Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Văn xuôi ngọc giao trong tiến trình văn học hiện đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 173 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGHIÊM THỊ HỒ THU

VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.GS Phong Lê
2. PGS.TS Lưu Khánh Thơ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu của luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kì
công trình nào khác.
Tác giả luận án

Nghiêm Thị Hồ Thu



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................ 6
1.1. Tổng quan về văn học hiện đại Việt Nam và sự xuất hiện của nhà văn Ngọc Giao ... 6
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu về tác giả Ngọc Giao .......................................... 20
CHƯƠNG 2. VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI THẾ
KỈ XX ........................................................................................................................... 32
2.1. Cơ sở hình thành văn xuôi Ngọc Giao . ................................................................. 32
2.2. Quá trình sáng tác của nhà văn Ngọc Giao ........................................................... 40
2.3. Quan niệm nghệ thuật Ngọc Giao .......................................................................... 55
CHƯƠNG 3. ĐỀ TÀI VÀ NHÂN VẬT VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG
TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM ................................................. 61
3.1 Những đề tài chính trong văn xuôi Ngọc Giao ....................................................... 61
3.2. Thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn xuôi Ngọc Giao ....... 77
CHƯƠNG 4. NGƯỜI KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU VĂN XUÔI
NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM ........... 107
4.1 Người kể chuyện trong văn xuôi Ngọc Giao

.................................................. 107

4.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi Ngọc Giao ................................ 121
4.3. Giọng điệu trong văn xuôi Ngọc Giao ................................................................. 131
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 152
PHỤ LỤC .. ................................................................................................................ 163


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Văn học Việt Nam thế kỷ XX đã trải qua một thời kỳ vận động và phát
triển gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân tộc và đạt được nhiều thành tựu
rực rỡ. Đó là giai đoạn văn học dân tộc đứng trước hai yêu cầu là cách mạng hóa và
hiện đại hóa. Thực hiện được những yêu cầu đó, văn học thế kỷ XX đã tiếp tục đưa
nền văn học nước nhà vươn đến những tầm cao mới với một quy mô ngày càng
phong phú, đa dạng trong những năm cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI.
Sự phát triển của các trào lưu, xu hướng văn học, nhất là trong giai đoạn 1930-1945
đã đem đến những “mùa gặt” và tạc vào lịch sử văn chương Việt Nam “một thế hệ
vàng”. Làm nên diện mạo và khẳng định vị thế của văn học, yếu tố quan trọng và
tiên quyết đó chính là đội ngũ tác giả - lực lượng sáng tác. Vì vậy, nghiên cứu, tìm
hiểu, phát hiện những giá trị văn chương trong từng tác giả với hệ thống các tác
phẩm của họ luôn là việc làm cần thiết và hữu ích trong quá trình tiếp cận một nền
văn học.Việc đánh giá lại một số tác giả tiêu biểu của văn học hiện đại có đóng góp
cho tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam là điều cần thiết
1.2. Là một tác giả có vị trí quan trọng trong tòa soạn Tiểu thuyết thứ Bảy - tờ
báo phổ thông ra hàng tuần trong đời sống văn học trước 1945, Ngọc Giao là một
cây bút sung sức và quen thuộc với độc giả đương thời. Với một khối lượng tác
phẩm tương đối lớn và phong cách văn chương giàu mỹ cảm, hướng tới lý tưởng
nhân văn đậm chất trữ tình mà cũng giàu chất hiện thực, Ngọc Giao xứng đáng là
nhà văn hiện đại góp phần tạo dựng diện mạo văn học nước nhà thế kỷ XX, nhất là
giai đoạn 1930-1945 cũng như bộ phận văn học khu vực đô thị Hà Nội tạm chiếm
1947-1954. Do đó, sự nghiệp văn chương của nhà văn Ngọc Giao cần được tìm hiểu
và nghiên cứu nhằm làm sáng rõ hơn về một phong cách tác giả đã góp phần làm cho
văn học hiện đại Việt Nam thêm phong phú. Đó cũng là cơ sở để rút ra những nhận
định mang tính chất lý luận về một thời kỳ văn học, một giai đoạn văn học.
1.3. Mặc dù Ngọc Giao là một cây bút đã đem đến cho độc giả những giá trị
văn học không thể phủ nhận nhưng do cách nhìn nhận, sự đánh giá đôi khi còn chủ
quan, phiến diện, số phận văn chương Ngọc Giao đã phải trải qua nhiều thăng trầm,
sóng gió. Có một quá trình sáng tác xuyên suốt thế kỷ nhưng giai đoạn 1945 -1985
những đóng góp của ông hoàn toàn bị khuất lấp bởi những quy kết và phê phán khắc


1


nghiệt. Đó cũng là lý do Ngọc Giao gác bút trong một khoảng thời gian khá dài và
người đọc dần quên lãng, xa lạ với nhà văn. Đặc biệt là nhà văn có đời văn trải dài
dọc thế kỷ XX, Ngọc Giao là một trong số ít các tác giả nổi danh từ trước 1945 và
vẫn tiếp tục cống hiến chút sinh lực cuối đời cho nghiệp viết như một sự hồi sinh
mãnh liệt. Đứng trong hàng ngũ những nhà văn cùng thời như Thạch Lam, Thanh
Tịnh, Hồ Dzếnh, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng...có thể nói Ngọc Giao
là nhà văn có sức sống và sức viết tiềm tàng đáng ngưỡng mộ. Nếu như trước 1945,
bạn đọc từng xúc động, ám ảnh với những trang truyện ngắn đầy tính nhân văn của
Ngọc Giao thì vì những lý do riêng của hoàn cảnh lịch sử mà những đóng góp đáng
quý của Ngọc Giao trong giai đoạn sáng tác 1947 - 1954 với nhiều tác phẩm có giá
trị của văn học ở Hà Nội bị tạm chiếm đã bị lãng quên, kéo theo đó là sự thờ ơ, phủ
nhận, quy chụp về nội dung, tư tưởng của tác phẩm khiến cho tên tuổi Ngọc Giao bị
khuất lấp và cũng là hệ lụy cho quãng đời trầm lặng của Ngọc Giao cho đến những
năm 90 của thế kỷ XX. Cũng chính bởi "sự quên" đó, điểm lại lịch sử nghiên cứu về
tác giả Ngọc Giao, chúng tôi thấy số lượng các bài viết chưa nhiều, một số công trình
nghiên cứu chưa được chỉnh thể, hệ thống, đầy đủ về văn xuôi Ngọc Giao. Vì vậy,
việc nghiên cứu và đánh giá để phục dựng một chân dung văn học đã có những đóng
tích cực cho dòng văn xuôi hiện đại Việt Nam trong bối cảnh hiện trạng nghiên cứu
hiện nay về Ngọc Giao là một việc cần thiết để bù lấp khoảng trống văn học sử giúp
chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về tác giả và diện mạo nền văn học nước nhà.
Luận án hoàn thành hy vọng sẽ góp phần phục dựng một chân dung văn học
không thể không nói đến trong nền văn học Việt Nam hiện đại và góp thêm một tài
liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập văn học nói chung và
tìm hiểu tác giả Ngọc Giao nói riêng.
Vì những cơ sở lý luận và thực tế trên, theo chúng tôi, việc thực hiện đề tài
Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam là cần thiết và

mang tính khả thi.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến mục đích:
- Đặt văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại để
thấy được văn nghiệp của tác giả với những thành công và giới hạn cũng như bước

2


đầu có những đánh giá, nhận xét có hệ thống về đặc điểm văn chương, thế giới nghệ
thuật, vị trí, vai trò và đóng góp của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Nghiên cứu những phương diện cơ bản trong sự nghiệp sáng tác của Ngọc Giao
như: Hệ thống các tác phẩm và tìm hiểu các giai đoạn sáng tác, quan niệm văn
chương của nhà văn, đặc điểm các thể loại sáng tác chính là truyện ngắn, tiểu thuyết
và ký từ đó rút ra những đặc điểm cơ bản của văn xuôi Ngọc Giao trên các phương
diện cơ bản như: đề tài, thế giới nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu...
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Tập hợp, thống kê, phân loại các tác phẩm của Ngọc Giao theo giai
đoạn sáng tác và thể loại.
Thứ hai: Tìm hiểu tình hình chính trị, xã hội, những giao lưu, tiếp biến và tác
động của các yếu tố chủ quan và khách quan đến quá trình sáng tác và đặc trưng bút
pháp của nhà văn.
Thứ ba: Đi sâu phân tích lý giải các khía cạnh giá trị nội dung và nghệ thuật
của các tác phẩm văn học cụ thể để rút ra những nhận xét khái quát về từng thể loại
chính yếu trong từng giai đoạn sáng tác của tác giả nói riêng và đặc điểm văn xuôi
Ngọc Giao nói chung.
Thứ tư: Khẳng định những nét đặc trưng trong nội dung và nghệ thuật tác
phẩm Ngọc Giao. Đánh giá về phong cách và vị trí, đóng góp của nhà văn trong tiến
trình vận động của lịch sử văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ XX.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tác phẩm văn xuôi của Ngọc Giao trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu là tất cả các tác phẩm văn xuôi của Ngọc Giao, đặc biệt tập
trung vào các tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết và ký tiêu biểu đã được
xuất bản, tái bản. Trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh có sử dụng các
tác phẩm của các nhà văn hiện đại Việt Nam để làm tài liệu tham khảo, đối sánh.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn học sử: Sử dụng phương pháp nghiên cứu này,
người viết đặt tác phẩm của Ngọc Giao trong bối cảnh lịch sử của sự vận động và

