Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình với nước ngoài tại đài phát thanh truyền hình quảng ninh (luận văn ths báo chí và truyền thông)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THỊ MINH THẢO

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH
PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH VỚI NƢỚC NGOÀI
TẠI ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội-2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THỊ MINH THẢO

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH
PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH VỚI NƢỚC NGOÀI
TẠI ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
QUẢNG NINH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thành Lợi



Hà Nội-2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thành Lợi. Các kết quả trong luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

NGƢỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Minh Thảo


LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình với nước
ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh” được hoàn thành bên cạnh sự nỗ lực của bản
thân tác giả còn có sự giúp đỡ từ các thầy, cô giáo, các anh, chị đồng nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư -Tiến sĩ Nguyễn Thành
Lợi, người đã tận tình truyền dạy kinh nghiệm, hướng dẫn và tạo mọi điều
kiện để tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các thầy, cô giáo là giảng viên Khoa Báo chí truyền
thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội, đặc biệt là
những thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy, truyền đạt cho tôi vốn kiến thức quý
báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo Đài Phát thanh - Truyền hình
Quảng Ninh và các anh chị đồng nghiệp đã tạo điều kiện và hỗ trợ tôi trong
việc cung cấp một số tài liệu liên quan đến luận văn.
Tác giả luận văn


Vũ Thị Minh Thảo


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................. 2
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG
TRÌNH PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH VỚI NƢỚC NGOÀI ............ 18
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 18
1.2. Quan niệm về sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình với nước
ngoài ........................................................................................................ 28
1.3.Quy trình tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình với
nước ngoài ............................................................................................... 42
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG
TRÌNH PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH VỚI NƢỚC NGOÀI TẠI ĐÀI
PT-TH QUẢNG NINH ................................................................................. 45
2.1. Tổng quan về hoạt động tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền
hình với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh ............................................ 45
2.2. Phân tích hoạt động tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền
hình với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh ............................................ 54
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TỔ CHỨC SẢN
XUẤT CHƢƠNG TRÌNH PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH VỚI NƢỚC
NGOÀI TẠI ĐÀI PT-TH QUẢNG NINH.................................................. 83
3.1 Một số vấn đề đặt ra đối với hoạt động tổ chức sản xuất chương trình phát
thanh, truyền hình với nước ngoài .................................................................. 83
3.2. Một số giải pháp ..................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98

1



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của mạng viễn thông, của
Internet, nhiều loại hình truyền thông mới đã xuất hiện, cạnh tranh gay gắt với
những loại hình truyền thông truyền thống trong đó có phát thanh và truyền
hình.
Có thể thấy, chưa lúc nào công chúng lại có nhiều sự lựa chọn về kênh
thông tin và giải trí như hiện nay. Điều này có nghĩa, càng có nhiều sự lựa
chọn thì yêu cầu của công chúng đối với các chương trình truyền thông càng
cao. Các loại hình truyền thông truyền thống như phát thanh và truyền hình
muốn giữ được công chúng thì phải không ngừng đổi mới nội dung chương
trình, hình thức thể hiện, mở rộng kênh, tăng thời lượng phát sóng, để mang
lại thật nhiều sự lựa chọn cho công chúng. Điều này đòi hỏi các Đài PT-TH
phải đầu tư không ít tiền của, vì hiện nay, để sản xuất các chương trình PTTH hay rất tốn kém, đặc biệt là chương trình truyền hình. Trong khi đó, xu
hướng hiện nay tại Việt Nam đó là các Đài PT-TH phải dần tự chủ về tài
chính.
Làm thế nào để vừa có thể sản xuất được nhiều chương trình hay, lấp
đủ sóng các kênh lại tiết kiệm chi phí là bài toán mà bất cứ nhà Đài nào cũng
cần phải giải quyết. Để giải quyết một loạt vấn đề như vậy, nếu chỉ dựa vào
lực lượng củaNhà đài thì không đủ mà phải có sự tham gia của nhiều lực
lượng trong xã hội. Một xu hướng được coi là tất yếu trong quá trình này đó
là xã hội hóa sản xuất các chương trình PT-TH. Ngày nay, công chúng có thể
bắt gặp vô số các chương trình PT-TH có sự tham gia sản xuất của lực lượng
bên ngoài đài.
2



