt nguồn từ
những ý niệm cơ bản về đạo đức. Luận cứ đạo đức chứng minh đầy đủ sự tồn
tại của Chúa chỉ đối với mục đích đạo đức của con người, tức là chỉ về
phương diện thực tiễn. Thần học dẫn tới tôn giáo chính là vì như vậy. Thần


19

học không cần mở rộng nhận thức về tự nhiên mà chỉ cần cho tôn giáo, tức
cho việc sử dụng lý tính trong thực tiễn về mặt đạo đức một cách chủ quan.
Đến Hêghen (1770 - 1831), ông không tán thành thái độ vô thần của
những nhà khai sáng Pháp nhưng không phải vì thế ông muốn đưa nhà thờ trở
về thời trung cổ. Cái ông muốn là một tôn giáo theo định hướng các giá trị
của giai cấp tư sản. Ông muốn hoà giải triết học với thần học (và chính vì lý
do này mà các môn đệ của ông được chia làm hai phái Hêghen trẻ và Hêghen
già). Chính ông cũng là người dùng từ “thuốc phiện” để chỉ tôn giáo.
Khi biến tôn giáo thành đối tượng của mình, triết học không phân định
với tôn giáo. Triết học và tôn giáo có nội dung chung, các nhu cầu và sự quan
tâm chung. Giống như triết học, đối tượng của tôn giáo là chân lý vĩnh cửu
trong tính khách quan của nó, là Chúa và sự lý giải Chúa. Theo Hêghen, Chúa

là cơ sở trong triết học tôn giáo. Triết học tôn giáo là sự phát triển, sự nhận
thức về Chúa, phân tích quan hệ (luận chứng cho tính cần thiết của của quan
điểm tôn giáo, làm sáng tỏ các hình thái ý thức tôn giáo…), nghiên cứu lễ
nghi. Hêghen định nghĩa tôn giáo bắt đầu từ Chúa với tư cách nội dung và
nguyên tắc của nó. Khái niệm về tôn giáo thể hiện chỉ có tôn giáo là tri thức
tuyệt đối chân thực.
Theo Hêghen, đối với những người hữu thần thì Chúa là một cái gì đó
quen thuộc, hiện diện trong ý thức con người nhưng chưa được làm sáng tỏ về
mặt khoa học. Chúa chỉ là Chúa vì Chúa chỉ nhận thức bản thân mình, tri thức
của Chúa về bản thân mình là tự ý thức trong con người. Tri thức của con
người về Chúa phát triển thành tri thức của con người về bản thân mình ở
trong Chúa. Chúa là ý thức tuyệt đối, là tinh thần được xem xét như sự thống
nhất giữa khái niệm và hiện thực vì bản thân khái niệm tổng thể, tức là thực
tại. Chúa thể hiện là cái chân lý tuyệt đối, vạn vật đều bắt đầu từ nó và quay
về nó, vạn vật đều phụ thuộc vào nó và ở bên ngoài nó thì không một cái gì có


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
20

tính độc lập đích thực. Chúa là cái chung tự nó và cho nó, bao hàm vạn vật và
đem lại cho vạn vật tính ổn định. Chúa là duy nhất và không đối lập với nhiều
thần linh. Tinh thần của Chúa là tồn tại không phải tự thân nó mà tồn tại cho
cái khác. Tinh thần hữu hạn và lễ nghi là quan hệ của tinh thần hữu hạn với
tinh thần tuyệt đối.
Theo Hêghen, tôn giáo bắt đầu từ tinh thần hữu hạn, từ ý thức chủ
quan.Tôn giáo không phải là sản phẩm của ý thức chủ quan, nó là sản phẩm
của tinh thần Chúa chứ không phải là khám phá của con người, là kết quả tác
động của Chúa đến con người và là hoạt động của Chúa trong con người.
Sau khi Hêghen mất, các học trò của ông do bất đồng trong quan điểm về