3


phát triển của văn xuôi Ngọc Giao nói riêng và của văn xuôi Việt Nam hiện đại nói
chung để tìm ra những nét khu biệt và giống nhau trong đặc điểm sáng tác của ông
với các tác giả khác cũng như những đóng góp của Ngọc Giao với văn học sử..
- Phương pháp tiếp cận thi pháp: Vận dụng những hiểu biết về thi pháp học để
phân tích tác phẩm cụ thể qua đó rút ra những đặc trưng thể loại và tư tưởng nghệ
thuật của nhà văn.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp nhằm phân tích, lý giải rõ
hơn mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa văn hóa, lịch sử, xã hội đến quá trình
sáng tác và hình thành đặc điểm văn xuôi của Ngọc Giao.
- Phương pháp so sánh: Nhằm rút ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa
các tác phẩm, các giai đoạn sáng tác của nhà văn, sự độc đáo và tương hợp trong
phong cách sáng tác với các tác giả cùng thời.
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống: Giúp người nghiên cứu có cái nhìn hệ

thống, toàn diện, thống nhất để thực hiện quá trình đánh giá, định vị tác giả trong tiến
trình vận động và phát triển của văn học.
Ngoài ra, chúng tôi kết hợp vận dụng các phương pháp, thao tác khác khi cần
thiết như phương pháp loại hình, thao tác thống kê – phân loại... và các lý thuyết có
liên quan như: lí thuyết tự sự học, thuyết hiện sinh, văn hóa học, phê bình sinh thái,
nữ quyền luận, hậu thực dân...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống đặc điểm văn
xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.
- Kế thừa kết quả nghiên cứu của những nhà nghiên cứu đi trước, luận án tiếp tục
chỉ ra và làm rõ quan niệm nghệ thuật của nhà văn, những giá trị nổi bật, những
dấu ấn sáng tạo và đóng góp, vị trí của văn xuôi Ngọc Giao trong nền văn học
Việt Nam hiện đại.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Luận án góp phần đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn về đặc điểm, thành tựu văn xuôi
Ngọc Giao nói chung và phong cách Ngọc Giao nói riêng trong dòng chảy văn học
Việt Nam hiện đại.

4


- Luận án là minh chứng cho những đóng góp của nhà văn Ngọc Giao với nền văn
xuôi Việt Nam hiện đại và cũng là những bổ khuyết cho việc nghiên cứu về một tác
giả trong một giai đoạn văn học còn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án góp phần phục dựng chân dung văn học tác giả Ngọc Giao và có thêm cơ sở
cho những ghi nhận về đóng góp của Ngọc Giao với nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Luận án cũng là tài liệu tham khảo phục vụ công tác học tập, giảng dạy, nghiên cứu
cho sinh viên, giáo viên và các nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại.

7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án được triển khai
trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Văn xuôi Ngọc Giao trong bối cảnh xã hội thế kỷ XX
Chương 3: Đề tài và nhân vật văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học
hiện đại Việt Nam
Chương 4: Người kể truyện, ngôn ngữ và giọng điệu văn xuôi Ngọc Giao
trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam

5


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1. Tổng quan về văn học hiện đại Việt Nam và sự xuất hiện của nhà văn
Ngọc Giao
1.1.1. Giới thuyết về hiện đại và văn học hiện đại Việt Nam
*Một số khái niệm
Tìm hiểu và nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại, trước hết cần xác định
rõ khái niệm "hiện đại", "hiện đại hóa", "văn học hiện đại" và "hiện đại hóa văn học".
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản
năm 2000," hiện đại" là thuộc về thời đại ngày nay, có áp dụng những phát minh,
những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật ngày nay. "Hiện đại hóa" là làm
cho mang tính chất của thời đại ngày nay, làm cho trở thành có đầy đủ mọi trang
thiết bị của nền công nghiệp hiện đại. "Văn học hiện đại" hiểu một cách chung nhất
đó là "nền văn học tương thích với thời hiện đại, mới mẻ, khác biệt so với các thời
đại văn học trước đó"[42; 1]. "Hiện đại hóa văn học" có thể hiểu là quá trình biến đổi
làm cho văn học mang tính chất hiện đại, mới mẻ khác với văn học cũ.
Khái niệm hiện đại được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong nhiều lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, chính trị và cả trong đời sống thường nhật ngày nay. Khái niệm này

nhằm thể hiện trình độ, đặc điểm hoặc ngầm ý nói đến những giá trị và cái mới trong
tương quan so sánh với cái trước đó. Để xác định một phạm trù nào đó là hiện đại
hay không, thông thường "hiện đại" được xác định qua hai tiêu chí thời gian và trình
độ phát triển. Đối với khoa học nhân văn nói chung và văn học nói riêng, tính hiện
đại có thể xuất hiện ngay từ trong những giá trị truyền thống. Mặt khác, theo Trần
Đình Sử, "tính hiện đại là sự thay đổi hệ hình tư duy, hệ thống giá trị, sự hình thành
một giai đoạn văn hóa mới trong đời sống dân tộc và nhân loại, tùy theo bối cảnh của
mỗi nền văn hóa mà tính hiện đại có nội dung khác nhau" [154; 255- 256]. Đi liền
với khái niệm hiện đại là tính hiện đại. Tính hiện đại gắn với độ mở của tư duy và có
thể là những dự phóng của thời đại. Và theo đó, nói đến hiện đại cũng là nói đến cái
mới, cái khác với cái cũ. Đó cũng là những nhân tố cách mạng, kết tinh, thúc đẩy sự
phát triển của lịch sử.
*Vấn đề phân kì văn học hiện đại Việt Nam
Vấn đề phân kì văn học Việt Nam thế kỷ XX là vấn đề khá phức tạp bởi có nhiều
ý kiến khác nhau dựa trên những tiêu chí khác nhau. Đó vẫn là vấn đề còn có những
điểm chưa được các nhà nghiên cứu đồng thuận và vẫn tiếp tục nghiên cứu. Song
nhìn tổng thể, các nhà nghiên cứu đều cho rằng tiến trình văn học Việt Nam là sự
tiếp nối từ văn học cổ trung đại đến hiện đại và hậu hiện đại.

6


Nhìn tiến trình văn học theo trục thời gian, về mốc thời gian bắt đầu của văn học
cận đại và văn học hiện đại có nhiều ý kiến khác nhau. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ
Chi cho rằng: văn học cận đại từ 1907 đến 1945, văn học hiện đại tính từ sau 1945.
Theo nhà nghiên cứu Phong Lê, giai đoạn văn học cận đại rất mờ nhạt và có tính
trung chuyển giữa văn học trung đại và hiện đại. Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ lại
cho rằng văn học hiện đại bắt đầu từ 1862 đến 1945. Các tác giả Trần Đình Hượu và
Lê Trí Dũng lại cho giai đoạn 1900 - 1930 là giai đoạn giao thời, sau 1930 là văn học
hiện đại. Các tác giả của một số giáo trình văn học ở miền Bắc cũng phần lớn cho

rằng văn học hiện đại Việt Nam bắt đầu sau những năm ba mươi của thế kỷ XX với
mốc 1930 hoặc 1932. Có một số nhà nghiên cứu như Trần Nho Thìn, Phan Cự Đệ có
cách hình dung gián tiếp chia tiến trình văn học theo thế kỷ. Theo đó, văn học trung
đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, văn học hiện đại bắt đầu từ thế kỉ XX. Các nhà
nghiên cứu này cũng lưu tâm năm 1900 không phải là dấu mốc rạch ròi giữa văn học
trung đại và văn học hiện đại.
Nhìn sự vận động của văn học từ những bước chuyển hệ hình, đi sâu khai thác
khái niệm văn học hiện đại, các nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình
Chú, Phong Lê, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Vương Trí Nhàn, Đỗ Lai Thúy, Trần
Nho Thìn, Nguyễn Đăng Điệp... đều cho rằng văn học hiện đại là nền văn học đã
thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại để xác lập nên hệ thống thi pháp mới,
thi pháp văn học hiện đại. Văn học hiện đại thoát khỏi hệ thống ước lệ, sùng cổ, quan
niệm phi ngã và tình trạng văn, sử, triết bất phân để đề cao cá tính sáng tạo trong
sáng tác văn học.
Từ những góc nhìn khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu đều có những kiến giải riêng
về văn học hiện đại. Tuy nhiên, để xác định nội hàm khái niệm này các nhà khoa học
đều quan tâm đến sự khác nhau giữa mô hình văn học trung đại và hiện đại. Các nhà
nghiên cứu cũng chú ý đến việc nhìn văn học hiện đại trong sự dịch chuyển và tiếp
xúc với văn học khu vực và thế giới để tìm ra tính quy luật và đặc thù của quá trình
hiện đại hóa văn học. Điểm khác biệt giữa văn học hiện đại và văn học trung đại biểu
hiện rõ nét ở quan niệm và thi pháp nghệ thuật.
* Những tiền đề, điều kiện xuất hiện văn học hiện đại Việt Nam
Văn học hiện đại Việt Nam là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa từ khu
vực đến thế giới. Sự dịch chuyển trong tiếp xúc với văn hóa, văn học Tây Âu trong
đó có văn hóa, văn học Pháp vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã khiến cho văn
học Việt Nam hòa nhập dần vào quỹ đạo chung của văn học thế giới. Trong bối cảnh
lịch sử bấy giờ, ban đầu đó là sự tiếp xúc mang tính bắt buộc nhưng với sự tiếp nhận
nhạy bén của những nghệ sĩ, trí thức đương thời, nó đã trở thành quy luật tự nhiên để