Thực tiễn cho thấy, việc xã hội hóa sản xuất các chương trình phát
thanh truyền hình tại các Đài PT-TH từ trung ương cho đến địa phương đã
giúp cho những cơ quan này cắt giảm được giá thành chi phí sản xuất và chia
sẻ được rủi ro về mặt kinh tế. Bên cạnh đó, việc xã hội hóa sản xuất các
chương trình PT-TH còn góp phần làm phong phú thêm diện mạo của các
chương trìnhnày, giúp cho chất lượng chương trình được nâng cao, hoạt động
sản xuất chương trình chuyên nghiệp hơn. Từ đó, các cơ quan báo chí có thể
cho ra những sản phẩm hấp dẫn công chúng, không ít chương trình hợp tác
sản xuất với đối tác bên ngoài đã góp phần xây dựng lên thương hiệu cho cơ
quan báo chí đó.
Theo xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh việc cho các đối tác là
tổ chức, đơn vị, cá nhân là người Việt Nam tham gia vào hoạt động sản xuất
chương trình PT-TH thì các Đài còn hợp tác cả với các đối tác nước ngoài.
Ngày 18/2/2004, Tổng giám đốc Đài THVN ký quyết định số 190/QĐTHVN thành lập Ban hợp tác Quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng giúp đài phát
triển quan hệ nhiều mặt với các nước khác, mặt khác mở rộng hợp tác cùng
sản xuất, trao đổi, khai thác chương trình. Những năm qua đài đã duy trì, phát
huy các mối quan hệ và trao đổi chương trình truyền hình với gần 30 kênh
truyền hình quốc tế và các đối tác quốc tế. Năm 2013, Đài THVN và Công ty
Giải trí truyền thông CJ (CJ E&M), Hàn Quốc đã ký kết thỏa thuận hợp tác
sản xuất một bộ phim truyền hình dài tập về chủ đề các du học sinh Việt Nam
tại Hàn Quốc. Mới đây nhất, Đài THVN còn hợp tác với đài TBS của Nhật
Bản với các chương trình như : “Sắc màu Nhật Bản”, Bộ phim Người cộng sự,
dự án phim “Khúc hát mặt trời” và trò chơi truyền hình “Không giới hạn” –
Sasuke Việt Nam.
Cùng với đài THVN các đài địa phương cũng mở rộng hợp tác sản xuất
với các đối tác trong và ngoài nước để chương trình ngày càng phong phú. Là
3


một đài Phát thanh Truyền hình địa phương, đài PT-TH Quảng Ninh trong

những năm qua đã tích cực tạo lập và mở rộng mối quan hệ hợp tác với các
đài PT-TH, các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước. Ngoài 8 đài trong
cụm thi đua các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, đài PT-TH Quảng Ninh còn
có mối quan hệ hợp tác, phối hợp sản xuất, trao đổi chương trình thường
xuyên với hầu hết các đài truyền hình, đài phát thanh, đài phát thanh truyền
hình và các cơ quan truyền thông lớn trong nước. Bên cạnhđó, đài còn mở
rộng hợp tác thường xuyên với các đài và hãng thông tấn quốc tế và cá nhân
nước ngoài như: đài Phát thanh Nhân dân Quảng Tây, đài Truyền hình Quảng
Tây, đài Phát thanh quốc tế Trung Quốc, đài Truyền hình GangWon Hàn
Quốc và đài Phát thanh làn sóng Đức, người nước ngoài làm việc tại Việt
Nam. Hoạt động này không những góp phần tăng thêm tiềm lực sản xuất
chương trình, nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân lực mà còn tạo ra
sự ảnh hưởng rộng rãi hơn, góp phần tạo ra bản sắc riêng và nâng cao vị thế
của đài.
Một trong những hoạt động mang lại thế mạnh cho đài Quảng Ninh so
với các đài địa phương khác đó là phối hợp với nước ngoài sản xuất chương
trình.Sự phối hợp này thực hiện trên cả phát thanh và truyền hình với các sản
phẩm như: Nụ cười Hạ Long (chương trình truyền hình thực tế có sự phối hợp
của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam); Cuộc thi tiếng hát hữu nghị
ViệtTrung; Loạt chương trình phát thanh trên kênh Giai điệu Hạ Long QNR2;
Đặc san song ngữ Việt Trung Hoa Sen (phối hợp sản xuất cùng với đài Phát
thanh Nhân dân Quảng Tây Trung Quốc).
Những sản phẩm báo chí truyền thông này đã mang lại cho đài Quảng
Ninh những dấu ấn riêng, và đây cũng là điểm cạnh tranh của đài PT-TH
Quảng Ninh đối với các đài địa phương khác. Các sản phẩm báo chí cũng thu
hút được sự quan tâm, đón nhận của đông đảo công chúng. Từ đó có thể thấy
4


việc phối hợp sản xuất với nước ngoài cho ra các sản phẩm báo chí truyền

thông tại đài Quảng Ninh đã mang lại nhiều hiệu quả.
Tuy nhiên, việc phối hợp sản xuất giữa các cơ quan báo chí với các đối
tác bên ngoài có nhiều khó khăn và phức tạp hơn so với việc chỉ một mình cơ
quan đó tự tổ chức sản xuất. Điều này còn khó khăn và phức tạp hơn khi hợp
tác sản xuất chương trình với nước ngoài. Một loạt các vấn đề đặt ra khi tiến
hành hợp tác sản xuất như: vấn đề chính trị, văn hóa, ngôn ngữ, nhân lực, bản
quyền, quy trình tổ chức sản xuất…
Hoạt động hợp tác sản xuất với đối tác nước ngoài tại đài PT-TH
Quảng Ninh có từ năm 2007, duy trì và liên tục phát triển cho đến nay. Đây
cũng là một khoảng thời gian đủ dài để đài cần đánh giá lại hiệu quả của hoạt
động này. Hiện tại chưa có một nghiên cứu chính thức nào về việc hợp tác sản
xuất với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh. Điều này đặt ra yêu cầu cần
có một công trình nghiên cứu về vấn đề này để đánh giá thực trạng, chỉ ra
những ưu nhược điểm của hoạt động hợp tác sản xuất với nước ngoài tại đài
PT-TH Quảng Ninh, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục những vấn đề
tồn tại, nâng cao hiệu quả của hoạt động hợp tác sản xuất. Chính vì vậy,tác
giả chọn đề tài “ Tổ chức sản xuất chƣơng trình phát thanh, truyền hình
với nƣớc ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh” làm công trình nghiên cứu tốt
nghiệp khóa Đào tạo Thạc sĩ Báo chí của mình với mong muốn phần nào giải
đáp được những câu hỏi và những vấn đề đặt ra ở trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1.