tôn giáo đã chia thành hai phái. Phái Hêghen già muốn nhấn mạnh phần chính
thống trong quan điểm của Hêghen, họ muốn bảo tồn quan điểm tôn giáo của
Hêghen. Phái Hêghen trẻ lại muốn nhấn mạnh đến mặt triết học và chuyển
hoá tôn giáo vào triết học theo xu hướng vô thần cấp tiến.
Năm 1835, F. Stơrauxơ đã viết tác phẩm “Cuộc đời Giêsu - biên khảo và
phê phán”. Tác phẩm này đã đi ngược lại với quan điểm của phái Hêghen
chính thống, đồng thời ông còn nêu ra những luận đề phê phán tôn giáo theo
tinh thần của một dòng triết học mới. Trong tác phẩm này, ông đã dày công
khảo cứu và đi đến một kết luận duy nhất được coi như một đòn chí tử đối với
các nhà thần học: Nhân vật Giêsu là ai? Câu trả lời của ông là: Chúng ta hầu
như không biết gì về điều đó và nếu có biết cũng hoàn toàn không chính xác.
Đó chính là sự hoài nghi Giêsu, hoài nghi nguồn gốc thần thánh của tôn giáo.
Nó là tiền đề cho việc xem xét lại nguồn gốc hiện thực của nhiều tôn giáo.
Nhưng Stơrauxơ mới chỉ tạo ra tiền đề mà không đi tiếp nốt con đường mà
ông đã mở, không muốn thay đổi nó bằng một hành động chính trị xã hội cụ
thể mà chỉ bằng tư tưởng thuần tuý.


21

Một đại biểu của phái Hêghen trẻ khác, Brunô Bauơ ( 1809 - 1882) là
một nhà vô thần rất hăng hái. Ông thậm chí không chấp nhận có một Giêsu
nào cả trong lịch sử và kết luận rằng tất cả những câu chuyện có trong kinh
Tân ước đều là sản phẩm hư cấu của các nhà văn Kitô giáo. Theo ông, Kitô
giáo là con đẻ của chính xã hội Hy - La cổ đại.
Công lao chính của các nhà triết học trong phái Hêghen trẻ (không kể L.
Phoiơbắc) là sự phê phán nền tảng lịch sử của đức tin Kitô giáo qua việc
nghiên cứu các văn bản Kinh thánh và lịch sử hình thành của Kitô giáo. Họ
phê phán không thương tiếc tất cả những gì có hơi hướng tôn giáo. Tất cả
những chỗ tôn giáo có thể ló dạng, mà không thể tiến xa hơn các bậc tiền bối

trong việc giải thích nguồn gốc tâm lý và kinh tế xã hội của tôn giáo. Khi vấn
đề được đặt ra là cần phải vượt qua tôn giáo mà họ lên án quyết liệt bằng cách
nào thì họ mắc phải hạn chế. Hầu như tất cả họ tìm đến con đường giải thoát
hết sức duy tâm hoặc tìm đến một thứ tôn giáo khác, tôn giáo của tình yêu con
người. Bauơ đòi thực hiện cách mạng trong ý thức thuần tuý bằng cách tuyên
truyền chủ nghĩa vô thần, phải khai hoá cho các “ảo tưởng”. Stơrauxơ muốn
thay thế tôn giáo bằng triết học. Stiếcnơ lại cho rằng: “Mục đích của tôi
không phải là lật đổ thực tại mà là vượt lên thực tại, nghĩa là vượt qua tôn
giáo bằng ý thức và tư tưởng.
L.Phoiơbắc (1804 1872) ban đầu chịu ảnh hưởng của triết học Hêghen.
Phoiơbắc tham gia phái Hêghen trẻ với niềm tin rằng tôn giáo, các khái niệm
của tinh thần tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sau
đó do ảnh hưởng của các nhà duy vật Pháp và chứng kiến thực tiễn phát triển
xã hội và triết học đầu thế kỷ XIX, ông đã ngày càng ngả sang lập trường duy
vật, nhận thấy hạn chế trong hệ thống triết học Hêghen và quay sang phê phán
những điểm hạn chế của Hêghen. Theo ông, hạn chế chủ yếu trong triết học
Hêghen là ở tính duy tâm của nó trong việc giải quyết vấn đề mối quan hệ


Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
22

giữa con người và thế giới, giữa tinh thần và vật chất, coi toàn bộ thế giới
hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như là một lực
lượng siêu nhiên. Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng, chỗ dựa hợp lý
cuối cùng của thần học… Đối lập với quan điểm của Hêghen, Phoiơbắc thẳng
thắn cho rằng con người không phải là nô lệ của Thượng đế hay tinh thần
tuyệt đối mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên. Con
người là cái cao quý nhất mà tạo hoá có được. Chỉ có thể giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học về quan hệ tinh thần và vật chất trên cơ sở nhận thức của con

người. Bản thân những con người cụ thể là bằng chứng hùng hồn về sự thống
nhất giữa vật chất (cơ thể con người) và tinh thần (tức tư duy con người),
trong đó cơ thể là nền tảng của lý tính. Vậy thì con người đó là gì? Đó chính
là những con người bằng xương bằng thịt đang sống và làm việc, là chính bản
thân chúng ta chứ không phải là con người trong trí tưởng tượng. Ông phê
phán Hêghen quan niệm con người một cách trừu tượng và thần bí, coi đó là
một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra hiện thực. Nhưng hạn chế lớn nhất của
ông là khi phê phán hệ thống duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc phủ nhận luôn
cả phương pháp biện chứng, thành tựu vĩ đại nhất trong triết học Hêghen.
Phương pháp biện chứng trong thực tế đã bị Phoiơbắc tầm thường hoá thành
mối quan hệ giao tiếp thông thường giữa mọi người trong xã hội. Tuy nhiên,
nhìn chung quan điểm của Phoiơbắc về bản chất con người cũng có những
điểm hợp lý nhất định. Điều đó thể hiện ở lập trường duy vật khi ông khẳng
định con người cũng như toàn bộ thế giới loài người là sản phẩm của tự
nhiên. Ông cũng đề cao tính cá thể của mỗi người bởi lý do thể hiện nguyện
vọng của giai cấp tư sản Đức tiến bộ thời đó muốn đấu tranh đòi giải phóng
nhân cách cá nhân khỏi mọi hệ thống giáo lý trật tự xã hội hà khắc của nước
Đức phong kiến quý tộc. Tuy nhiên, hạn chế của ông là ở chỗ không nhận
thức được bản chất xã hội của con người mặc dù đôi khi ông vẫn nói đến hoạt


23

động xã hội của con người. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con
người phi lịch sử, phi giai cấp, phi dân tộc nên rất trừu tượng, không cụ thể.
Năm 1841, tác phẩm “Bản chất của Kitô giáo” của Phoiơbắc ra đời và
ngay lập tức có một ảnh hưởng rất lớn. C.Mác đã nhiệt liệt chào đón cuốn
sách này và cho rằng sự ra đời của nó “về thực chất đã kết thúc sự phê phán
tôn giáo”. Trong tác phẩm này, L.Phoiơbắc đã làm được những điều mà
những người thuộc phái Hêghen trẻ khác không làm được khi cho rằng sự phê

phán tôn giáo được xem là đã kết thúc về cơ bản.
Năm 26 tuổi, Phoiơbắc đã cho xuất bản tác phẩm “Những suy nghĩ về cái
chết bất tử”. Ông đã đưa ra những phê phán tôn giáo và xã hội rất mạnh mẽ.
Triết học nhân bản của ông đã đặt con người vào vị trí trung tâm, biến tinh
thần và tư duy vốn là chủ thể của hệ thống triết học Hêghen thành những
thuộc tính của con người. Tính vượt trước của Phoiơbắc so với các nhà triết
học tôn giáo trước ông là ở chỗ ông đã giải quyết những vấn đề tôn giáo theo
quan điểm nhân bản. Trước đó, người ta nhìn tôn giáo như một cái gì đó ở
bên ngoài áp đặt vào con người. Vì thế, người ta đã nhìn thấy trong tôn giáo
những điều xấu xa nhưng lại không thấy con người, vai trò con người lu mờ.
Trong tác phẩm “Bản chất của Cơ đốc giáo”, ông đã đưa ra nhận định
mang tính duy vật và được coi là luận điểm có tính chất nền tảng: “Không
phải Thượng đế sinh ra con người mà trái lại, con người đã tạo ra Thượng đế
theo hình ảnh của mình. Con người suy nghĩ ra sao, tâm tư của họ như thế nào
thì Thượng đế của họ đúng như vậy. Con người có bao nhiêu giá trị thì
Thượng đế của họ cũng có bấy nhiêu, không hơn. ý thức về Thượng đế là sự
tự ý thức của con người, sự nhận thức của Thượng đế là sự nhận thức của con
người. Từ Thượng đế có thể suy ra con người và từ con người có thể suy ra
Thượng đế của họ, hai thứ chỉ là một. Cái mà con người cho là Thượng đế
đấy chính là tinh thần, là tâm hồn, là trái tim của họ. Thượng đế đấy là cái bên


×