7



góp phần hiện đại hóa văn học. Nhiều nhà văn, nhà thơ đã nhận thấy những gò bó và
bế tắc bởi những quy phạm của văn học trung đại và họ đã tiếp nhận những yếu tố
hiện đại từ phương Tây nhưng không hoàn toàn đánh mất bản sắc văn hóa Việt.
Nhưng do đặc điểm văn hóa và tâm lý mỗi dân tộc khác nhau, quá trình hiện đại hóa,
phương Tây hóa cũng tạo nên những đứt gãy văn hóa, đứt gãy quan niệm, tư duy và
văn tự. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đến năm 1945 văn học Việt Nam đã cơ bản hoàn
tất quá trình hiện đại hóa. Quá trình hiện đại hóa theo đó diễn ra trong ba chặng: Từ
đầu thế kỷ XX đến 1920, những năm 20, từ 1930-1945. Theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp và một số ý kiến khác, "đến năm 1945, đúng là văn học Việt
Nam đã nằm trong quỹ đạo nghệ thuật hiện đại, nhưng quá trình hiện đại hóa văn học
dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra trong suốt thế kỷ XX" [42; 21]. Vì vậy, quá trình hiện đại
hóa diễn ra theo ba chặng. Chặng 1: Từ đầu thế kỷ XX đến 1945 gắn liền với sự giao
lưu văn hóa Pháp và phương Tây. Chặng 2 từ 1945 đến 1985 gắn với sự giao lưu văn
hóa Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa diễn ra chủ yếu ở miền Bắc
và giao lưu, tiếp nhận văn hóa phương Tây, lối sống Mỹ ở miền Nam. Chặng 3 từ
1986 đến nay gắn với quá trình dịch chuyển, giao lưu toàn diện, quy mô, sâu sắc hơn
với văn học thế giới. Như vậy, "đầu thế kỷ XX, hiện đại hóa chủ yếu đồng nghĩa với
phương Tây hóa, Pháp hóa. Từ sau 1945, hiện đại hóa đã trở nên đa dạng hơn và sự
đa dạng ấy càng trở nên rõ nét từ sau 1986 khi Việt Nam xác lập nền kinh tế thị
trường và tham gia hội nhập thế giới đa phương"[42; 24]. Từ nội hàm khái niệm
"hiện đại hóa", hiện đại hóa văn học là quá trình tiến đến tính hiện đại của văn học
với những gì mới mẻ, hợp thời, có tính chất tinh xảo và mang tính thời đại mới. Bản
chất của hiện đại hóa chính là sự đổi mới văn học. Và vì vậy, bắt đầu đổi mới theo
hướng hiện đại từ đầu thế kỷ XX cho đến nay văn học Việt Nam đã và đang được
hiện đại hóa trong suốt tiến trình văn học qua những chặng khác nhau và mang
những đặc trưng khác nhau đưa nền văn học Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy
chung của văn học thế giới. Mỗi chặng đường hiện đại hóa gắn liền với đặc điểm lịch
sử, xã hội và những mối giao lưu văn hóa khác nhau tạo nên những khu biệt và đặc

sắc của quá trình hiện đại hóa văn học.
* Các bình diện của văn học hiện đại Việt Nam
Chủ thể sáng tạo là nhân tố khác biệt đầu tiên và là tiền đề cho sự thay đổi diện
mạo văn học hiện đại. Nếu như chủ thể sáng tạo của văn học trung đại là trí thức
phong kiến và tầng lớp nhà sư có học thì chủ thể sáng tác của văn học hiện đại không
còn là những nhà Nho mà là những trí thức Tây học với tinh thần thời đại mới. Đội
ngũ sáng tác của văn học hiện đại không ngừng phát triển về số lượng và có sự tiếp
nhận nhanh nhạy với tư duy, mỹ cảm phương Tây hiện đại. Không chỉ có những cây

8


bút nam mà những cây bút nữ cũng sáng tác mạnh dạn với số lượng ngày càng nhiều
và bản lĩnh thể hiện cá tính sáng tạo.
Công chúng văn học mới của văn học hiện đại được mở rộng đến nhiều tầng lớp
chứ không còn bó hẹp như văn học trung đại. Bước sang thời kì hiện đại, chữ Quốc
ngữ được sử dụng phổ biến, trình độ dân trí được dần nâng cao, hoạt động xuất bản
và báo chí nở rộ, môi trường hưởng thụ văn hóa được mở rộng cả về lượng và chất,
quan niệm, thị hiếu thẩm mĩ của các tầng lớp nhân dân được thay đổi theo hướng
hiện đại ngày càng phong phú. Do đó, công chúng văn học ngày càng đa dạng và
phong phú. Sự nhạy bén của người thưởng thức cùng sự sáng tạo với quan niệm nhân
sinh, quan niệm nghệ thuật mới đã khiến cho công chúng văn học sôi nổi, háo hức
đón nhận những món ăn tinh thần văn chương mới phù hợp với thời đại. Đặc biệt, sự
xuất hiện của cái Tôi cá nhân trong văn học đã tạo nên những cấu trúc nghệ thuật
mới đa dạng, phong phú trong sáng tác và hấp dẫn, thu hút thêm nhiều độc giả. Công
chúng văn học như tìm thấy mình trong văn chương bởi những cái tôi được gửi gắm
trong mỗi tác phẩm. Trường tri thức mới và những quan niệm mới mẻ về cái tôi cá
nhân đã được các trí thức Tây học, những nhà Nho thức thời giới thiệu nhằm mở
mang hiểu biết và nâng cao dân trí góp phần chuyển đổi ý thức hệ trung đại sang
hiện đại.

Nền kinh tế thị trường bắt đầu hình thành từ đầu thế kỉ XX đã kích thích văn học
phát triển theo hướng hiện đại. Văn chương viết ra không chỉ để giải trí, tiêu sầu mà
trở thành hàng hóa, nhà văn là nhà sản xuất, viết văn trở thành một nghề, người đọc
văn chương là người tiêu thụ sản phẩm. Theo đó giá trị tác phẩm văn chương gắn
liền với tiền tệ. Đó là điểm khác biệt với văn học trung đại. Cũng từ đó một thị
trường văn hóa và văn học được hình thành.Và xuất bản, báo chí vừa là nguồn cung
vừa kích thích tiêu thụ. Đó cũng là cơ sở để mở rộng thị trường văn học và thúc đẩy
sự phát triển của văn học. Gắn với sự phát triển của thị trường, cảm quan đô thị trong
văn học cũng trở thành tiêu chí giúp ta phân biệt văn học trung đại và văn học hiện
đại. Ý thức về đô thị và kinh tế thị trường trong văn học hiện đại đã trở thành thường
trực trong xã hội hiện đại chứ không chỉ dừng ở mức độ cá biệt như trong văn học
trung đại. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, miền Bắc không tồn
tại kinh tế thị trường. Những năm 1954 - 1975, miền Nam tuy có thị trường nhưng
báo chí và xuất bản tư nhân chưa thực sự là lực lượng vật chất thực sự như tính chất
vốn có của nó. Sau khoảng giữa những năm 80 của thế kỷ XX, do hệ quả của công
cuộc Đổi mới sau đó một thời gian nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa được xác lập. Theo đó, hoạt động xuất bản được mở rộng và các công ty
truyền thông phát triển. Thị trường văn học sôi động, cởi mở, đa dạng hơn với nhiều

9


loại hình và có sự phân hóa mạnh mẽ. Đó cũng là cơ hội và thách thức cho người
sáng tác cùng sự tồn tại của tác phẩm văn học.
Biểu hiện cơ bản phân biệt văn học hiện đại và văn học trung đại là sự hiện đại về
thi pháp nghệ thuật. Thi pháp văn học hiện đại hoàn toàn thoát khỏi những nét quy
phạm của văn học trung đại. Về quan niệm nghệ thuật, văn học hiện đại gắn liền với
cảm quan cá nhân, khuyến khích sự sáng tạo chứ không còn hướng đến mục đích cao
nhất là giáo huấn, tải đạo, nói chí, phi ngã. Tư duy nghệ thuật trung đại tuân theo
những quy phạm nghệ thuật có sẵn, nghiêm ngặt, nguyên tắc. Tư duy nghệ thuật hiện