Về chƣơng trình phát thanh, truyền hình và tổ chức sản xuất
chƣơng trình phát thanh,truyền hình

Báo phát thanh ra đời nhờ phát minh sóng điện từ với sự đóng góp của
các nhà bác học Maxwell, Faraday, Hertz…vào cuối thế kỷ XIX. Năm 1895,
nhà bác học Nga Alexandre S.Poppov đã công bố phát minh ra ăng ten vô
5



tuyến điện và máy thu sóng điện tử đầu tiên. Cùng thời gian đó, nhà bác học
Ý Gughielmo Marconi thí nghiệm thành công việc truyền tín hiệu vô tuyến
đầu tiên trên khoảng cách 400m rồi 2000m và tiến tới những khoảng cách xa
hơn. Những phát minh này đã tạo ra sự bùng nổ về kỹ thuật truyền thông đại
chúng. Vào đầu thế kỷ XX, con người đã chứng kiến những tín hiệu phát
thanh, những chương trình, buổi truyền thanh đầu tiên.
Trải qua một thế kỷ phát triển, báo phát thanh đã chứng kiến những thay
đổi to lớn cả về kỹ thuật, phương thức sản xuất, nội dung chương trình…và là
một lĩnh vực được nghiên cứu rộng rãi. Nghiên cứu về phát thanh, chương
trình phát thanh và tổ chức sản xuất chương trình phát thanh phải kể đến các
cuốn sách sau:
- Nhiều tác giả (2002), Báo Phát thanh, NXB Văn hóa Thông tin.
Nội dung cuốn sách gồm 20 chương trình bày về các vấn đề về sự hình
thành, phát triển; chức năng xã hội, đặc trưng, công chúng, phương pháp viết
cho báo phát thanh; ngôn ngữ; kỹ thuật trình bày, âm nhạc; kỹ năng viết báo
phát thanh,...
- Đức Dũng (2003), Lý luận Báo phát thanh, NXB Văn hóa Thông tin.
Nội dung cuốn sách gồm hai phần. Phần thứ nhất gồm 6 chương, trình bày
vị trí, vai trò của báo phát thanh trong hệ thống các loại hình thông tin đại
chúng; đặc trưng báo phát thanh; viết cho phát thanh; kỹ năng nhà báo phát
thanh; chương trình phát thanh và phát thanh trực tiếp. Phần thứ hai gồm 9
chương, trình bày các thể loại phát thanh như: tin, tường thuật, bình luận,
phóng sự, ghi nhanh, phỏng vấn, tọa đàm, bài phản ánh,...
- Vũ Văn Hiền, Đức Dũng (2007), Phát thanh trực tiếp, NXB Lý luận
Chính trị.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, các tác giả đã đánh giá một
cách toàn diện về tình hình phát thanh trực tiếp ở Việt Nam, từ đó rút ra
6



những kết luận khoa học để định hướng thực tiễn và đáp ứng được những yêu
cầu bức xúc của công tác nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng về phương thức
sản xuất các chương trình phát thanh trực tiếp ở nước ta hiện nay.
- Đinh Thị Thu Hằng (2013), Báo Phát thanh, Lý thuyết và kỹ năng cơ
bản, NXB Chính trị - Hành chính.
Cuốn sách gồm 7 chương, trình bày các nội dung đặc trưng, thể loại và
công chúng của báo phát thanh, cách viết và biên tập cho báo phát thanh, tổ
chức sản xuất chương trình phát thanh. Đây là cuốn sách mà học viên có thể
tham khảo phục vụ cho luận văn về quy trình tổ chức sản xuất chương trình
phát thanh.
- Trần Bảo Khánh (2003), Sản xuất chương trình truyền hình, NXB Văn
hóa Thông tin.
Cuốn sách này đề cập chủ yếu đến phương pháp sản xuất chương trình
truyền hình, các yếu tố cấu thành một sản phẩm truyền hình. Đặc biệt cuốn
sách trình bày tương đối kỹ lưỡng tới quy trình sản xuất các thể loại trong
truyền hình như: ký sự, phóng sự, cầu truyền hình, tin truyền hình…
- Phạm Thị Sao Băng (2005), Giáo trình Công nghệ sản xuất chương
trình truyền hình, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
Giáo trình này trình bày về các nội dung: giới thiệu chung về chương trình
truyền hình, quy trình sản xuất một chương trình truyền hình, công nghệ sản
xuất các chương trình truyền hình, công nghệ phân phối các chương trình
truyền hình, một số thiết bị tiền kỳ và hậu kỳ trong công nghệ sản xuất
chương trình truyền hình.
- Dương Xuân Sơn (2009),Giáo trình Báo chí truyền hình, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Giáo trình tập trung trình bày các vấn đề của báo chí truyền hình như: vị trí,
vai trò, lịch sử ra đời phát triển của truyền hình; khái niệm, đặc trưng; nguyên
7



lý của truyền hình; chức năng xã hội của truyền hình; kịch bản và kịch bản
truyền hình; quy trình sản xuất chương trình truyền hình; các thể loại báo chí
truyền hình; các thuật ngữ truyền hình; phần phụ lục kèm theo các dạng kịch
bản theo thể loại và chương trình truyền hình. Đây là tài liệu khá đầy đủ về
các vấn đề cơ bản liên quan đến truyền hình.
- Dương Xuân Sơn (2014), Các loại hình báo chí truyền thông,NXB
Thông tin và Truyền thông.
Trong cuốn sách này, tác giả đề cập đến nhiều loại hình báo chí truyền
thông. Ở phần viết về truyền hình, tác giả đã trình bày khái niệm về truyền
hình, chương trình truyền hình, các đặc trưng của truyền hình, ngôn ngữ
truyền hình, phương thức sản xuất chương trình truyền hình, đi sâu phân tích
các thể loại truyền hình và chỉ ra xu hướng phát triển của truyền hình.
Nội dung những cuốn sách trên sẽ giúp tác giả làm cơ sở để xây dựng
khung lý thuyết về chương trình phát thanh, truyền hình trong luận văn của
mình.
2.2 .Về tổ chức sản xuất chƣơng trình phát thanh, truyền hình với nƣớc
ngoài
Hiện tại, chưa có một công trình nghiên cứu, sách hay luận án, luận văn,
khóa luận nào liên quan tới hoạt động Tổ chức sản xuất chương trình phát
thanh, truyền hình với nước ngoài. Tuy nhiên, có thể hiểu hoạt động “Tổ chức
sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình với nước ngoài” là một hình
thức của hoạt động xã hội hóa sản xuất sản phẩm báo chí. Liên quan tới hoạt
động này, có thể kể tới một số tài liệu sau:
- Đinh Thị Xuân Hòa (2014), Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền
hình ở Việt Nam hiện nay, NXB Thông tin và Truyền thông.

8



Đây là cuốn sách đầu tiên viết về hoạt động xã hội hóa hoạt động
truyền hình tại Việt Nam. Cuốn sách đã triển khai các mục tiêu nghiên cứu
một cách khoa học, bài bản với 3 nhiệm vụ cụ thể:
Thứ nhất, nghiên cứu hệ thống và khái quát hóa khung lý thuyết về hoạt động
xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình: (1) Làm rõ khái niệm về xã hội
hóa sản xuất chương trình truyền hình và một số khái niệm liên quan để so
sánh. (2) Tính tất yếu của hoạt động xã hội hóa. (3)Các hình thức xã hội hóa
sản xuất chủ yếu. (4)Những nguyên tắc để đảm bảo tính định hướng nhưng
vẫn khai thác, khuyến khích được các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt
động sản xuất chương trình truyền hình…
Thứ hai, điều tra, phân tích các hoạt động xã hội hóa ở một số đài truyền hình
ở Việt Nam hiện nay một cách toàn diện, chi tiết qua các yếu tố cơ bản: đối
tượng hợp tác, hình thức, nội dung xã hội hóa, các phương thức tổ chức, quản
lý hoạt động xã hội hóa, từ đó nhận định về thực trạng của hoạt động này trên
thực tế. Cuốn sách khẳng định tính tích cực của hoạt động xã hội hóa, đồng
thời chú trọng chỉ rõ những hạn chế cần sớm khắc phục đặc biệt là về nhận
thức cũng như quá trình quản lý của hoạt động này.
Thứ ba, trên cơ sở các kết luận khái quát đó, kết hợp với kinh nghiệm phát
triển lĩnh vực này của một số nước trên thế giới, cuốn sách dự báo một số vấn
đề đặt ra trong thời gian tới và đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hiệu
quả hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình tại Việt Nam.
Do đối tượng khảo sát rộng nên cuốn sách không đề cập cụ thể về thực
trạng xã hội hóa chương trình truyền hình ở một đài nào. Tại mục 2.2. “Đối
tượng tham gia hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ở
Việt Nam” tác giả có đề cập tới đối tượng tham gia xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình là các đối tác nước ngoài. Tại mục này, tác giả đã
nói tới hoạt động trao đổi chương trình giữa đài PTTH Quảng Ninh với các
9