đại đã giải phóng tính quy phạm và đề cao cá nhân trong một môi trường xã hội dân
chủ. Nhà văn có cơ hội thể hiện những sáng tạo trên cơ sở trí tưởng tượng của cá
nhân để tạo nên tính đối thoại, cởi mở, phong phú trong tác phẩm nghệ thuật. Nếu
như văn học trung đại thường chủ yếu giấu kín những gì thuộc về con người cá nhân,
cái nhìn về thế giới và con người chịu sự chi phối của quan niệm thiên nhân hợp nhất
thì văn học hiện đại hướng đến phơi bày thể hiện tự nhiên tất cả những gì thuộc về cá
tính, cá nhân trong mỗi con người. Ngôn ngữ văn học trung đại dựa trên những quy
tắc định sẵn, ước lệ, tượng trưng, dùng nhiều điển cố điển tích. Văn học hiện đại sử
dụng hệ thống ngôn ngữ phong phú, đa dạng, gần với đời sống và giàu cá tính. Quá
trình hiện đại hóa gắn với sự thay thế chuyển đổi từ việc sáng tác bằng chữ Hán sang
chữ Nôm và từ chữ Nôm tiến đến dùng chữ Quốc ngữ. Ngôn ngữ báo chí đã có nhiều
tác động tích cực đến ngôn ngữ văn học. Vì vậy, nhiều nhà văn cũng là những nhà
báo cự phách. Giọng điệu văn học trung đại thiên về trữ tình của điệu ngâm và mang
tính độc thoại còn giọng điệu văn học hiện đại thuộc phạm trù điệu nói mang tính đối
thoại. Văn học trung đại mang tính chức năng với tư duy văn - sử - triết bất phân. Thơ
phú được đề cao hơn tiểu thuyết và kịch. Đến thời kì hiện đại, văn xuôi phát triển tạo
nên sự thay đổi quan trọng trong tư duy nghệ thuật hiện đại khiến cho văn học dần thoát
khỏi tính ước lệ để hướng đến thực tại. Vì vậy, văn học hướng đến việc phản ánh cuộc
sống đời thường thay vì chỉ miêu tả đời sống cao quý như trong văn học truyền thống.
Văn chương coi trọng sự thực ở đời với cái nhìn chân xác về thực tế chứ không chỉ đề
cao những vấn đề lý tưởng, cao xa. Văn học hiện đại coi trọng truyền thống văn hóa dân
tộc nhưng không phụ thuộc và noi gương thi học Trung Hoa. Tác phẩm văn học hiện đại
được sáng tác giản dị, tự nhiên nhưng dễ đi vào lòng người không cần đến lời văn hoa
mĩ hay giàu điển cố điển tích. Thể loại văn học hiện đại đã phát triển nhanh chóng và
phong phú. Các thể loại văn học trung đại như hịch, cáo, chiếu, biểu...đã dần mất đi,
xuất hiện nhiều thể loại văn học mới như thơ tự do, thơ văn xuôi, kịch, tiểu thuyết, kí...,
một số thể loại truyền thống được cải biến, đổi mới.

10



Hoạt động dịch thuật là phương thức phổ biến và lưu truyền văn hóa hữu hiệu.
Các tác phẩm văn học Trung Hoa, Pháp, phương Tây được dịch ra Quốc ngữ đã cung
cấp những hiểu biết mới cho người đọc và góp phần hoàn chỉnh thể loại, đổi mới
ngôn ngữ, mở rộng kiến thức văn chương cho đội ngũ sáng tác và độc giả. Sự tiếp
nhận các văn bản dịch thuật góp phần tích cực cho quá trình hiện đại hóa văn học.
Lý luận và phê bình văn học là hoạt động góp phần hoàn thiện diện mạo hiện đại
cho văn học dân tộc. Sự tự ý thức về văn học bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XX
thông qua tiếp xúc với những yếu tố văn hóa, văn học phương Tây đã giúp cho mầm
mống của lý luận, phê bình văn học mới xuất hiện. Từ những công trình có tính chất
mở đầu như Khảo cứu về tiểu thuyết (1919) của Phạm Quỳnh, các bài báo tranh luận
về Truyện Kiều, về thơ Mới, tranh luận giữa hai phái nghệ thuật vị nghệ thuật và
nghệ thuật vị nhân sinh... đưa đến sự xuất hiện một đội ngũ lý luận, phê bình tài
năng. Bộ môn lý luận, phê bình văn học hiện đại đã được xác lập khiến cho đời sống
văn chương ngày càng sôi động với các tác giả tiêu biểu như: Dương Quảng Hàm,
Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trương Tửu, Trần Thanh Mại, Đinh Gia Trinh, Đặng
Thai Mai... Từ sau 1945, lý luận, phê bình văn học ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Do đó, các lý thuyết phê bình mới cùng thực tiễn sáng tác được cập nhật và có sự tác
động hai chiều góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn học. Giai đoạn 1945 - 1954,
lý luận, phê bình ở miền Bắc tập trung nghiên cứu lý luận Mác - Lenin về văn học
nghệ thuật, đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, coi trọng mối quan hệ giữa văn
học nghệ thuật và chính trị. Hoạt động lý luận, phê bình một mặt nỗ lực hướng đến
chuyên môn mặt khác phải gắn với yêu cầu phục vụ cách mạng. Giai đoạn 1954 1975, lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam sôi nổi và phong phú, chịu ảnh
hưởng và giao lưu với văn hóa Mỹ và phương Tây. Một số tư tưởng lý thuyết mới đã
được du nhập như thuyết hiện sinh, phân tâm học, cấu trúc luận... Sau 1975, đặc biệt
là sau 1986, lý luận phê bình văn học phát triển ngày càng phong phú trong xu thế
hội nhập toàn cầu. Nhiều trường phái, lý thuyết mới được giới thiệu như: thi pháp
học, kí hiệu học, cấu trúc luận, phân tâm học, văn hóa học, nữ quyền luận, phê bình
sinh thái, lý thuyết diễn ngôn, hậu thực dân...Đó là cơ sở cho nhiều hướng nghiên
cứu, tiếp cận văn học và cũng là động lực cho các xu hướng sáng tác văn học.

Bước sang phạm trù văn học hiện đại, văn học Việt Nam đã vượt thoát ra khỏi hệ
thống thi pháp văn học trung đại chịu sự chi phối và ảnh hưởng của văn hóa, văn học
Trung quốc và dần bước vào quỹ đạo hòa nhập với nền văn học hiện đại thế giới. Từ
nửa đầu thế kỷ XX, văn học đã bước vào quỹ đạo hiện đại và tiếp tục phát triển mạnh
mẽ hơn, hiện đại hơn, cởi mở hơn trong mối giao lưu và đối thoại văn hóa dân chủ

11


với toàn cầu ở nửa sau thế kỷ XX. Văn học ngày càng có điều kiện tiếp cận và biến
đổi theo hướng hiện đại và có nhiều cơ hội để hội nhập quốc tế
1.1.2. Tiến trình văn học hiện đại Việt Nam và sự xuất hiện của nhà văn Ngọc Giao
Nhìn tiến trình văn học hiện đại Việt Nam trong sự thay đổi và bước chuyển hệ hình
văn học gắn với các cuộc giao lưu, ảnh hưởng văn hóa, văn học Việt Nam hiện đại có
thể hình dung qua ba chặng: 1900 - 1945; 1945 - 1985;1986 - nay. Đồng thời, đặt nhà
văn Ngọc Giao trong tiến trình vận động của văn học hiện đại Việt Nam, luận án bước
đầu xác định môi trường văn học của tác giả làm cơ sở cho hệ quy chiếu nhằm tiếp tục
tìm hiểu văn xuôi của ông trong những chương tiếp theo của luận án.
1.1.2.1. Văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1900-1945
Trước sự thay đổi của lịch sử, văn hóa, xã hội, tiếp thu, ảnh hưởng tư tưởng
học thuật và văn hóa, văn học phương Tây, văn học Việt Nam đã có sự vận động
biến đổi từ mô hình văn học trung đại chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc sang mô
hình văn học hiện đại chịu ảnh hưởng văn học phương Tây. Dựa trên những nền tảng
của văn học truyền thống, kết hợp với luồng gió mới của văn học phương Tây và tâm
thế sáng tạo, chủ động của lực lượng sáng tác là những trí thức mới được đào tạo và
tiếp thu có bài bản văn hóa, văn học phương Tây, văn học đã chuyển mình hiện đại
hóa. Ba mươi năm đầu thế kỷ XX, văn học tồn tại đan xen cái cũ và mới, Đông và
Tây, truyền thống và hiện đại. Các nhà văn đã bước đầu có những rung động thẩm
mỹ mới nhưng chưa được chuẩn bị đầy đủ về nhận thức, lý luận và học thuật. Từ
những bước đi tiên phong của các nhà Nho chí sĩ yêu nước tiến bộ đến những trí thức

trẻ mới được đào tạo ở trường Tây đã tạo cho văn học 1900-1930 một dấu ấn giao
thời giữa hình thức cũ và nội dung mới, nội dung cũ và hình thức mới, nội dung và
hình thức vừa cũ vừa mới. Trong giai đoạn chuyển đổi hệ hình văn học này, cái cũ có
xu hướng ngày càng ít đi và dần được thay thế bằng cái mới.
Sang thời kì 1930-1945, văn học đã phát triển khẩn trương mau lẹ theo hướng
hiện đại hóa trên các lĩnh vực của đời sống văn học: Quan niệm nghệ thuật thay đổi,
văn học trở thành lĩnh vực chuyên biệt, không còn quá chú trọng tính đạo lý giáo
huấn mà trở thành phương tiện tự biểu hiện của nhà văn, để nhận thức và khám phá
thế giới, đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ và nhận thức của công chúng. Lực lượng sáng tác
ngày càng đông đảo và tiến bộ nhất là tác giả trí thức Tây học. Phương tiện sáng tác
được thay đổi từ chữ Hán, Nôm sang chữ Quốc ngữ. Ngôn từ văn học bớt hẳn tính
ước lệ tượng trưng, gần hơn với đời sống có khả năng diễn đạt tinh tế mọi phương
diện đời sống và con người. Câu văn xuôi mới hình thành nhưng phát triển nhanh
chóng và đạt đến trình độ hiện đại với những phong cách độc đáo. Thơ chuyển mạnh
từ điệu ngâm sang điệu nói, diễn đạt tinh tế sáng tạo cái tôi trữ tình. Phương thức lưu