đài nước ngoài như đài Truyền hình Quảng Tây Trung Quốc và đài Gang
Won Hàn Quốc. Tuy nhiên, nội dung đề cập mới mới dừng lại ở mức giới
thiệu khái quát chứchưa đi sâu phân tích.
- Vũ Thị Thu Hà, Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn việc xã hội hoá truyền
hình, hệ thống một số tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề phát triển báo chí, sự tham
gia của xã hội trong việc phát triển xã hội hoá truyền hình. Khảo sát, phân tích
đánh giá những chương trình truyền hình của đài PT-TH Hà Tây từ năm
2004-2006 có sự hợp tác của các nguồn lực bên ngoài ngành truyền hình,
khẳng định những mặt tích cực, ưu điểm, những vướng mắc cần giải quyết
theo quan điểm xã hội hoá truyền hình. Đưa ra các kiến nghị đổi mới nhận
thức và quan niệm về xã hội hoá truyền hình trong đời sống xã hội. Đề xuất
một số giải pháp về nguồn vốn, nguồn nhân lực, tăng cường mối quan hệ giữa
các đài truyền hình với nhau và đài truyền hình với nguồn lực bên ngoài, lộ
trình thực hiện xã hội hoá truyền hình nói chung và đài PT-TH Hà Tây trong
giai đoạn đổi mới đất nước.
- Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Hiệu quả kinh tế và xã hội của hoạt động
xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ở đài Truyền hình Việt Nam
hiện nay. (Khảo sát ba chương trình truyền hình “Năng lượng cho phát triển
đất nước”, “S Việt Nam – Hương vị và cuộc sống và “ 7 ngày vui sống” trên
kênh VTV1 từ 05/2010 – 05/2011, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn.
Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận và diện mạo của hoạt động xã hội
hóa sản xuất chương trình truyền hình ở Việt Nam tại thời điểm nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng của việc xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
10



tại đài Truyền hình Việt Nam thông qua kênh truyền hình VTV1. Phân tích
thành công và hạn chế của hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình truyền
hình dưới các bình diện: về kinh tế báo chí, về chất lượng chương trình, về
việc đa dạng hóa sản phẩm truyền thông đáp ứng nhu cầu của công chúng
thông qua ba chương trình truyền hình “Năng lượng cho Phát triển đất nước”,
“S Việt Nam-Hương vị cuộc sống” và “7 ngày vui sống” trên kênh VTV1. Đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình ở đài truyền hình Việt Nam.
- Trần Thị Hồng Vân, Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
qua sản phẩm của các công ty truyền thông: Cát Tiên Sa, Lasta, Hoa Hồng
Vàng từ năm 2008 đến năm 2010 trên sóng Đài truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn
Luận văn làm rõ vấn đề xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
với sự tham gia của các công ty truyền thông. Trong đó, làm nổi bật mối quan
hệ giữa đài truyền hình TPHCM và các công ty truyền thông tham gia sản
xuất chương trình truyền hình. Phân tích các chương trình do công ty truyền
thông sản xuất trên đài truyền hình TPHCM từ năm 2008 đến 2010. Đồng
thời, tiến hành khảo sát thực tế các chương trình đang phát sóng trên đài
truyền hình TPHCM của các công ty Cát Tiên Sa, Lasta, Hoa Hồng Vàng.
Trình bày những giải pháp hữu dụng cho việc cải tiến và nâng cao chất lượng
chương trình liên kết sản xuất trên đài truyền hình TPHCM trong thời gian tới.
- Trần Việt Hùng, Xã hội hóa chương trình truyền hình trên VTV4, Luận
văn thạc sĩ, Học viện báo chí tuyên truyền
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xã hội hóa chương
trình truyền hình trong mối quan hệ với các công ty truyền thông tại VTV4,
luận văn đề xuất giải pháp để hoạt động xã hội hóa chương trình truyền hình
trên VTV4 đi vào chuyên nghiệp, quy củ, có hiệu quả cao, phù hợp với định
11



hướng phát triển báo chí theo quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước đồng thời đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của khán
giả.Luận văn không chỉ phân tích, đánh giá thực trạng xã hội hóa chương
trình truyền hình của VTV4 mà còn góp phần làm rõ những vấn đề mới làm
phát sinh, đề xuất giải pháp, mô hình, những vấn đề cần giải quyết nhằm giúp
các nhà quản lý có thêm dữ liệu, cơ sở tham khảo cho việc hoàn thiện các văn
bản qui phạm pháp luật, tăng cường trách nhiệm quản lý nội dung chương
trình và định hướng mô hình xã hội hóa thích hợp.
- Trần Thị Mỹ Hạnh, Liên kết sản xuất chương trình truyền hình giữa
các đài PT-TH khu vực Tây Nam Bộ hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học
viện Báo chí Tuyên truyền
Luận văn đi sâu phân tích hiện trạng liên kết chương trình truyền hình tại
các đài PT-TH địa phương khu vực Tây Nam Bộ từ đó đưa ra giải pháp khắc
phục. Tuy rằng, luận văn nghiên cứu về mô hình liên kết sản xuất ở cấp đài
địa phương cũng có nhiều điểm tương đồng có thể liên hệ với đài Quảng Ninh,
nhưng đối tượng nghiên cứu là chương trình liên kết với đối tác trong nước và
cũng chỉ ở lĩnh vực truyền hình.
Bên cạnh các luận án luận văn nghiên cứu về vấn đề liên kết, xã hội
hóa chương trình truyền hình thì còn rất nhiều bài viết ngắn về một khía cạnh
về hoạt động liên kết sản xuất chương trình truyền hình đã được đăng trên các
báo, website. Dưới đây là một số bài viết tiêu biểu:
+ Xu hướng xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay, tác giả Đinh
Thị Xuân Hòa, Khoa Phát thanh – Truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, đăng trên trang Hội nhà báo Việt Nam, ngày 5/12/2011.
+ Xã hội hóa truyền hình: Chưa được như mong đợi, tác giả Lan Anh,
đăng trên TuanVietnam.net (Báo Vietnamnet điện tử) ngày 31/12/2013.

12



+ Liên kết truyền hình : Đừng đánh mất khán giả, tác giả Lê Quốc Vinh,
đăng trên báo Tuổi trẻ online, ngày 21/5/2015
+ Kênh truyền hình xã hội hóa: Vất vả tồn tại, tác giả Như Hoa, đăng
trên báo Sài Gòn online, ngày 30/8/2015
+ Về những sai sót trong các chương trình truyền hình liên kết, tác giả
Chi Anh, đăng trên báo Nhân dân điện tử ngày 18/6/2015
+ Liên kết nhưng không thương mại hóa, tư nhân hóa báo chí, tác giả
Khánh Minh, đăng trên báo Nhân dân điện tử ngày 11/8/2016
+ Hàn Quốc, Nhật Bản, Hong Kong…ào ạt đầu tư vào truyền hình Việt,
đăng trên Báo điện tử Tuổi trẻ ngày 6/1/2017.
Những bài viết trên đều khẳng định quá trình xã hội hóa truyền hình
cũng góp phần làm khởi sắc đời sống truyền hình, thỏa mãn nhu cầu thông tin,
giáo dục, giải trí ngày càng phong phú của người dân, góp phần tăng cường
nguồn lực (tài chính, kỹ thuật, nhân lực...) cho ngành truyền hình. Bên cạnh
đó những bài viết cũng chỉ ra những mặt bất cập của hoạt động xã hội hóa sản
xuất chương trình truyền hình lâu nay: từ xu thế thương mại hóa, câu chuyện
“bán sóng”, cạnh tranh không lành mạnh, nhập siêu sản phẩm truyền hình...
đến những sơ sót, sai sót về nội dung, sai phạm những quy định (quảng cáo
dư thời lượng, quảng cáo không phù hợp...), bội thực các chương trình truyền
hình thực tế dạng giải trí...
Tất cả các luận văn và các bài viết trên chủ yếu tập trung nghiên cứu
hoạt động xã hội hóa, liên kết sản xuất chương trình truyền hình tại Việt Nam
nói chung và tại các đài, các kênh riêng biệt. Mặc dù các công trình nghiên
cứu này đã tập trung nghiên cứu về nhiều vấn đề khía cạnh liên quan tới hoạt
động xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình từ cơ sở lý luận cho đến
thực tiễn và đã đưa ra nhiều giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động xã hội hóa nhưng chưa có công trình nào đề cập đến hoạt động xã hội
13



hóa sản xuất chương trình phát thanh. Đặc biệt, là chưa có công trình nghiên
cứu nào về hoạt động tổ chức sản xuất chương trình phát thanh và truyền hình
tại một cơ quan báo chí đối với nước ngoài. Đây chính là khoảng trống nghiên
cứu cần được lấp đầy để bổ sung thêm vào các công trình nghiên cứu về vấn
đề này. Từ thực thế trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh truyền hình với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng
Ninh” với mong muốn đưa ra những khuyến nghị về một quy trình tổ chức
sản xuất chương trình phát thanh,truyền hình với đối tượng là nước ngoài hiệu
quả không chỉ đối với đài PT-TH Quảng Ninh nói riêng mà còn cho các đài
PT-TH địa phương trên cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát và nghiên cứu thực trạng tổ chức sản xuất các
chương trình phát thanh truyền hình của đài PT-TH Quảng Ninh đối với các
đối tác nước ngoài, luận văn làm rõ những thành công và hạn chế từ đó đưa ra
những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức sản
xuất chương trình phát thanh truyền hình với nước ngoài tại đài PT-TH
Quảng Ninh trong thời gian tới.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung vào 3 nhiệm vụ nghiên cứu trọng tâm sau đây:
Một là, làm rõ vấn đề lý luận liên quan tới hoạt động tổ chức sản xuất
chương trình PT-TH với đối tác nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh, từ đó
xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu.
Hai là, khảo sát thực trạng của hoạt động tổ chức sản xuất chương trình
PT-TH với đối tác nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh. Chỉ ra những thành
công, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế, từ đó đánh giá hiệu quả của hoạt

động này.
14


Ba là, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động tổ
chức sản xuất chương trình phát thanh truyền hình với nước ngoài tại Đài
Quảng Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên của đề tài là hoạt động tổ chức sản xuất chương trình
phát thanh truyền hình với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Các chương trình phát thanh truyền hình phối hợp sản xuất với đối tác
nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh bao gồm: Chương trình truyền hình
thực tế Nụ cười Hạ Long, chương trình phát thanh trên kênh QNR2. Thời gian
khảo sát từ năm tháng 6/2016 đến 6/2017.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng, Nhà nước về báo chí, một số lý thuyết báo chí nói chung và lý thuyết
về phát thanh, truyền hình nói riêng.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu công cụ


Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Bao gồm phân tích, tổng hợp nội dung các báo cáo, tài liệu, giáo trình,
các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến hoạt động tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh, truyền hình với đối tác nước ngoài tại đài PT-TH
Quảng Ninh, từ đó rút ra những số liệu, kinh nghiệm để học viên triển khai
nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn sâu