12


hành ngày càng nhanh chóng, tiện lợi với sự ra đời của nhiều nhà xuất bản, nhà in.
Công chúng văn học ngày càng đông đảo mở rộng tới các tầng lớp thị dân. Và đặc
biệt là sự biến đổi về thi pháp sáng tác để thoát ra khỏi phạm trù văn học trung đại
phá vỡ tính quy phạm, sùng cổ, ước lệ, tượng trưng, phi ngã. Văn học mở ra nhiều
khả năng mới trong khám phá nghệ thuật. Quá trình hiện đại hóa diễn ra trên mọi thể
loại và phát triển mau lẹ trên các thể loại văn xuôi như tiểu thuyết, truyện ngắn,
phóng sự, ký... Thơ hiện đại hóa sâu sắc với phong trào Thơ Mới, xuất hiện những
thể loại mới như kịch nói, phê bình văn học... Trong một thời gian ngắn, văn học đã
đạt được nhiều thành tựu rực rỡ với nhiều khuynh hướng, trào lưu sáng tác, nhiều cá
tính sáng tạo nở rộ. Tiêu biểu là khuynh hướng văn học lãng mạn với phong trào văn
xuôi Tự lực văn đoàn và phong trào thơ Mới; khuynh hướng văn học hiện thực với

trào lưu văn học hiên thực phê phán 1930-1945 và khuynh hướng văn học yêu nước
và cách mạng.
Trong quá trình hiện đại hóa nền văn học 1900-1945, văn học phương Tây có
ảnh hưởng và chi phối văn học Việt Nam ở phương diện tư tưởng và hình thức.
Nhiều tác phẩm của các tác giả Pháp và phương Tây được dạy trong trường Pháp Việt, được dịch và lưu truyền trong giới trí thức. Sự tiếp nhận ấy đã làm bừng tỉnh ý
thức cá nhân, thay đổi quan niệm thẩm mĩ ngày càng mở rộng, phong phú mang tính
hiện đại. Quan niệm về cái đẹp gắn với quan niệm cá nhân, cái đẹp hiện diện mọi
nơi, mọi lúc, trong mọi người, nó vừa quen vừa lạ, có sự hài hòa giữa cái đẹp bên
trong và cái đẹp bên ngoài. Tư tưởng khoa học và tinh thần dân chủ của văn hóa
phương Tây đã chi phối nhiều mặt của đời sống tinh thần trong đó có văn học. Đó là
biểu hiện của thái độ tôn trọng hiện thực khách quan hướng tới khám phá và miêu tả
hiện thực. Con người trở thành trung tâm được các nhà văn chú ý khám phá tìm hiểu
trong nhiều góc cạnh và tư thế trên nền hiện thực phong phú, đa dạng và chân thực.
Đó là cơ sở kết tinh nhiều phong cách sáng tác lớn trong thời kỳ này. Trước sự thay
đổi nhiều mặt của xã hội, văn hóa truyền thống không còn phù hợp để đáp ứng nhu
cầu của kết cấu xã hội mới với những tình cảm mới, thị hiếu mới, tư tưởng mới. Sự
tác động của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp trong đó có
phong trào Mặt trận dân chủ (1936-1939) đã hối thúc nhà văn dùng văn học để đấu
tranh cho quyền lợi của các giai cấp tầng lớp trong xã hội. Vì thế, bên cạnh nội dung
phản ánh là cái tôi cá nhân với những tình cảm mới, nội tâm phong phú, văn học tăng
cường chất hiện thực cả ở chiều sâu và chiều rộng. Cũng từ đó những đề tài mới, chủ
đề mới và những sắc thái mới trong nghệ thuật sáng tác xuất hiện dưới ảnh hưởng
của tư tưởng dân chủ và lãng mạn của văn hóa tư tưởng phương Tây.

13


Quá trình hiện đại hóa văn học giai đoạn 1900-1945 đã diễn ra khẩn trương,
mau lẹ để rồi bắt đầu từ 1930 trở đi, văn học Việt Nam đã vượt qua hệ hình văn học
trung đại để bước vào quỹ đạo văn học hiện đại. Sự gặp gỡ và tiếp xúc văn hóa

phương Tây và văn hóa Pháp đã tạo nên một sự chuyển đổi toàn diện trong đời sống
văn học từ đội ngũ sáng tác đến tư duy nghệ thuật, thi pháp văn học... Và đặc biệt
những người làm nên diện mạo mới của văn học hiện đại là đội ngũ các nhà văn, nhà
thơ mới với phong cách đa dạng, số lượng không ngừng phát triển. Trên cơ sở đó, sự
xuất hiện của các nhóm phái văn học với những tôn chỉ, hướng đi, hoạt động khác
nhau đã góp phần làm nên bức tranh sinh động của nền văn học Việt Nam giai đoạn
1930-1945. Đó là các nhóm văn học bao gồm tập hợp một số nhà văn, nhà thơ, phê
bình khảo cứu... hoạt động trong lĩnh vực văn học cùng làm việc với nhau với một
mục đích, tư tưởng chung nhằm đưa ra những hướng đi mới cho hoạt động văn học.
Với những đặc thù riêng khác với nhóm văn học đã có ở văn học trung đại, sau năm
1932, có nhiều nhóm văn học được thành lập như: Tự lực văn đoàn (1933), Xuân
Thu nhã tập (1939), Hàn Thuyên (1941), Thanh Nghị ( 1941), Tri Tân (1941)...và
nhóm Tân Dân (1934). Các nhóm văn học này đều có những đặc điểm riêng mang
dấu ấn của nhóm và thời đại với những đóng góp tích cực tới tư tưởng, văn hóa, xã
hội. Các nhóm phái cũng đều có nhà xuất bản và các sách, tạp chí được phát hành
với những đặc trưng riêng của từng nhóm. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ
giới thiệu về nhóm Tân Dân bởi đây là nhóm văn học gắn liền với quá trình hiện đại
hóa văn học giai đoạn này và có liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu là nhà
văn Ngọc Giao - thành viên của Tiểu thuyết thứ Bảy và cũng là cây bút quen thuộc
trên các ấn phẩm của Tân Dân.
Nhóm Tân Dân còn được gọi dưới các tên khác như nhóm Tiểu thuyết thứ Bảy
và Tạp chí Tao Đàn, nhóm Ích Hữu, nhóm Phổ thông bán nguyệt san. Đó là nhóm gồm
các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình hoạt động văn hóa nghệ thuật tập hợp xung quanh
Nhà xuất bản Tân Dân với các ấn phẩm báo và tạp chí: Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông
bán nguyệt san, Ích Hữu, Tao Đàn, Truyền bá và các tủ sách Tao Đàn, tủ sách Những
tác phẩm hay. Trong đối trọng với nhóm Tự lực văn đoàn, Tân Dân có sự mở rộng và
phát triển với rất nhiều cơ quan ngôn luận và quy tụ được nhiều cây bút nổi tiếng với
nhiều dấu ấn sáng tạo khác nhau. Dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của ông chủ báo Vũ Đình
Long tài năng và tâm huyết, năm 1934, xuất bản phẩm đầu tiên của Tân Dân ra đời là
Tiểu thuyết thứ Bảy và dần mở rộng, phát triển với 5 tờ báo và tạp chí nổi tiếng cùng hai

tủ sách. Sự phong phú, hấp dẫn trong các ấn phẩm của Tân Dân đã tạo ra môi trường
hoạt động văn học lành mạnh, hấp dẫn cho giới văn nghệ sĩ và giới nghiên cứu đương
thời. Nhóm Tân Dân đã phát triển mạnh mẽ nhờ sự dung nạp rộng rãi những cách tiếp

14


cận hiện thực theo hướng cả mới và cũ, cả khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng
hiện thực với một tình yêu nước kín đáo và mạnh mẽ. Với những hoạt động phong phú,
nhóm Tân Dân đã trở thành một nhóm văn học lớn tạo nên một môi trường văn học
chuyên nghiệp sôi động và cũng là nơi đào tạo nên nhiều nhà văn nổi tiếng, kích thích
tạo động lực cho văn học phát triển theo hướng hiện đại.
Trong số các cây bút nổi tiếng của nhóm Tân Dân, Ngọc Giao là tác giả tiêu
biểu trong vai trò là một trong những người tham gia hoạt động điều hành tổ chức
hoạt động của Tiểu thuyết thứ Bảy với vị trí thư kí tòa soạn và cũng là cây bút sáng
tác sung sức nhiều tác phẩm in trên các ấn phẩm của Tân Dân. Giai đoạn đầu làm thư
kí tòa soạn Tiểu thuyết thứ Bảy, với một tờ báo bán chạy được xuất bản số lượng rất
lớn trong đối chọi với Phong hóa của Tự lực văn đoàn, vai trò thư kí của Ngọc Giao
giữ vị trí khá quan trọng trong việc sắp xếp, đăng duyệt, chỉnh sửa để tạo nên sức hấp
dẫn của tờ báo. Theo đuổi đam mê sáng tác, tác phẩm của Ngọc Giao thời kì này đã
tạo được hiệu ứng tốt với bạn đọc qua số lượng lớn đăng trên ấn phẩm của Tân Dân
như là một cây bút truyện ngắn và kí tài năng, có dấu ấn đặc sắc. Lịch sử truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1930-1945 không thể không nhắc đến sự xuất hiện của những
cây bút tiêu biểu của Tân Dân như Nguyễn Công Hoan và Ngọc Giao.
1.1.2.2. Văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Văn học 1945-1975 gắn liền với những sự kiện quan trọng của bước đường
lịch sử dân tộc. Thời kỳ 1945-1954, văn học đã tìm nguồn cảm hứng mới gắn liền
với công cuộc xây dựng xã hội ở miền Bắc, quá trình nhân dân cùng Đảng thực hiện
các chính sách cách mạng và ổn định cuộc sống. Tình yêu quê hương, tình đồng bào,
đồng chí, được thể hiện phong phú, giản dị mà xúc động. Mặc dù chưa có kết tinh