15


Tác giả thực hiện phỏng vấn sâu khoảng 10 người bao gồm lãnh đạo
đài và lãnh đạo, phóng viên, biên dịch, biên tập viên có kinh nghiệm ở các
phòng Quốc tế, phòng Biên tập Phát thanh đài PT-TH Quảng Ninh, qua đó
nhằm thu thập ý kiến và đánh giá chính xác và khách quan về hoạt động tổ
chức sản xuất chương trình phát thanh truyền hình với nước ngoài tại đài
Quảng Ninh để làm cơ sở đánh giá thực trạng và xây dựng giải pháp.
- Phương pháp thống kê
Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định tần suất xuất hiện, mức
độ phát triển, chất lượng, hiệu quả những chương trình PT-TH được tổ chức
sản xuất với đối tác nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh.
- Phương pháp phân tích nội dung
Phương pháp này dùng để phân tích thực trạng hoạt động sản xuất chương
trình phát thanh, truyền hình với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1.

Ý nghĩa lý luận


Luận văn làm rõ và bổ sung những vấn đề lý luận về tổ chức sản xuất
chương trình PT-TH, đặc biệt là về tổ chức sản xuất chương trình PT-TH giữa
một đài PT-TH địa phương với nước ngoài.
6.2 . Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho các đài địa phương, cơ
quan quản lý báo chí...
- Từ việc nghiên cứu đề tài này sẽ phân tích sâu sắc thực trạng tổ chức
sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình với nước ngoài tại đài PT-TH
Quảng Ninh, từ đó làm rõ những mặt tích cực cũng như những hạn chế tồn tại,
đưa ra đề xuất giải pháp thích hợp để nhằm thúc đẩy hoạt động tổ chức sản
xuất chương trình phát thanh truyền hình với nước ngoài của đài Quảng Ninh
trong thời gian tới. Từ đó góp phần vào việc nâng cao chất lượng các chương
16


trình phát thanh, truyền hình được tổ chức sản xuất với nước ngoài nói riêng
và chương trình của đài nói chung.
- Việc nghiên cứu đề tài này cũng là nhằm góp phần bổ sung xây dựng
những vấn đề lý luận mới về tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền
hình với nước ngoài tại Việt Nam nói chung và tại đài Quảng Ninh nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương. Cụ thể:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền
hình với nước ngoài
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình
với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh
Chƣơng 3:Giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức sản xuất chương trình
phát thanh, truyền hình với nước ngoài tại đài PT-TH Quảng Ninh


17


CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH
PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH VỚI NƢỚC NGOÀI
1. 1. Một số khái niệm
1.1.1. Tổ chức, sản xuất
Theo từ điển Tiếng Việt, tổ chức là việc sắp xếp, bố trí thành các bộ
phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung [25,
tr.157]. Tổ chức còn là “làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động
nào đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất”.
Hiểu theo nghĩa thông thường, tổ chức là:
- Sắp xếp, bố trí để làm cho có trật tự, nề nếp.
- Tiến hành một công việc theo cách thức, trình tự nào đó.
Tổ chức là liên kết nhiều người lại để thực hiện một công việc nhất định.
Tổ chức đặt ra để thực hiện nhiệm vụ. Mỗi tổ chức đều có mục đích, nhiệm
vụ riêng.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt, “sản xuất là tạo ra vật phẩm cho xã hội
bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động” [25,
tr.342], là hoạt động bằng sức lao động của con người hoặc bằng máy móc,
chế biến các nguyên liệu thành của cải vật chất cần thiết.
Như vậy, tổ chức sản xuất là làm những gì cần thiết để liên kết những
người lao động, các quy trình lao động tạo ra vật phẩm, đáp ứng nhu cầu thiết
thực cho xã hội, bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao
động, trên cơ sở các quy tắc nghề nghiệp và theo quy trình nhất định. Thực
chất của quá trình tổ chức sản xuất là việc phân chia quá trình sản xuất phức
tạp thành các quá trình thành phần (tức là các bước công việc), trên cơ sở đó
áp dụng những hình thức công nghệ, các biện pháp tổ chức phân công lao

18


động và các phương tiện, công cụ lao động thích hợp. Trong quá trình đó tìm
biện pháp phối hợp hài hòa giữa các bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất
nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Tổ chức sản xuất có vai trò quyết định
đối với hiệu quả của quá trình sản xuất.
1.1.2. Chương trình phát thanh
Phát thanh là kênh truyền thông đại chúng sử dụng kỹ thuật sóng điện từ
và hệ thống truyền dẫn truyền đi âm thanh tác động trực tiếp vào thính giác
người tiếp nhận. Chất liệu chính của phát thanh là nghệ thuật sử dụng lời nói,
tiếng động và âm nhạc trong việc phản ánh cuộc sống. [6, tr.160]
Có hai loại hình phát thanh chính là :
- Phát thanh qua làn sóng điện (vô tuyến)
- Truyền thanh qua hệ thống dây dẫn (hữu tuyến)
Tùy theo mục đích, người ta chia phát thanh thành các loại: phát thanh
thương mại, phát thanh quảng cáo, phát thanh giáo dục, phát thanh chính trị xã hội.
Về phương diện kỹ thuật, phát thanh được chia làm hai loại: AM và FM.
AM (Amplitude Modulation) là kỹ thuật điều biên được áp dụng trong phát
thanh sóng dài, sóng trung và sóng ngắn. FM (Frequence Modulation) là kỹ
thuật điều tần được áp dụng trong phát thanh sóng cực ngắn.
Phát thanh là loại hình truyền sóng tức thì vì vậy trở thành một loại hình
báo chí thông tin nhanh nhất. Cũng do cách thức truyền sóng đơn giản nên
phát thanh có khả năng phủ sóng rộng, vì vậy thông tin của phát thanh đến với
công chúng rộng rãi. Do chi phí thấp từ khâu sản xuất, phát sóng đến thiết bị
nghe nên phát thanh là loại hình báo chí rẻ tiền nhất nhưng lại tiện lợi nhất
bởi người nghe có thể nghe đài ở bất cứ đâu và ở bất cứ thời gian nào. Phát
thanh là một loại hình báo chí hấp dẫn, nó tạo ra hình ảnh thông qua ngôn ngữ
nói, gợi cảm xúc cho người nghe và đặc biệt phát thanh có khả năng tương tác
19