nghệ thuật nhưng các tác phẩm thời kỳ này đã phản ánh diện mạo của nền văn học
trong buổi đầu độc lập và tiếp tục đối diện với những cam go thử thách mới của
chiến tranh. Thời kì 1945 - 1954, gắn với cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc,
tình thế cài răng lược của cuộc chiến đấu dẫn đến hình thành hai bộ phận văn học.
Bộ phận chủ đạo với một đội ngũ lớn viết ở vùng tự do và chiến khu Việt Bắc. Một
bộ phận nhỏ sáng tác ở vùng địch hậu trong đó có Hà Nội và Sài Gòn là hai địa bàn
quan trọng. Bộ phận văn học công khai và không công khai ở Hà Nội tạm chiếm vẫn
tồn tại trong bối cảnh lịch sử mới đầy cam go, khốc liệt nhưng phong phú với nhiều
giá trị nhân văn. Các tác giả tiêu biểu của bộ phận này là Vũ Hoàng Chương, Lê Văn
Trương, Nguyễn Cao Củng, Sơn Nam, Nguyễn Tường Phượng, Lê Văn Hòe, Lê
Đình Chân, Sao Mai, Hoàng Công Khanh, Nguyễn Bắc, Vũ Bằng, Ngọc Giao, Giang
Quân, Băng Hồ, Thế Phong, Băng Sơn, Nam Xương, Tuyết Lan, Mộng Sơn... Trong
điều kiện kinh tế khó khăn, chế độ kiểm duyệt gắt gao, các văn nghệ sĩ đã phải cố

15


gắng hết sức để đời sống đỡ chật vật, bắt kịp với cuộc sống mới, chịu nhiều cực nhục để
tồn tại chứng minh cho tấm lòng thanh sạch và cho ra đời những tác phẩm có ý nghĩa.
Sự đấu tranh làm thế nào để trong bối cảnh đầy bất trắc vẫn có thể sống và viết không
trái với lương tâm, hướng về kháng chiến và nhân dân nhưng vẫn giữ được mình không
bị nhà cầm quyền gây khó dễ là nỗi ưu tư lớn của mỗi nhà văn giai đoạn này. Không ít
văn nghệ sĩ Hà Nội thời tạm chiếm đã bị bắt giam vào Hỏa Lò nhưng các tác giả vẫn
vượt lên chính mình kiên cường, nhân hậu, tài hoa với những tác phẩm mang đậm tinh
thần dân tộc, đạo đức và nhân văn để lại một gia tài đáng kể cho văn chương Hà Nội
những năm 1947-1954. Trong số đó, Ngọc Giao cũng là cây bút tiêu biểu can đảm và
nhẫn nại, nhân hậu và dũng cảm đương đầu với bối cảnh xã hội mới để sống và sáng tác
nhiều tác phẩm mang tính thời sự, hiện đại và xúc động. Ông trở thành nhà văn có
phong cách và lối viết táo bạo đem đến cho độc giả những suy tư mới về con người và
lịch sử xã hội với những chuyển biến thi pháp trong sự thống nhất quan niệm nghệ thuật

vì những tác phẩm văn chương cứu rỗi và nâng đỡ con người.
Thời kỳ 1955 đến 1964, nền văn học có sự phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện.
Các nhà văn gắn kết với chủ đề xây dựng cuộc sống mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ trữ tình phát triển bước đầu có tác
phẩm xuất sắc. Các tác phẩm đã mở rộng đề tài và khả năng khái quát hiện thực.
Tiêu biểu là ba hướng đề tài chính: Tái hiện cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc đấu
tranh cách mạng thời kì trước 1945, cuộc sống mới cùng cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc và cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Một số tác phẩm đã phản ánh
được những vấn đề của đời sống tư tưởng tình cảm của con người bên cạnh những
tác phẩm có tính thời sự. Thể loại văn học phát triển khá phong phú. Một số nhà Thơ
Mới hồi sinh, nhiều nhà thơ kháng chiến và nhà thơ trẻ xuất hiện với nhiều tập thơ có
giá trị. Truyện ngắn với đề tài và bút pháp khá đa dạng, tiểu thuyết phong phú có
nhiều vượt trội so với thời kỳ trước. Các thể loại kí, tùy bút, kịch bản sân khấu có số
lượng nhiều hơn nhưng chưa có nhiều kết tinh. Phê bình và nghiên cứu văn học có sự
phát triển cả về đội ngũ và chất lượng tác phẩm.
Từ 1964-1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ mở rộng trên phạm vi cả nước. Cuộc
kháng chiến đặt ra cho dân tộc ta nhiều cam go thử thách. Văn học có bước chuyển
mình mạnh mẽ và thống nhất cao từ đề tài, chủ đề, cảm hứng, giọng điệu để hướng về
Tổ quốc, nhân dân, người anh hùng, cổ động niềm tin, tinh thần chiến đấu, khơi dậy
lòng yêu nước. Văn học cả hai miền có sự phát triển toàn diện ở các thể loại. Thơ ca có
nhiều thành tựu sáng tạo, văn xuôi phát triển khá đều, kịch gây được tiếng vang, phê
bình văn học hướng vào biểu dương tác phẩm đáp ứng được nhu cầu cuộc kháng chiến
chống Mĩ. Văn học đã làm tốt nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, nêu cao chủ nghĩa yêu nước,

16


động viên tích cực cho công cuộc giải phóng đất nước. Bộ phận văn học đô thị miền
Nam trước 1975 là một thực thể phức tạp nhưng cũng có những cây bút hoạt động trong
vùng địch kiểm soát, bộ phận văn học cách mạng gắn với phong trào đấu tranh của dân

tộc thể hiện sự dấn thân, dũng cảm để sáng tác những tác phẩm giàu chất hiện thực, giá
trị nhân văn và hiện thực với những cách tân, sáng tạo.
Với sứ mạng lịch sử của mình, văn học 1945-1975 mang đặc điểm của một nền
văn học đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhằm phục vụ chính trị, cổ vũ chiến
đấu. Đó là nền văn học hướng về đại chúng, đại chúng vừa là đối tượng phản ánh vừa là
công chúng văn học và là nguồn bổ sung cho lực lượng sáng tác. Nền văn học mang
cảm hứng sử thi và khuynh hướng lãng mạn, trữ tình là liều thuốc tinh thần định hướng
toàn dân tộc đoàn kết quyết tâm đánh thắng kẻ thù, tin tưởng ở tương lai tốt đẹp.
Sự nghiệp cách mạng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai
đoạn này đòi hỏi nền văn học nước ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng và vì vậy việc giao lưu, học tập kinh nghiệm sáng tác với văn học Xô Viết và
các nước xã hội chủ nghĩa được ưu tiên. Các sáng tác và công trình lí luận văn học
Nga Xô Viết và các nước xã hội chủ nghĩa được dịch sang tiếng Việt và trở thành
hình mẫu cho các nhà văn Việt Nam. Văn học Nga Xô Viết với ở mức độ nhất định
được tiếp nhận gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Phương pháp sáng tác
hiện thực xã hội chủ nghĩa được nhiều nhà văn hưởng ứng.
Ở miền Nam, văn học đô thị chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học, mỹ học và
văn học hiện sinh của phương Tây. Những lí thuyết mới này đã chi phối đến văn học
với một cách nhìn khác văn học ở miền Bắc. Mặc dù thời gian tiếp cận chưa nhiều và
sâu sắc nhưng nó cũng đã ít nhiều tác động đến thực tiễn sáng tác và lí luận, phê bình
văn học với những dấu ấn manh nha, khác lạ và trở lại trong văn học sau 1986.
Với nhà văn Ngọc Giao, đây là giai đoạn cầm bút đầy sóng gió nhưng cũng là
giai đoạn nhà văn có những bứt phá và vận động trong tư tưởng và bút pháp sáng tác.
Không hoàn toàn đi theo tiếng gọi của cách mạng như các nhà văn Nam Cao, Nguyễn
Tuân, Tô Hoài... nhưng văn chương Ngọc Giao giai đoạn này vẫn là tiếng nói yêu nước
thầm kín với những khám phá trong quá trình tự vận động hiện đại hóa văn học. Từ thể
loại đến ngôn ngữ, giọng điệu, nội dung hiện thực được nói đến trong tác phẩm của ông
đều chứng minh cho những đóng góp tích cực của Ngọc Giao với vị trí của một nhà văn
sống ở vùng tạm chiếm giai đoạn 1947-1954. Với cái nhìn ít nhiều có tính chất hiện
sinh, tác phẩm của Ngọc Giao giai đoạn này đã dũng cảm tái hiện lại những góc khuất

trong tâm hồn con người với bao uẩn khúc mang vấn đề nhân loại, nhân văn.