giữa người nghe và người làm chương trình phát thanh thông qua các chương
trình phát thanh trực tiếp.
Vậy như thế nào là chương trình phát thanh?
Theo định nghĩa của các tác giả trong cuốn “Báo phát thanh”thì:
“Chương trình phát thanh là sự liên kết, sắp xếp hợp lý tin, bài, băng tư liệu,
âm nhạc trong một thời lượng nhất định được mở đầu bằng nhạc hiệu và kết
thúc bằng lời chào tạm biệt nhằm đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan
báo phát thanh, đồng thời mang lại hiệu quả cao nhất đối với người nghe”
[23, tr.216].
Trong cuốn “Truyền thông đại chúng” của tác giả Tạ Ngọc Tấn có viết:
“Chương trình phát thanh là sự tổ chức các tin tức, bài vở, tài liệu cùng các
chất liệu khác trong phát thanh theo thời lượng nhất định, mục đích nhất
quán và nhằm vào đối tượng công chúng cụ thể.”[29, tr.117]
Trong cuốn “Lý luận Báo phát thanh” của tác giả Đức Dũng có viết:
“Chương trình phát thanh là sự sắp xếp một cách hợp lý các thành phần tin,
bài, băng âm thanh trong một chỉnh thể với khoảng thời gian xác định nhằm
đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền của cơ quan phát thanh và mang lại hiệu quả
cao nhất đối với người nghe.” [6, tr.103]
Còn tác giả Đinh Thị Thu Hằng trong cuốn “Báo Phát thanh Lý thuyết
và kỹ năng cơ bản” lại định nghĩa chương trình phát thanh như sau: “Chương
trình phát thanh là một chỉnh thể, trong đó các thành phần tin bài, âm nhạc,
lời dẫn...được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý trong một khoảng thời gian xác
định nhằm đáp ứng nhiệm vụ của cơ quan truyền thông và mang lại hiểu quả
cao nhất đối với người nghe.”[14, tr.103]
Có thể thấy mỗi tác giả có những cách định nghĩa khác nhau về chương
trình phát thanh, nhưng các định nghĩa trên đều có những điểm chung đó là:
Một chương trình phát thanh cần tới nhiều thành phần cấu thành. Đó là tin,
20



bài, âm nhạc, lời dẫn, nhạc hiệu,...Những thành phần này không thể để một
cách rời rạc mà cần được liên kết, sắp xếp, tổ chức sao cho hợp lý. Sự sắp xếp
hợp lý được hiểu là giữa các thành phần này phải có sự kết nối cả nội dung và
hình thức thể hiện. Nội dung cũng như thời lượng của mỗi chương trình phát
thanh được quyết định bởi kế hoạch tuyên truyền của cơ quan truyền thông.
Từ những định nghĩa trên tác giả luận văn xin đưa ra định nghĩa về
chương trình phát thanh như sau:
Chương trình phát thanh là một sản phẩm hoàn chỉnh trong đó các
thành phần như tin, bài, âm nhạc, lời dẫn được kết nối sắp xếp hợp lý theo
thời lượng nhất định, mục đích nhất quán, phục vụ đối tượng công chúng cụ
thể nhằm đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền của cơ quan truyền thông.
1.1.3. Chương trình truyền hình
Truyền hình là loại hình phương tiện thông tin đại chúng mới xuất hiện
từ khoảng giữa thế kỷ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh chóng, mạnh mẽ và
được phổ biến hết sức rộng rãi trong vòng vài ba thập niên trở lại đây.
Trong cuốn “Truyền thông đại chúng” của GS.TS Tạ Ngọc Tấn có
viết:“ Truyền hình là một loại phương tiện truyền thông đại chúng chuyển tải
thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô
tuyến truyền hình (television) bắt nguồn từ hai từ tele có nghĩa là “ở xa” và
“vision” là “thấy được”, tức là “thấy được ở xa.” [29, tr.127]
Trên phương diện kỹ thuật thì truyền hình là quá trình biến đổi năng
lượng ánh sáng thông qua ống kính máy thu hình thành năng lượng điện,
nguồn tín hiệu điện tử được phát sóng truyền đến máy thu hình và lại biến đổi
thành năng lượng ánh sáng tác động vào thị giác, người xem nhận được hình
ảnh thông qua màn hình.

21



×