17


1.1.2.3. Văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay
Văn học Việt Nam 1945-1975 đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của một nền văn
học phục vụ cách mạng, tuyên truyền và vận động cách mạng, cổ vũ chiến đấu vì sự
nghiệp chung của dân tộc. Đặc điểm này còn chi phối đến văn học nửa đầu những
năm 1980. Sau 1986, trước những chuyển biến của xã hội, tư tưởng, văn hóa, văn
học cũng có thay đổi trong nhu cầu và quan điểm thẩm mĩ để từng bước được đổi
mới. Nhu cầu nhìn lại nền văn học chiến tranh để đánh giá đúng những thành công
và hạn chế đã được quan tâm. Nhiều vấn đề cốt lõi của văn học được đưa ra xem xét
lại, bàn thảo sôi nổi như vấn đề: Văn học và hiện thực, văn nghệ và chính trị, chủ
nghĩa hiện thực và hiện thực xã hội chủ nghĩa... Nhờ chính sách mở cửa, nhiều trào
lưu, khuynh hướng và lí luận văn học hiện đại trên thế giới đã được giới thiệu rộng
rãi chi phối sự sáng tạo của nhà văn và văn hóa tiếp nhận của độc giả.
Văn học giai đoạn này đã vận động và biến đổi trong một sự tiếp nối có tính
liên tục, kế thừa và phát triển. Từ 1975 đến 1985, văn học chuyển tiếp từ văn học
chiến tranh sang nền văn học thời kì hậu chiến trên các phương diện đề tài, cảm hứng
và phương thức nghệ thuật. Từ 1986 đến đầu thập kỉ 90 là thời kì văn học đổi mới
mạnh mẽ, gắn liền với công cuộc đổi mới đất nước. Văn học đổi mới theo hướng đổi
mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm
hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản, tiếp cận đời sống trên bình diện thế
sự đời tư được các nhà văn tập trung hứng thú khám phá và khai thác. Đội ngũ sáng
tác phong phú với nhiều thế hệ như: lớp nhà văn tiền chiến, những cây bút mới thuộc
thế hệ nhà văn trẻ và đặc biệt là sự xuất hiện của những cây bút nữ. Các thể loại văn
học đều có những biến đổi và phát triển đa dạng, sôi nổi nhất là văn xuôi. Tư duy văn
học mới đã hình thành làm thay đổi các thành tố của văn học đặc biệt là phát huy
chiều sâu khám phá hiện thực xã hội và con người, khả năng sáng tạo và cá tính,

phong cách của mỗi nhà văn. Từ sau những năm 1990, văn học trở về với đời sống
thường nhật và ngày càng ý thức hơn về đổi mới nghệ thuật. Thơ thời kì này đi sâu
khai thác bản thể con người. Văn xuôi nổi lên hai mảng đáng chú ý với nhiều ấn
tượng là hồi kí- tự truyện và tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết được viết với những cách
tân thể nghiệm sáng tạo mới.
Như vậy, tồn tại và phát triển trong điều kiện lịch sử khác trước, văn học Việt
Nam sau 1985 mang những đặc điểm phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ và bối cảnh xã
hội mới phù hợp quy luật khách quan. Nền văn học đang vận động theo hướng dân
chủ hóa. Văn học không chỉ là tiếng nói chung mà còn là tiếng nói của mỗi cá nhân.
Văn học không những là vũ khí tinh thần để đấu tranh xã hội mà còn được nhấn
mạnh ở sức khám phá thực tại, thức tỉnh ý thức về sự thực, vai trò dự báo và dự cảm.

18


Đó cũng là một phương tiện cần thiết để tự biểu hiện tư tưởng, quan niệm, chính kiến
của người nghệ sĩ về xã hội và con người. Nhà văn vừa là nhà tư tưởng, nhà hoạt
động xã hội có tác dụng định hướng tư tưởng, khơi gợi cho người đọc những vấn đề
để cùng đọc, suy ngẫm và đồng sáng tạo. Hiện thực phản ánh ngày càng mở rộng và
toàn diện. Hiện thực ấy không chỉ là hiện thực cách mạng với những biến cố của lịch
sử và cộng đồng mà còn là hiện thực đời thường với những mối quan hệ phức tạp,
cuộc đời đa sự, đa đoan, thế giới nội tâm, số phận các nhân vật với muôn mặt phong
phú và bí ẩn. Hiện thực đa dạng ấy đã mở ra chiều kích vô tận để văn học chiếm lĩnh
và khám phá. Các phong cách sáng tác nở rộ, nhà văn được bộc lộ hết mình cá tính
sáng tạo và vận dụng những yếu tố trường phái nghệ thuật hiện đại phương Tây.
Theo đó, tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng tư tưởng và
cảm hứng chủ đạo của văn học giai đoạn này. Con người trở thành đối tượng khám
phá chủ yếu, vừa là đích đến của văn học vừa là hệ quy chiếu, thước đo giá trị cho
mọi vấn đề xã hội. Con người được nhìn nhận trong mối quan hệ đa chiều, với nhiều
bình diện và tầng bậc với những giá trị đa diện, lưỡng phân, phức tạp. Văn học

hướng đến sự cảm thông, thấu hiểu, nâng đỡ con người và đánh thức sự tự ý thức
thanh lọc tâm hồn con người để vươn đến những điều chân, thiện, mĩ. Hai đặc điểm
trên cũng dẫn đến đặc điểm văn học phát triển phong phú đa dạng và hiện đại. Đó là
sự phong phú về đề tài, thể loại, nhiều thể nghiệm về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về
phong cách và khuynh hướng thẩm mĩ. Sự đa dạng trong xu hướng dân chủ hóa cũng
gắn liền với tính phức tạp và không ổn định. Hơn nữa, trong bối cảnh giao lưu hội
nhập ngày càng mở rộng, văn học luôn biến đổi theo hướng tiếp thu cái mới sao cho
phù hợp với hoàn cảnh mới. Do đó, các yếu tố nghệ thuật như nghệ thuật tự sự với
những yếu tố điểm nhìn, xây dựng nhân vật, độc thoại nội tâm và dòng ý thức, kết
cấu, tính đa thanh của giọng điệu.. luôn có những điểm mới. Thơ được thể nghiệm
theo hướng hiện đại chủ nghĩa với những cách tân về nghệ thuật vượt ra khỏi khuôn
khổ và thói quen thơ cũ để mở ra con đường mới.
Như vậy, sau 1986, tiến trình hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng với sự kết nối
chặt chẽ hơn so với hai giai đoạn trước. Sự toàn cầu hóa và thâm nhập của Internet
cùng với tiếng Anh trở thành ngôn ngữ quan trọng đã góp phần hình thành một thế
giới đương đại với văn hóa hiện đại và hậu hiện đại xuất hiện ở Việt Nam. Văn học
Việt Nam mở ra một chân trời mới với nhiều cơ hội và thách thức. Đội ngũ sáng tác
ngày càng đông đảo, gồm nhiều thế hệ với sự đa dạng về phương pháp sáng tác và
phong cách sáng tác với nhiều thể nghiệm mới. Văn học phát triển phong phú nhưng
cũng rất phức tạp với nhiều trào lưu tư tưởng và lý thuyết mới được giới thiệu. Văn
học có nhiều cách tân đổi mới sôi nổi nhất kể từ 1986-1990 và âm thầm diễn ra mạnh

19


mẽ ở những năm sau đó. Bộ phận văn học hải ngoại trừ một số cây bút cực đoan,
chống cộng, phần lớn các nhà văn Việt sống ở nước ngoài vẫn mong muốn hòa hợp
dân tộc và đóng góp cho nền văn học Việt thêm phong phú, hiện đại.
Những cách tân, đổi mới trong tư tưởng văn học giai đoạn này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho cảm hứng sáng tác của Ngọc Giao giai đoạn 1986-1997 được hồi

sinh. Mặc dù chỉ còn hòa nhập và tiếp tục sáng tác trong khoảng 10 năm khi tuổi đã
cao sức đã yếu nhưng sự xuất hiện của nhà văn cùng các tác phẩm của ông vẫn cho
thấy một sự nhanh nhạy, cập nhật của một lối viết không quá xa lạ, thậm chí còn
cung cấp cho người đọc những tiếp nhận xúc động bất ngờ về những gì nhà văn
chiêm nghiệm, lưu giữ và truyền đạt trong mỗi tác phẩm.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ đầu thế kỉ XX đến nay, văn học Việt Nam đã
không ngừng vận động và biến chuyển trên đường hội nhập với nền văn học thế giới.
Giai đoạn đầu thế kỉ XX văn học bắt đầu bước vào quỹ đạo của văn học hiện đại và tiếp
tục mở rộng, phát triển mạnh mẽ hơn trong các cuộc giao lưu văn hóa ở cuối thế kỉ.
Trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam sự xuất hiện và đóng góp của mỗi tác
giả ở mỗi chặng đường là điều kiện cần thiết và cũng là minh chứng cho sự vận động và
thay đổi của công cuộc hiện đại hóa văn học. Với Ngọc Giao, nhà văn có hành trình
sáng tác trong gần như trọn vẹn thế kỉ XX, những dấu ấn trong sáng tác của ông trong
hai chặng đầu hiện đại hóa văn học và sự trở lại trong thời gian ngắn ở giai đoạn ba cũng
đủ cho thấy đời văn của ông gắn với diễn trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu về tác giả Ngọc Giao
Tổng hợp tình hình nghiên cứu trong nước về sự nghiệp văn chương của nhà văn
Ngọc Giao, theo tài liệu đến nay chúng tôi thu thập được, hiện chưa có một công trình
nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống, cụ thể và dày dặn về sự nghiệp văn chương của ông.
Thậm chí, số người biết và viết về Ngọc Giao còn ít. Phần lớn đó là những bài nhận định
mang tính chất phác thảo khái quát về cuộc đời và sự nghiệp hoặc những lời giới thiệu
ngắn gọn về nhà văn hoặc giới thiệu tác phẩm của Ngọc Giao trong các lần xuất bản.
Chúng tôi chia việc nghiên cứu tác giả Ngọc Giao ra các giai đoạn sau:
1.2.1 Giai đoạn trước 1945
Sau khi xuất hiện trên văn đàn với nhiều tác phẩm được đăng trên Tiểu thuyết
thứ Bảy và các tờ báo, tạp chí khác cùng thời như: Tao đàn, Ngọ báo, Ích Hữu,
Truyền bá, Cậu ấm cô chiêu..., độc giả đã dần quen thuộc và dành một sự ưu ái nhất
định với tác giả Ngọc Giao. Đặc biệt, sau khi ba tập truyện ngắn Một đêm vui (1936),
Phấn hương (1939) và Cô gái làng Sơn Hạ (1942) được xuất bản, Ngọc Giao đã trở
thành một trong những nhà văn hiện đại góp phần phong phú thêm cho dòng văn

xuôi hiện đại đầu thế kỉ XX và nhận được sự chú ý của độc giả cũng như các nhà

20


nghiên cứu nhiều hơn. Trong đó có thể kể đến một số bài viết sau đã thấy được giá
trị hấp dẫn và độc đáo của văn xuôi Ngọc Giao.
Một đêm vui là tập truyện quan trọng cho thấy những nét cơ bản về văn phong
Ngọc Giao trong thời kì đầu sáng tác. Tập Một đêm vui có ghi lời nhận xét đầu sách của
Phùng Tất Đắc trong lần đầu xuất bản năm 1936: “Giới thiệu tập này của ông Ngọc
Giao, tôi chỉ muốn chú ý đến một đặc tính của hầu hết các truyện ông Ngọc Giao
viết: đặc tính về luân lý” [90, 26]. Bên cạnh đó, lời bạt này cũng cho rằng Ngọc Giao là
một nhà viết truyện muốn chuyên về tình cảm và ưa tìm tòi trong khám phá tâm lí.
Khi tập Phấn hương được xuất bản lần đầu năm 1939, Trúc Đường đã có
những cảm nhận đánh giá cao về đặc điểm nghệ thuật độc đáo và giá trị nội dung của
văn xuôi Ngọc Giao. Ông cho rằng văn xuôi Ngọc Giao có những lời văn dịu dàng,
được gọt giũa nhưng cũng rất đơn sơ, giản dị và cảm động, giàu chất lãng mạn và
hiện thực. Đọc Phấn hương, người ta sẽ thấy "những ý tình rất cao thượng, rất tha
thiết, những hi sinh rất thiêng liêng, những bài học luân lí rất thiết thực, nó khiến tác
giả Phấn hương có thể bắt chước thi hào Victo Hugo mà trả lời mọi câu hỏi chất vấn:
"Tôi là một lương tâm" "[90, 30]. Từ đó, Trúc Đường cũng cho rằng: "Ngọc Giao là
văn sĩ của Đau khổ, của Tình thương"[90, 31].
Bài nhận xét, giới thiệu của nhà văn Vũ Ngọc Phan trong bộ sách Nhà văn
hiện đại (tập 2) xuất bản năm 1942 đã có đánh giá những nét đặc trưng của văn
chương Ngọc Giao nhưng còn chưa thực sự đầy đủ. Bài viết chủ yếu đưa ra những
nhận xét khái quát về đặc điểm nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Ngọc Giao giai
đoạn trước 1945. Với các tác phẩm truyện ngắn đương thời của Ngọc Giao, Vũ Ngọc
Phan đã đánh giá “Trong hầu hết truyện ngắn của ông, thứ tình cảm ông diễn đạt đều
là thứ tình sầu, tình uất... nhưng hay hơn cả đều là những truyện gợi mối thương tâm
người đọc. Ngọc Giao là một nhà văn sở trường về lối văn đạo tình...”[150,1129].

Tuy nhiên trong bài viết này, Vũ Ngọc Phan cũng chỉ ra những sự chưa đồng tình về
tư tưởng hoài niệm, bi quan khi viết về những cái chết và cách diễn đạt đôi khi quá
gọt giũa làm mất tự nhiên trong truyện ngắn Ngọc Giao. Trong công trình nghiên
cứu sớm này, có lẽ cũng do diện bao quát rộng rãi đời sống văn học hiện đại mới
hình thành,Vũ Ngọc Phan mới phác qua mà chưa đánh giá hết những giá trị nghệ
thuật và giá trị tư tưởng sự nghiệp văn chương của Ngọc Giao.
Như vậy, nhìn một cách khái quát, các bài viết đánh giá, nhận xét trước 1945
đã có những ghi nhận về tính nhân văn, giàu chất trữ tình và hiện thực trong tác
phẩm của Ngọc Giao ở chặng đường đầu sáng tác.

21


1.2.2 Giai đoạn 1945 - 1985
Trong bối cảnh đất nước phải đối diện với hai cuộc kháng chiến trường kỳ
cứu nước, văn học trước 1945 - 1975 hướng đến mục tiêu cao cả là phục vụ cách
mạng. Quan niệm tư tưởng và nghệ thuật cũng như cách nhìn nhận đánh giá tác
phẩm văn học và vị trí, đóng góp của nhà văn chịu sự chi phối, ảnh hưởng của lập
trường tư tưởng cách mạng hướng đến mục đích văn học trực tiếp phục vụ cho sự
nghiệp đấu tranh cách mạng. Với thực tế sống và viết của Ngọc Giao giai đoạn này,
dù luôn hướng về lẽ phải với tình thương người sâu sắc, lòng yêu nước thầm kín
nhưng do quan điểm, lập trường của thời kì lịch sử bấy giờ, nhà văn Ngọc Giao cùng
tác phẩm của ông không dễ gì được chấp nhận và phải chịu nhiều dư luận trái chiều.
Số ít ý kiến ghi nhận những giá trị tác phẩm Ngọc Giao giai đoạn này là lời
giới thiệu tiểu thuyết Đất. Bài giới thiệu của nhà văn Tam Lang về tiểu thuyết Đất
khi tác phẩm được in năm 1950 tại nhà xuất bản Cây thông, Hà Nội có viết:“ Đất, ở
đây, trong những dòng chữ bỏng cháy này sẽ tiết ra, sẽ dựng lên cả một cuộc đời gai
lửa, nghẹn uất của những con người mong được sống, thiết tha sống, thấy lẽ sống chỉ
khi nào họ được bám vào đất, ghì chặt lấy đất. Bạn đọc đi, để được gửi lòng mình
vào lòng Đất Việt muôn thuở mạnh”[58,2]. Bài viết này chủ yếu đánh giá ngắn gọn

về nội dung của tác phẩm Đất với những ý hướng tích cực của một tác giả dũng cảm
nói lên hiện thực cuộc sống khổ cực của người dân vùng tề với biết bao tâm trạng.
Bên cạnh đó cũng có ý kiến đi ngược lại, trong đó phải kể đến bài viết về văn
học Hà Nội tạm chiếm của ông Nguyễn Bắc, Giám đốc Sở văn hóa Hà Nội năm 1963
dưới nhan đề Mấy nét về tình hình văn học trong lòng Hà Nội thời kỳ kháng chiến.
Bài viết có những nhận xét còn mang tính quy chụp, phiến diện về các tiểu thuyết
Ngọc Giao giai đoạn 1947- 1954. Tác giả chủ yếu bàn đến mục đích và tư tưởng của
tác giả Ngọc Giao với kháng chiến và cách mạng thông qua các tác phẩm của ông
chứ không bàn nhiều đến giá trị văn chương với những đóng góp tích cực cho văn
học nghệ thuật. Đó là cách nhìn nhận của nhà phê bình nhìn tác phẩm văn học như
một công cụ phục vụ chính trị đơn thuần. Cách nhìn nhận đó chưa thực sự toàn diện
và đúng đắn, khách quan về giá trị văn chương của Ngọc Giao và chịu sự chi phối
của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Cũng kể từ sau bài viết này, sự mặc cảm cùng những
quan điểm riêng rất cá tính trong sáng tạo nghệ thuật đã khiến nhà văn ngậm ngùi xa
dần nghiệp viết và bạn đọc.
Như vậy, giai đoạn 1945 -1985, mặt tích cực trong tác phẩm Ngọc Giao chưa
được quan tâm và đánh giá cao, số lượng bài viết ít, góc nhìn để đánh giá tác giả và
tác phẩm còn phiến diện, một chiều. Do những giới hạn của hoàn cảnh lịch sử xã hội,

22


×